Phần III

Phần III

Frank mở chốt cửa rồi đóng lại, quay sang hỏi tôi: “Ngạc nhiên không?”. Giọng nói nghe giống như của một người bạn đồng hành lần đầu tiên cùng chinh phục đỉnh núi ma thuật. Tôi nghĩ rằng những chuyện vừa qua là không thể tin nổi nhưng tôi vẫn trả lời: “Một chút!”. Có lẽ cơ thể và thần kinh của tôi đã trở về bình thường. Frank không còn cầm con dao trên tay nữa. Tôi chắc chắn đã nhìn thấy Frank cất chiếc bao cài con dao thon dài quấn quanh cổ chân. Chắc chắn là tôi đã nhìn thấy nhưng ký ức về nó rất mơ hồ.

“Nào! Đi thôi!” Frank nói và quàng tay lên vai tôi, bước ra ngoài đường rồi bắt đầu bước đi. Tôi có thể gạt cánh tay đó ra vừa gào thét “Đây là tên sát nhân” vừa bỏ chạy cũng không sao, nhưng tôi đã không làm như vậy. Đúng ra là tôi không thể làm như vậy. Không chỉ là vì tôi đang muốn mình được trở về trạng thái bình thường mà do thần kinh của tôi vẫn đang bị co ở đâu đó. Tôi vẫn đang nhức mỏi giống như khi nằm lâu, tim đang đập yếu và thị lực của tôi vẫn chưa bình thường. Mắt tôi cứ nhòe nhoẹt, nhức nhức giống như bị ánh đèn neon của các quán fuzoku quen thuộc chọc thẳng vào võng mạc. Trong lúc vô thức, tôi đi tìm Noriko nhưng không thấy bóng dáng cô ta đâu cả. Noriko đã ra khỏi quán trong tình trạng vẫn bị thôi miên. Không biết con người sẽ ra sao khi cứ bị thôi miên mãi như thế. Tôi nghĩ, giả sử Noriko có thoát khỏi tình trạng thôi miên, nhớ ra tôi và Frank, biết được tình hình ở cái quán đó thì cũng sẽ không hợp tác với cảnh sát mà ngược lại còn biến mất dạng luôn. Vì Noriko vẫn đang bị quản thúc nên sẽ không được tha nếu bị phát hiện là đang làm việc ở quán fuzoku.

“Kenji!”

Frank chỉ vào đồn cảnh sát lúc đi qua ngã ba.

“Sao cậu không chạy đi báo cảnh sát?”

Frank nói về những điều khủng khiếp đã xảy ra trong quán mà dây thần kinh của tôi như phải hứng chịu một sức ép rất lớn, toàn thân tôi cứ run lên bần bật không rõ nguyên nhân.

“Kenji! Từ trước tới giờ tôi chỉ toàn nói dối cậu, đó là do bất đắc dĩ mà thôi, đó là do phần não của tôi bị tổn thương, trong tôi những hồi ức không gắn kết với nhau, không chỉ có hồi ức không gắn kết mà bản thân tôi, con người tồn tại trong cơ thể tôi không phải là một mà là nhiều người, nó hoàn toàn không gắn kết lại thành một, tôi nghĩ con người mà đang nói với cậu đây mới là con người thật của tôi. Có lẽ cậu sẽ không tin nhưng những gì mà tôi đã làm ban nãy ở trong quán ấy đến bản thân tôi, tức là tôi, người đang nói với cậu đây cũng không thể lý giải được. Nếu tôi nói tôi đã trở thành một con người hoàn toàn khác thì thật đáng xấu hổ, thực ra là tôi có cảm giác tôi có một em trai sinh đôi giống hệt tôi, những việc như thế đã từng xảy ra rồi, tôi đã hết sức chú ý, nói là hết sức chú ý có nghĩa là trong khả năng có thể, tôi sẽ cố gắng hết sức sao cho không bị kích động, nổi cáu, nhưng, như tôi đã nói hôm qua rồi đấy, do một tai nạn giao thông mà tôi bị chấn thương sọ não, một bác sĩ đã nói với tôi như thế lúc nào đó, một cảnh sát đấy, à mà phải rồi, tôi cũng đã từng bị bắt và tất nhiên tôi đã từng nhận hình phạt, đó là hình phạt của cả Chúa và xã hội.”

Frank vừa nói những chuyện như thế vừa nhìn liên tục về phía đồn cảnh sát. Chúng tôi vừa đứng dựa vào bức tường bê tông ngay sát đường vừa nói chuyện. Đồn cảnh sát cách chỗ chúng tôi khoảng 20 mét, ngay cạnh cửa hàng thuốc có biển quảng cáo sáng rực đèn neon ghi dòng chữ: Drug, Drug, Drug. Nhìn thoáng qua khó mà nghĩ được đó là một đồn cảnh sát. Tòa nhà trông như mới xây, to hơn so với các đồn cảnh sát khác nên nhìn cứ tưởng là một cái gì đó khác như một khách sạn nào đó thu nhỏ hay là một lối vào của một khách sạn mini. Nhưng, tôi thấy bên trong có mấy viên cảnh sát. Thỉnh thoảng tôi còn thấy bóng dáng mấy người cảnh sát mặc áo chống đạn khá dày. Tôi thấy cửa sổ cũng được làm bằng kính chống đạn. Đó là đồn cảnh sát của Kabukicho.

“Bây giờ tôi muốn đi mua mấy cô gái điếm!”

Frank vừa hất cằm chỉ về phía mấy cô gái điếm đang đứng nép nép vào chỗ bóng tối của tòa nhà hắt xuống vừa nói.

“Sẽ là lần sex cuối cùng!”

Frank vừa nói vừa cười nhưng lại trông rất buồn.

Frank lấy trong túi áo jacket chiếc ví da, rút ra một tập tiền tờ 10.000 yên đưa cho tôi. Frank không cần đếm mà cứ thế nhét vào túi quần của tôi. Nhìn vào độ dày của tập tiền tôi có thể đoán chỗ tiền đó phải trên 100.000 yên.

“Còn khoảng 40.000 yên! Liệu có đủ không?”

Frank vừa hỏi vừa nhìn mấy cô gái điếm đứng ở phía bên đường và tôi đã nói:

“Phí vào cửa khách sạn là 30.000 yên nên tôi nghĩ 40.000 yên là đủ rồi!”

Khi tôi vừa nói vậy, Frank bắt đầu bước đi tới chỗ các cô gái điếm. Tôi bước theo sau trong trạng thái không biết phải làm gì. Tôi nghĩ chắc cũng không cần đến tôi dịch cho nữa. Tôi đi theo Frank và nói: “Tôi sẽ dịch chứ?” thì ông ta trả lời: “Tôi cũng chẳng biết nữa. Tôi không còn là khách hàng của cậu nữa. Kenji! Cậu được tự do rồi! Cậu cứ đi thẳng tới đồn cảnh sát cũng được! Nói với cảnh sát rằng tôi là một tên tội phạm! Tôi mệt mỏi quá rồi! Tôi đã đến Nhật Bản để tìm sự thanh thản, cái mà chỉ ở đất nước này có nhưng tôi lại toàn làm những chuyện không thể tưởng tượng nổi. Chính vì thế tôi muốn nhờ cậu, tôi muốn nhờ một người bạn là một công dân Nhật Bản như cậu, tất nhiên nếu cậu vẫn coi tôi là một người bạn thì tôi mới nói!”.

Cái mà Frank gọi là sự thanh thản ấy, Frank đã sử dụng từ tiếng Anh là “PEACE”. Tôi thấy có sự thành thật trong cách mà Frank nói ra từ đó. Nó truyền tải được cả nỗi cô đơn, buồn chán. Tôi bỗng thấy tin tưởng Frank. Tôi nghĩ lúc đó đầu óc tôi vẫn ở trạng thái bất thường. Đó là vì tôi vẫn chưa thể thoát khỏi cú sốc từ thảm kịch vừa rồi. “Cậu có hiểu cho tôi không?” Frank hỏi. “À, à…” Tôi trả lời. Frank lại tiếp tục bước xa tôi, tiến gần tới chỗ các cô gái điếm. Các gái điếm đứng ở đoạn đường này hầu hết là người châu Á, và toàn là các cô gái không thể làm việc ở các câu lạc bộ gái bán xuân có tính tổ chức như câu lạc bộ Hàn Quốc hay câu lạc bộ Trung Hoa. Có cả gái điếm già, mà số gái điếm do hội mafia bảo kê cả Visa lẫn công việc thì nhiều vô kể. Trong đó có một số ít là các cô gái thuộc khu vực Trung Nam Mỹ. Gái đứng đường người Colombia và Peru ở Okubo nhiều hơn ở đây. Nhưng có một số cô gái tự tách ra khỏi nhóm mà chuyển tới đây. Frank bắt đầu bắt chuyện, thương lượng giá cả với một cô trong số đó. Có vẻ như cô ta không hiểu tiếng Anh. Tôi nghe bập bõm thấy Frank nói mấy từ tiếng Tây Ban Nha như “tores”, “kuatoro” hay “bien” gì đó. Cô gái thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn Frank với nụ cười e thẹn. Những cô gái đó, tôi nghĩ, những cô gái đó vì không tìm được cách kiếm tiền nào khác nên phải đi bán xuân như thế này.

Họ khác với các cô nữ sinh enjokousai hay các cô ở Omiai Pub. Hầu hết những cô gái bán xuân ở Nhật bán cơ thể mình không phải vì tiền mà là để có thể chạy trốn khỏi sự cô đơn. Tôi có biết nhiều cô gái đã gom một lượng tiền lớn của họ hàng để rời Trung Quốc Đại lục tới đây. Việc như thế quả là bất thường. Bất thường hơn nữa là, không một ai nghĩ việc đó là một việc bất thường. Ví dụ như những người trưởng thành mà làm Enjokousai thường đổ tội cho người khác. Họ nghĩ rằng bản thân mình vô can với những chuyện như thế. Cô gái người Trung Nam Mỹ mà Frank đang thương lượng không hề mặc áo khoác trong khí trời giá rét này. Cô ta cũng không đi tất, túi xách làm bằng nylon trông như đi tắm biển, cổ quàng một chiếc khăn y như cô bé trong truyện Cô bé bán diêm. Những cô gái như thế để có thể có trong tay những thứ đồ thiết yếu tối thiểu nhất, đã bán đi thứ duy nhất có thể bán được. Đó là một việc xấu nhưng không hề bất thường. Cơ thể tôi bắt đầu trở về trạng thái bình thường, tôi dựng cổ áo khoác lên. Tôi đã có thể cảm nhận được tiết trời lạnh giá của ngày cuối tháng Mười hai ở bên ngoài cơ thể. Tất nhiên là tôi chưa hoàn toàn hồi phục từ cú sốc đó nhưng khi nhìn cô gái người Trung Nam Mỹ đang nói chuyện với Frank thì tôi có cảm giác như một lớp màng rất mơ hồ đang bao phủ cả Kabukicho này đã bị rách đúng một góc, và ở góc đó tôi nhìn thấy rất rõ. Frank đã nói với tôi rằng tôi hãy đến đồn cảnh sát. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng tôi vẫn chắc chắn Frank đã nói vậy. Không biết chuyện đó nghĩa là thế nào. Tôi đang đứng dựa vào bức tường ở giữa quán bar và khách sạn Tình yêu vắng khách. Cũng là vì ngày mai đã bước sang năm mới nên rất ít người đi lại trên đường, hội chào mời khách cũng đã mệt lả. Dãy cửa hàng bán mì, miến cũng đã đóng cửa hết, trước cánh cửa kính tối đen có con chó hoang gầy giơ xương đang cuộn tròn người nằm ngủ. Đám nhân viên hình như là đang học việc ở quán sushi đang đổ nước quét dọn đống nôn ọe trước cửa quán vốn đã đóng gần một nửa cánh cửa. Ánh đèn neon bị hỏng đang nhấp nháy phản chiếu vào thân chiếc xe đang đỗ chình ình ở bãi đỗ xe, có thể nhìn thấy rõ màu hồng, màu xanh lá mạ lúc ẩn lúc hiện. Sự cảm nhận về cái lạnh bắt đầu quay trở về cơ thể đúng lúc đó tôi nhận ra mình khát khô cổ họng. Tôi băng qua đường, đến chỗ máy bán hàng tự động mua một lon Java Tea uống ừng ực. Từ chỗ máy bán hàng tự động, tôi nhìn thấy một cửa hàng thuốc và đồn cảnh sát. Nhưng tôi không hề có ý định kể cho mấy người cảnh sát tất cả mọi chuyện về Frank. Tại sao tôi lại không chạy thật nhanh tới đồn cảnh sát để thông báo về những gì đã xảy ra ở quán tôi vừa ngồi? Tôi đang thoáng nghĩ như thế, quay về phía khách sạn Tình yêu thì đã không thấy Frank và cô gái Trung Nam Mỹ nữa.

Không thấy Frank, tôi bắt đầu lo lắng. Vừa đi tìm tôi vừa nhớ lại con người đó chính là một kẻ sát nhân. Đồn cảnh sát trước mặt chỉ còn cách tôi 3 mét. Chỉ cần đi bộ khoảng 20 giây là tôi đã vào trong cửa kính chống đạn rồi. Nếu chạy thì chỉ mất vài giây. “Ngươi đang nghĩ lệch lạc gì rồi!” Tôi nghe thấy rõ tiếng nói đó của tôi. “Người đàn ông đó là kẻ sát nhân, hắn đã giết bao nhiêu người mà lại giết một cách rất dã man, người đó là kẻ xấu.” Frank có thực sự là kẻ xấu không? Tôi đang nghĩ lệch lạc gì chăng? Tôi bước về phía đồn cảnh sát, một bước, hai bước. Tôi đã từng đọc ở đâu đó câu chuyện về một cô gái người Anh sau khi được cứu thoát khỏi tên bắt cóc đã nói rằng cô cảm thấy yêu tên bắt cóc hơn yêu cha, mẹ mình. Cụ thể hơn, đó là câu chuyện của cô gái làm ở ngân hàng Thụy Điển bị bắt làm con tin đã yêu tên bắt cóc. Trong lúc cùng cực, trong lúc xung quanh chỉ có một người có thể bảo vệ sinh mạng của mình chính là tên bắt cóc thì sự lôi cuốn gần giống với tình yêu đã nảy sinh. Frank đã không hề làm tôi bị thương. Frank đã túm tóc và cổ áo tôi, quăng tôi xuống sàn nhưng không hề bẻ cổ hay cắt tai tôi. Nhưng tôi nên tới đồn cảnh sát. Hành động đó không thể tha thứ được. Nên đến đồn cảnh sát. Chỉ còn ba bước chân nữa là đến rồi. Tôi dừng chân. Không hẳn là tôi muốn dừng lại mà chân tôi cứ đứng lại không nhích thêm bước nào. Hình như cái chân của tôi ghét phải vào trong đồn cảnh sát thì phải. Tôi đã uống cạn lon Java Tea. “Frank ghét bị bắt lắm chăng?” Tôi hỏi chính mình. “Không phải là thế!” Tôi nghe rõ có câu trả lời như vậy. “Không phải là thế!”

“Rốt cuộc đó là tiếng của ai vậy?” Tôi bắt đầu lẩm nhẩm trong miệng, tôi định uống thêm một ngụm nước Java Tea nữa nhưng trong lon không còn giọt nào. Tôi cứ liên tục đưa lên miệng lon Java Tea không. Phải gọi cho ai đó chứ? Nhưng ai? Gọi cho ai đây? vẫn có tiếng nói vang lên. Tôi rút chiếc điện thoại di động ra. Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh của Jun. Bác Yokoyama? Hay là gọi cho bác Yokoyama? “Ông ta là kẻ sát nhân đó, bác Yokoyama ạ, bây giờ cháu đang định tới chỗ cảnh sát khai báo, bác nghĩ thế nào? Rõ ràng là nên tới đó đúng không bác?” Tôi nhìn ra phía đường cái. Nhìn phía nào cũng không thấy bóng dáng của Frank đâu cả. Tôi không hề có một chút định hướng nào ở con đường này. Đây là con đường ngay phía sau Tòa thị chính nhưng tôi có cảm giác lạ lẫm cứ như là đang ở một khu phố của nước ngoài mà tôi chưa từng đặt chân tới. Tôi cũng có cảm giác như là đang lạc lối ở trong một giấc mơ. Tôi vẫn chưa hoàn toàn hồi phục từ cú sốc ban nãy. Tôi cứ tự nói và tự nghe. Tôi vẫn chưa thể kiểm soát được bản thân. Có một viên cảnh sát mặc đồng phục ra khỏi đồn và đang đạp xe về phía tôi.

Hình như viên cảnh sát đang nhìn tôi chằm chằm. Dường như tại nơi này chỉ có viên cảnh sát đó là đang sống, và làm việc. Chân của tôi như đang co cứng lại, cảm giác máu không hề lưu thông. Dường như đó không phải là chân của tôi. Từ phần hông trở xuống lạnh ngắt, không phải là do thời tiết đang lạnh, tôi lại đưa lon Java Tea lên miệng, chỉ thấy toàn vị của sắt, và vì thế tôi lại nhớ tới mùi máu tanh nồng ở cái quán đó, mắt tôi hoa lên. Viên cảnh sát đến chỗ ngã ba, và tôi vô thức đưa điện thoại ghé sát lên tai. Tôi giả vờ đang nói chuyện điện thoại. Viên cảnh sát không tới chỗ tôi mà rẽ sang trái, biến mất về phía khách sạn Tình yêu. Tôi vẫn cứ áp sát điện thoại vào tai mà nhìn theo. Tôi nhìn thấy chiếc xe đang từ từ chầm chậm rẽ sang góc đường như một cảnh quay chậm. Khi viên cảnh sát biến mất khỏi tầm mắt, tôi không dám khẳng định chắc chắn rằng viên cảnh sát đã đi hẳn qua hay chưa nữa. Một lúc sau tôi thấy tai rất đau và mới để ý rằng mình vẫn đang áp sát chiếc điện thoại vào tai. Tay phải tôi cầm điện thoại, tay trái tôi vẫn nắm chặt lon Java Tea. Trên bề mặt chiếc lon tôi thấy dính dính toàn mổ hôi. Điện thoại sau khi bỏ ra khỏi tai cũng đầy mồ hôi. Tôi không hề có cảm giác hay một sự cảm nhận nào về việc mình đã đổ mồ hôi. Tôi nghĩ toàn bộ lon nước Java Tea tôi đã uống đã thành mồ hôi chảy ra hết. Bản thân tôi không hề có ý định tới đồn cảnh sát. Cuối cùng tôi đã hiểu ra như vậy. Không phải thông báo cho cảnh sát cũng được. Nghĩ như thế tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn bao giờ hết. Không thấy bóng dáng của Frank, trong luồng suy nghĩ rằng không biết mình sẽ làm gì tôi đã quyết định không vào đồn cảnh sát nữa. Sẽ trở nên-phiền-toái-khi nói chuyện với cảnh sát về mọi chuyện. “Phiền toái bỏ xừ!” Tôi lẩm bẩm. Và trong lúc không để ý tôi đã nhoẻn cười. Có khi tôi sẽ bị cảnh sát thẩm vấn mấy chục tiếng đồng hồ ấy chứ! Tôi đã làm công việc hướng dẫn viên du lịch mà không hề xin cấp phép. Đó mới là vấn đề chính. Bác Yokoyama cũng sẽ bị liên luỵ. Mẹ ở nhà cũng sẽ rất buồn phiền, và không những sau này tôi sẽ mất việc mà tôi còn luôn bị cảnh sát để mắt tới. Tôi biết cách làm việc của hội cảnh sát. Có khi tôi còn bị kết tội đồng phạm nữa ấy chứ. Mẹ sẽ rất buồn phiền cho xem. Khi tôi nghĩ thế một lần nữa tôi lại hình dung ra cô số 3 và ông khách hát bài của Mr. Children… Họ cũng có giả định. Tôi bỗng nhớ tới những xác chết và hiện trường vụ giết người đó. Hình ảnh đó vụt lên trong đầu tôi như là lúc đèn chớp của máy ảnh lóe sáng khi bấm máy chụp. Nhưng tôi không hề cảm thấy có một chút gì là thảm khốc. Âm thanh của chiếc cổ khi bị bẻ cũng đã vọng lại trong đầu tôi nhưng tôi cũng chỉ nghĩ được rằng sẽ thật là thảm khốc khi cơ thể con người bị phá hủy. Có lẽ dây thần kinh của tôi vẫn đang bị tê liệt thì phải. Tôi đã cố gắng rặn ra ý nghĩ rằng những người bị giết ở cái quán đó thật là đáng thương, những cái chết đó thật đáng sợ. Nhưng tôi không tài nào làm được.

Tôi mới gặp Frank có hai ngày, và chỉ vừa mới gặp những người đã chết ở quán vài giờ. Lẽ nào tôi đã dồn hết tình cảm vào Frank? Tôi nghĩ, lẽ nào chính vì thế mà tôi không hề có một chút tình cảm hay sự cảm thông nào. Có vẻ như cũng không hẳn là vậy. Tôi không hề có cảm tình với Frank. Frank có bị bắt hay chết đi thì có lẽ tôi cũng chẳng buồn chút nào. Những người đã bị giết ở quán kia như là những con rô bốt hay búp bê không hơn không kém. Cô số 2 nói rằng đang rất cô đơn. Cô ta muốn làm một việc nào đó khác nhưng không biết việc đó là việc nào nên đã đến quán bar để tìm ai đó tâm sự. Cô số 3 cũng vậy. Cũng chẳng biết làm gì nên đã một mình hát bài của Amuro ở một nơi cô đơn như thế. Ông khách hát bài của Mr. Children thương lượng với cô số 5, nói với cô ta rằng cô ta là loại người thích Tele Club. Cô số 5 sau khi nghe vậy cũng chỉ nói đại loại như ông ta là một người biết rõ cô ấy chứ không hề nổi cáu. Ông chủ là một người đàn ông điển hình của Mizu shobai (dân làm về dịch vụ, môi giới và đi chào mời khách). Đó là kiểu người lãnh cảm, không hề ghen tuông hay có máu ăn thua, dù thấy người con gái của mình hay một cô gái thân quen nào làm gì với người đàn ông khác cũng bỏ qua không ho he gì. Còn anh chàng phục vụ là một thanh niên trẻ hình như chơi cho một ban nhạc nào đó. Là một thanh niên có ít nhiều hiểu biết về âm nhạc. Anh ta cũng không hề có ý định đi sâu hay tìm hiểu kỹ về lĩnh vực âm nhạc mà tham gia vào ban nhạc đơn thuần chỉ là do muốn có bạn có bè. Tất cả đều như tuân theo sự ra lệnh của ai đó mà đảm nhiệm những vai diễn khác nhau. Khi chạm vào người họ tôi cảm thấy đó không phải là da thịt mà có cảm giác như con thú được nhồi mùn cưa hay mảnh vụn nylon làm tôi khó chịu. Ngay cả khi tôi nhìn thấy phần cổ của cô gái bị cắt và máu chảy từ từ, tôi cũng không có một cảm giác sợ hãi nào cả. Tôi còn tưởng tượng rằng chỗ máu đang chảy từ cổ họng của cô số 5 là nước tương dùng để ăn món Sashimi. Cô số 1 thì như là một người giả vậy. Cô gái có tên Maki ấy suốt từ lúc sinh ra chưa bao giờ từng nghĩ rằng thứ như thế nào mới xứng với bản thân mình hay bản thân mình thực sự muốn làm cái gì. Cô ta chỉ tin rằng nếu được bao bọc bởi những thứ hạng sang, thượng lưu là sẽ trở thành người của tầng lớp thượng lưu. Và cô ta chỉ nghĩ đơn thuần rằng những thứ đồ hạng sang thuộc hàng thượng lưu chính là đậu phụ có giá 500 yên một bìa, một gói Sashimi làm từ cá tráp thiên nhiên có giá 2.000 yên, trang phục phải của Junko Shimada, ở khách sạn Hilton của Disney Land, phải ngồi ghế hạng nhất hay ghế đặc biệt khi đi máy bay… Cô ta tin rằng những người thường xuyên có trong tay những thứ như thế chính là những người thuộc tầng lớp thượng lưu, và cũng tin rằng vì bản thân mình cũng hay đi cùng họ nên cũng là người thuộc lớp thượng lưu rồi.

Họ như là những người giống như rác rưởi vậy. Bản thân tôi đây cũng chẳng khác gì. Tôi không có điểm nào khác với họ. Chính vì thế tôi hiểu rõ họ và tôi cảm thấy tức tối. Ở phía lối vào của quán bar nằm chênh chếch đồn cảnh sát có một cậu thanh niên mặc áo sơ mi màu ánh bạc, đeo ca vát thắt nơ hình con bướm màu đỏ đang vừa xoa hai tay liên tục vào nhau vì lạnh vừa chào mời khách qua đường. Ở chiếc cổng hình bán nguyệt, ánh sáng được phản chiếu bởi những ống đèn neon khiến mặt của cậu thanh niên lúc thì có màu da cam lúc thì có màu tím. Tranh thủ lúc trên đường không có ai qua lại, cậu ta ngáp lấy ngáp để. Ban nãy cậu ta đã vỗ vào đầu con chó hoang lúc nó đi qua. Tôi lúc thì đi hướng dẫn cho người nước ngoài đến những quán giải khát, quán thoát y vũ hay câu lạc bộ hẹn hò, lúc thì giúp đỡ các cô gái, toàn làm những việc chẳng có gì là đáng tự hào, chẳng khác mấy so với cậu thanh niên mặc áo sơ mi kia. Gần hai năm làm công việc hướng dẫn người nước ngoài tôi đã nhận ra một điều: Những kẻ đáng ghét sẽ giao tiếp với hình dáng đáng ghét. Khi con người bị “hỏng” thì việc giao tiếp với họ cũng sẽ “hỏng” theo. Nếu ta không tin vào những lời người khác nói thì người đang nói những lời khó tin đó chính là những người không đáng tin. Ở quán rượu đó mọi người toàn nói những chuyện khoác lác. Vì đó là quán giải khát ở khu phố ăn chơi, hoan lạc nên tất cả mọi người chẳng có lý gì để nói thật cả và càng không có kiểu nói chuyện tâm tình nghiêm túc. Nhưng không phải ở đâu cũng vậy. Ví dụ như các cô gái ở câu lạc bộ Trung Hoa hay câu lạc bộ Hàn Quốc vì muốn có tiền boa nên chẳng ngại nói dối. Thế nhưng, quá nửa số tiền mà các cô đã kiếm được gửi về quê nhà. Đó là số tiền để nuôi gia đình. Các cô gái đến từ Trung Nam Mỹ cũng vậy, họ đã bán cơ thể mình để gửi về cho gia đình mua một chiếc ti vi. Những cô gái đó rất nghiêm túc. Họ có mục đích rõ ràng nên không hề cảm thấy hoang mang, lạc lối cũng như không hề cảm thấy.. cô đơn. Không thể cho trẻ con đến và xem những nơi như quán bar đó, không phải vì là nó bẩn mà là vì những người ở đó đang sống không thể nghiêm túc. Cả ông chủ và anh chàng phục vụ đều giống nhau, đều vì một lý do là cô đơn nên đã ở trong quán đó để giết thời gian. Những người đã chết ở trong quán chính là những người kiểu như thế. Tôi không hề có tâm trạng, có ý chí vì bọn họ mà tới đồn cảnh sát để bị thẩm vấn nhưng không biết tự bao giờ tôi đã cất bước đi về phía đồn. Tôi đã có tâm trạng buông xuôi, nghĩ rằng chỉ có cách đó. Không có lý do gì khi phải đi quanh quanh tìm Frank đã biến mất trong khách sạn Tình yêu. Và cũng chẳng có lý do gì để trở về căn hộ của mình, nói với Jun rằng mình đã nhìn thấy kẻ sát nhân. Không còn việc nào để làm bây giờ nữa ngoài việc tới đồn cảnh sát. Lòng vòng một hồi lâu tôi bắt đầu thấy nóng ruột. Cơ thể của tôi phát ra một tín hiệu. Đó là tín hiệu nguy hiểm.

Từ gót chân hay từ một phần của trái tim, tín hiệu được chuyền đến. Có điều gì đó rất lạ và khó lý giải. Bình thường ra thì điều đó khó mà tin được hay chấp nhận được, nhưng khi bị sốc, do các giác quan đang bị tê liệt nên ta lại tin luôn. Tôi có cảm giác như đang lừa dối bản thân. Tôi dừng lại không đi về hướng đồn cảnh sát nữa, đứng dựa vào bức tường, nhớ lại những gì đã xảy ra một lần nữa rồi sắp xếp lại. Tại sao Frank lại thảm sát ở cái quán đó? Dù có suy nghĩ đến nát óc cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì cho dù tôi có nghĩ thì cũng chẳng hiểu gì hết. Còn nữa, hãy thử suy nghĩ xem tại sao Frank không giết tôi? Tôi đã nói với Jun bằng tiếng Anh rằng sau một tiếng nữa mà không thấy tôi thì hãy tới đồn cảnh sát. Tất nhiên tôi đã cố tình nói bằng tiếng Anh để cho Frank nghe rõ.

Mà không biết từ lúc đó tới giờ, thòi gian trôi qua được bao lâu rồi? Tôi nhìn đồng hồ. Vừa mới qua 12 giờ đêm. Không biết là máu của ai dính trên mặt đồng hồ, vẫn còn chưa khô hết. Tôi nghĩ chắc là do tôi đã nói với Jun như thế nên Frank không dám giết tôi. Nếu Jun báo cho cảnh sát biết thì sẽ rắc rối đây. Nghĩ đến đó, cảm giác sợ hãi lại ập đến trong tôi. Tôi có vẻ như để ý tới cái gì đó. Nhưng ý thức của tôi lại ghét việc để ý đó. Vì sợ hãi mà ý thức của tôi ghét việc hồi tưởng. Sự sợ hãi làm cho chân và cơ bắp của tôi run lên, bao phủ cả hai bên thái dương. Vì nỗi sợ hãi tột độ đó mà tôi không thể suy nghĩ được gì. Và não của tôi cũng bắt đầu chán việc suy nghĩ. Tôi cố gồng hết sức nói với bản thân: “Hãy suy nghĩ đi!”. Chỉ cần nhớ lại mặt, giọng nói của Frank là tôi đã thấy rùng mình ớn lạnh, và cơn buồn nôn lại tới. Nước Java Tea đang ựa lên trong họng, òng ọc ngay trong miệng tôi. Khi Frank giết từng người từng người một, tôi không kịp phản ứng gì đã nôn ộc ra một đống. Bây giờ khi nhớ lại tôi lại thấy buồn nôn kinh khủng. “Ọe”. Tôi nôn thốc nôn tháo toàn nước Java Tea cùng với chất dịch trong dạ dày. Tôi không thể nghĩ ra lý do nào khác ngoài lý do tôi đã gọi cho Jun để giải thích cho việc Frank đã không giết tôi. Tôi cũng không thể nghĩ rằng Frank đã có tình cảm đặc biệt đối với tôi, không như những người trong quán. Không! Giả sử ông ta có tình cảm đặc biệt đi chăng nữa tôi không thể nghĩ rằng ông ta lại do dự không giết tôi. Con dao thon dài được gí sát vào cổ tôi, sau khi tôi nghe điện thoại của Jun xong thì nó lại được rút về. Vậy mà ban nãy Frank còn nói gì nhỉ? “Cậu hãy tới chỗ cảnh sát đi! Kenji! Tôi muốn giao phó phần cuối cùng của cuộc đời tôi cho cậu.” Đó là câu nói dối. Nghĩ tới đó, bất chợt tôi có một linh cảm khác lạ, khi quay lại thì thấy Frank đứng như đang chúi vào người tôi.

Frank đứng ngay sau vai tôi, tầm mắt của tôi như bị che hết, và tôi không còn nhìn thấy đồn cảnh sát nữa. Tôi đang như người mất hồn mà cũng cảm thấy bất ngờ. Đến tận bây giờ tôi vẫn có cảm giác bị nén chặt xuống, cứ như bị ai đó giẫm lên. Mà cũng như thể ai đó đang định nuốt chửng tôi. Tôi như bị thu nhỏ lại thành một mô hình vậy.

“Rốt cuộc cậu đang làm gì vậy? Kenji?”

Frank nói. Giọng của Frank không đến mức to lắm nhưng tôi có cảm giác như cơ thể tôi đang bay bổng lên cao. Lẽ nào Frank đã cùng cô gái đến từ Trung Nam Mỹ vào trong khách sạn Tình yêu? Có một chiếc xe ô tô đang đi tới và trong thoáng chốc chiếc đèn pha của xe chiếu rọi vào khuôn mặt của Frank. Lúc Frank định nói tiếp, tôi nhìn thấy rõ bên trong miệng của Frank có cái gì đó ánh lên giống như là sắt.

“Tại sao cậu không tới đồn cảnh sát?”

Frank cho cái gì đó vào trong miệng, và đang cuộn tròn bằng lưỡi. “Ông đang nhai kẹo cao su hay gì đó?” Tôi hỏi. Tôi cũng chẳng hiểu tại sao tôi lại hỏi như vậy. Đó là câu hỏi tôi tự dưng buột miệng nói vậy chứ không phải để phản ứng lại câu hỏi của Frank. Chính vì thế, đó không phải là một cuộc hội thoại. Tôi không ở trạng thái tinh thần sẵn sàng đối thoại. Tôi có cảm giác giống như khi chạm phải chiếc chảo nóng thì có phản ứng tự rụt tay lại, chẳng kịp suy nghĩ gì cả, chỉ đơn giản là tôi muốn hỏi trong miệng Frank có cái gì mà thôi.

“À! Cái này ấy hả?”

Frank tỏ vẻ như là đang nhớ ra điều gì đó quan trọng, lấy thứ đó ra khỏi miệng và cho tôi xem. Đó là một chiếc nhẫn được làm từ chất liệu như ngà voi hay đồi mồi, có hoa văn là sự kết hợp giữa hình con rắn và mặt trời.

“Cô gái ban nãy đã cho tôi đấy! Cô ấy đến từ Peru, biết một chút tiếng Anh. Cái này được nhặt ở biển gần Inca. Nói thế nào nhỉ? Đó là phần cốt xương của bọt biển có thành phần chủ yếu là đá vôi. Người ta đã dùng một phương pháp đặc biệt để làm cứng các mảnh vụn của nó rồi tạo ra chiếc nhẫn như thế này. Nếu cho vào miệng nó sẽ tan dần, nó chứa rất nhiều canxi. Cô gái đó đã nói với tôi: “Ở những nền văn minh như Maya, Tolteka, Azteca đều có tập tục ăn thịt người, nhưng ở Inca không hề có, không phải vì có thịt Llama (Một loài thú có vú thuộc họ lạc đà) và thịt chuột bạch mà là vì có bọt biển với thành phần chính là đá vôi.” Cô gái đã nói với tôi thế đấy! Kenji! Cậu có biết không? “Canxi giúp cho con người ta thư giãn, bình tâm, có lẽ nó cần thiết cho ông lúc này.” Cô gái đã nói với tôi như thế đó. Cô ấy vô cùng dịu dàng và có vẻ như rất hiểu tôi. Khi tôi nếm thử tôi thấy đúng là cái tâm của tôi trở nên hài hòa, tĩnh lặng”.

Frank rất hồ hởi, phấn khởi cho tôi xem chiếc nhẫn đó. Sau khi chùi bằng chiếc áo bị vấy bẩn bởi các chất nôn mửa, chiếc nhẫn được giơ cao trước mặt cho tôi xem. Nó nhìn giống như một thứ làm từ gốm sứ.

“Frank này! Không phải là ông được cho mà ông đã giết rồi lấy có phải không?”

Tôi hết sức ngạc nhiên khi chính tôi đã hỏi thế. Có ai đó, một người hoàn hoàn khác đang nấp trong người tôi và đã cất tiếng hỏi Frank như thế. Cả tiếng của tôi và tiếng của Frank đều vang vọng. Giống như là chúng tôi đang nói chuyện ở trong một cái hang. Tim tôi đập thình thịch. Phần cằm và hàm răng dưới cứ run lên bần bật.

“Tôi không giết!”

Vừa nói Frank vừa hất cằm chỉ về phía đầu đường. Cô gái cầm chiếc túi nylon đang đứng gần như là đúng chỗ cô ta đã đứng ban nãy. Frank vẫy nhẹ tay về phía đó và cô gái cũng giơ tay vẫy đáp trả. “Ban nãy ông đã đi đâu vậy?” Tôi hỏi.

“Tôi chẳng thấy bóng dáng của ông và cô gái đâu cả!”

Tự nhiên tôi lại buột miệng nói vậy.

“Tôi và cô gái đứng ở chỗ bóng tối của khách sạn rồi sau khi nói chuyện một chút, tôi vòng ra đằng sau khách sạn quan sát cậu.” Frank nói.

“Hả? Thật vậy sao?” Thật ngạc nhiên là tôi lại cười toét khi nói chuyện với Frank. “Tôi cứ nghĩ là ông đã vào hẳn bên trong khách sạn.”

Không phải là chính tôi tự suy nghĩ xem định nói cái gì, chọn từ như thế nào hay sắp xếp câu văn trong đầu ra sao mà như có một người khác đang mượn cơ thể của tôi mà nói chuyện với Frank. Tôi nghĩ có lẽ tôi đang bị thôi miên cũng nên.

“Frank! Ông đang thôi miên tôi đó à?”

“Đâu có!” Frank nói nhưng vẻ mặt rất đáng ngờ. Không đáng sợ. Mà có lẽ tôi đang bị loạn trí. Tôi không hề nghĩ gì mà cứ thế nói tuôn ra. Tôi không hề có ý định nói vậy mà tôi cứ vừa nghĩ tới từ nào là tự động miệng tôi phát ra từ đó. Cằm của tôi cứ rung lên, càng cố ngăn lại thì nó lại càng rung tợn. Răng của tôi phát ra những âm thanh không thể kiểm soát nổi.

“Cậu có ổn không vậy?” Frank vừa nhìn chằm chằm vào tôi vừa hỏi. “Mắt của cậu trông lạ lắm, nó cứ giật giật, tôi chẳng biết cậu đang nhìn đi đâu nữa. Kenji! Cậu thấy khó chịu ở đâu à? Cậu có hiểu tôi không đấy!”

Tôi không đáp trả câu hỏi đó của Frank mà vẫn vừa cười vừa lảm nhảm: “Frank! Ông nói câu đó nghe kỳ quá!”. Tôi nghe rất rõ giọng nói của mình vang vọng trong đầu. Tôi không thể thôi cười dù tôi đã cười khá là lâu. Tôi nghĩ tôi sẽ bị loạn óc mất. Một bộ phận trong não đang trở nên hỗn độn. Tôi có cảm giác mọi thứ trong đầu tôi đang hoạt động lung tung hết cả. Tôi không hề muốn nói một điều gì vậy mà cái miệng của tôi cứ thế tự há ra như đang định nói gì đó. Tôi biết rõ rằng đâu đó trong đầu tôi đang lùng sục tìm kiếm các câu từ. Cái gì cũng được miễn là nói. Hễ có một suy nghĩ nào đó là nó tự động chuyển thành từ, thành câu luôn. Tôi có cảm giác chỉ có chức năng nói là đang hoạt động. Nếu bây giờ mà có con chó nào chạy qua đây là chắc chắn tôi sẽ nói ngay lập tức: “A! Con chó!”. Và chắc chắn chỉ cần tôi nhớ lại ngày xưa tôi đã từng nuôi một chú cún là tôi sẽ buột miệng ra nói với Frank ngay rằng: “Ngày xưa tôi đã từng nuôi một chú cún con đó!”.

“Ông sẽ giết tôi à?”

Tôi nói với Frank như thế. Y như một đứa trẻ con, cứ vừa tưởng tượng ra cái gì là nói ngay cái đó chẳng hề suy nghĩ. Nói xong, thật kỳ lạ, cằm của tôi không rung lên nữa và mọi thứ đã trở về bình thường.

“Tôi đã từng có ý định như thế.” Frank nói.

“Thế nhưng tôi đã dừng việc giết chóc lại rồi.”

Khi nghe Frank nói như vậy tôi bật khóc. Tôi không thể để Frank nhìn thấy tôi khóc nên tôi cúi xuống. Tôi vừa nhìn những giọt nước mắt rơi xuống nền bê tông khô cứng vào buổi tối vừa nghĩ đó thật là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi lan tỏa khắp cơ thể, thay vì gào thét lên thì tôi lại cứ tự động buột miệng nói ra những gì vừa nghĩ tới. Frank nói đã dừng việc giết chóc. Tất nhiên thế không có nghĩa là Frank đang nói toàn sự thật. Nhưng dẫu đó có là câu nói dối chăng nữa thì tôi cũng cảm thấy bình tâm trong phút chốc. Tôi vừa lấy cổ tay áo khoác vừa chùi nước mắt vừa cố điều khiển sao cho có thể nói được câu: “Thật chứ? Thật là ông sẽ không giết tôi chứ?”. Tôi lại nghe thấy câu nói: “Có lẽ sẽ vẫn bị giết đó”. Đồn cảnh sát ở ngay sau lưng của Frank. Có lẽ dẫu tôi có tức tốc chạy về hướng đồn cảnh sát thì Frank cũng sẽ tóm được tôi và giết tôi trong phút chốc. Ông khách hát bài của Mr. Children đã bị bẻ gãy cổ chỉ trong tích tắc. Hơn nữa chân của tôi cứ chùng lại, cả người tôi không tài nào nhích lên để chạy được.

Frank như choàng lấy vai tôi bước đi. Tôi ngoảnh lại nhìn về phía cô gái đến từ vùng Trung Nam Mỹ. Cô gái cũng nhận ra và giơ tay vẫy Frank.

“Cô gái là một người tuyệt vời!”

Frank vừa chậm rãi rảo bước vừa nói như vậy với cảm giác như đang hoài niệm về một điều gì đó.

Tôi bị lóa mắt bởi ánh sáng đèn của một hiệu thuốc được trang trí khá là cầu kỳ và tôi chợt nhận thấy chúng tôi đang đi ngang qua đồn cảnh sát từ bao giờ. Ở phía lối vào của đồn cảnh sát được trang bị kính chống đạn có đặt một cây thông được trang trí đèn, quả… Ở bên trong, có ba viên cảnh sát đang vừa uống trà nóng vẫn đang tỏa khói vừa cười nói điều gì đó. Vậy mà ở đây có một tên giết người hàng loạt đang ung dung bước đi. Tôi nghĩ trong đầu như vậy. Những người cảnh sát đó chẳng mảy may biết gì. Không phải là vì họ thờ ơ với công việc. Hiện tại, chốt cửa ở quán bar đó đã đóng và sẽ chẳng có vị khách nào thấy nghi ngờ. Chẳng ai thèm quan tâm xem các quán fuzoku khi nào đóng cửa cả. Giả sử sau khi hết bị thôi miên, Noriko có quay trở lại quán thì có lẽ cô ấy cũng sẽ chỉ nghĩ rằng quán hôm nay có việc gì đó nên mới đóng cửa sớm như vậy. Không ai có thể suy đoán rằng có mấy người cả nam lẫn nữ đã bị giết ở bên trong. Có thể sẽ rất lâu sự việc mới bị phát hiện. Khi đi qua đồn cảnh sát, Frank liếc nhìn thật nhanh vào bên trong với vẻ mặt rất thản nhiên rồi hỏi tôi: “Tại sao cậu không tới đó báo cho họ?”.

“Không phải! Đúng lúc tôi định đi thì ông lại xuất hiện.” Tôi đáp.

“Vậy hả?” Frank lại tiếp tục đưa vào miệng chiếc nhẫn được làm từ bọt biển có thành phần chính là đá vôi. Tôi linh cảm có điều gì đó. Tôi có cảm giác như có cái gì đó đã kết thúc. Có mấy xác chết đang nằm ở trong cái quán ấy. Tôi đang bước đi cùng với một tên sát nhân và vừa bước qua đồn cảnh sát. Đồn cảnh sát được trang trí để đón năm mới còn đám cảnh sát thì đang cười nói vô tư. Tôi có cảm giác như vụ giết người hàng loạt ở quán bar đã xảy ra cách đây 10 năm và hiện giờ mọi người đã lãng quên hoàn toàn.

“Vì cậu coi tôi là một người bạn nên đã không tới đồn cảnh sát khai báo phải không?”

Frank vừa ngoái lại tới hai, ba lần để chắc chắn rằng đang ở chỗ khá xa đồn cảnh sát vừa hỏi tôi với vẻ mặt rất nghiêm túc.

“Không phải!” Tôi thẳng thừng đáp. “Không phải! Bản thân tôi cũng chẳng biết nữa!”

“Nghĩa vụ của công dân là phải khai báo thông tin về tên tội phạm mình đã nhìn thấy cơ mà? Hay là vì cậu đã cảm thấy rằng sẽ bị tôi giết chết?”

“Không! Tôi tưởng ông và cô gái Trung Nam Mỹ đó đi vào khách sạn chứ tôi không hề nghĩ rằng ông đang theo dõi tôi!”

“Vậy sao?” Frank nói rồi lại lẩm bẩm: “Vậy là đã không có sự lệch lạc! Thế là tốt rồi!”.

“Sự lệch lạc.” Ý Frank nói có nghĩa là cả hai đã đều đánh mất cơ hội gặp mặt.

“Ban đầu tôi định thử cậu xem cậu có coi tôi thực sự là bạn không. Tôi đã tới gần đồn cảnh sát một mình nấp ở đó để quan sát và nghĩ rằng nếu cậu có ý định tới đồn để khai báo thì tôi sẽ lao ra giết cậu. Vì cậu mà tới đó khai báo thì chứng tỏ cậu không coi tôi là bạn mà! Trên đời này chẳng có kẻ nào lại đi tố cáo bạn của mình cho cảnh sát cả. Tôi cũng nghĩ kẻ như thế có giết cũng chẳng đáng. Còn cậu thì thế nào? Kenji? Cậu có nghĩ rằng việc bán đứng bạn cho cảnh sát là chuyện nhỏ không?”

Khi tôi định trả lời là tôi cũng chẳng biết nữa thì tiếng điện thoại trong túi ngực áo khoác của tôi vang lên. Vừa lúc đó có tiếng xe tải chạy ngang qua nghe rất ồn nên tôi đứng dựa vào tường cầm điện thoại bằng hai tay như giấu đi, tôi ấn nút nhận cuộc gọi. Đó là Jun.

“Anh Kenji à?”

“À! Anh đây!”

“Có ổn không?”

“Ổn em ạ!”

“May quá! Em về nhà rồi! Em điện hơi muộn, xin lỗi anh nhé!”

“Không sao đâu! Đừng để ý làm gì!”

“Anh vẫn đi cùng Frank đấy à?”

“Đúng! Bây giờ anh đang ở Kabukicho, mà em về nhà như thế là đúng lắm!”

“Em đã rất lo! Ban nãy em có gọi điện, ông cảnh sát nói là có chuyện gì thì em lại dập máy luôn. Mà trước đó Frank cũng đã nghe máy, ông ta đã bị say à?”

“Ừ! Ông ấy say!”

“Này! Anh nói là hãy gọi cho cảnh sát! Em chẳng biết phải nói gì, nói như thế nào cho họ hiểu nữa! Em đã nói là có một ông Tây tên là Frank và bạn trai của tôi đang đi cùng ông ta, ông ta là một người rất nguy hiểm, nếu một tiếng sau mà không liên lạc được bằng điện thoại thì hãy báo với cảnh sát. Nhưng nghe xong chẳng ai hiểu em nói gì cả!”

“Không hiểu hả?”

“Kenji!”

“Gì thế?”

“Có thật là không có chuyện gì không?”

“Không có thật mà!”

Jun im lặng một hồi lâu rồi nói.

“Kenji! Giọng anh cứ run run ấy!”

Frank nhìn chằm chằm vào tôi mà không hề biểu lộ gì.

“Em sẽ lại gọi cho anh nhé!” Jun nói. “Anh cũng gọi cho em đấy! Anh lưu số điện thoại của em rồi, đêm nay em sẽ thức!”

“Anh hiểu rồi!” Tôi vừa đáp, ấn nút tắt vừa tự hỏi giọng của mình hôm nay run sao? Tôi không hề nhận ra là giọng của mình đang run run. Bản thân tôi không rõ tôi ra sao nữa. Nếu không có người khác nói hoặc không so sánh với người khác thì tôi chẳng biết gì. Nếu được thì tôi muốn được một người đáng tin và thân thiết nói rằng trông hơi lạ đó hoặc là chẳng thấy lạ ở đâu cả. Tôi cũng muốn so sánh bản thân với một người mà trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không hề thay đổi việc nói, việc nghĩ và cả thái độ nữa. Nói chuyện với Jun mà tôi thấy có cảm giác rất lạ. Tôi chỉ có thể nói chuyện được với Jun có chút xíu thôi tôi đã có thể lại nhớ tới bản thân tôi lúc trước khi Frank bắt đầu vụ sát hại. Và khi dập máy, quay sang nhìn Frank tôi có cảm giác như bị hút một lần nữa vào trong cái lỗ đang há hết cỡ. Tôi hiểu rằng tôi chạm vào thế giới bên ngoài chỉ trong một phút rồi lại bị đóng sập ngay ở đâu đó.

“Cô ấy đang ở phòng của cậu à?” Frank vừa bước tiếp vừa hỏi.

“Không! Cô ấy đã về nhà của mình rồi thì phải!” Tôi đáp. Nghe tôi nói thế Frank đã phát ra một tiếng rất khó hiểu. Nghe vừa có cảm giác an tâm vừa có cảm giác bất bình. Giọng không trầm cũng chẳng bổng.

Đối với Frank không thể không nghĩ rằng tất cả những linh cảm xấu sẽ thành hiện thực, và phải nghĩ rằng tất cả những điều Frank nói đều là lời nói dối. Chắc chắn rằng Frank biết căn hộ của tôi. Người đã dán mảnh da trên cửa chính là Frank. Nhà của Jun ở Takaido, có lẽ Frank không biết địa chỉ cụ thể. Tôi nghĩ Frank không thể giết Jun được.

“Cô gái Peru đó sống ở Nhật ba năm rồi!” Frank vừa bước đi vừa bắt đầu nói. “Cô ấy đã tiếp khoảng gần 500 khách, trong đó khoảng 450 người là người Nhật, hình như có cả người Iran và người Trung Quốc. Cô ấy theo đạo Thiên Chúa, cô ấy nói ở đất nước này Chúa Giêsu đã mất hết quyền năng. Tôi cũng phần nào hiểu điều đó, không thể giải thích dễ hiểu nhưng tôi có cảm giác là tôi hiểu. Khoảng tầm này năm ngoái cô gái đó đã trải qua một việc rất khủng khiếp và đã được cứu. Kenji này! Tối ngày mai ở đất nước này, chuông cứu thế có reo lên không?”

Ban đầu tôi không hiểu là Frank đang nói gì. Frank lại nói từ “bell” (chuông), sau đó lại giải thích thêm bằng từ “gong” (cồng chiêng).

“Cô ấy đã nếm trải không biết bao nhiêu cay đắng cuộc đời. Không phải là những chuyện như bị đánh hay bị cưỡng ép làm gì đó. Chính cái gọi là sức ép, sức mạnh của tập thể mới là điều cay đắng nhất. Cô ấy cũng nói thêm rằng, chẳng bao giờ cô ấy nghĩ tới cái gọi là khoảng cách giữa con người và con người với nhau. Người Nhật thường kết bè kết cánh để bao vây đối phương và cũng thường nói xấu ai đó theo hình thức tập thể; họ làm việc đó một cách thản nhiên mà không hề nghĩ rằng đối phương sẽ chịu một sức ép, áp lực như thế nào. Nói cho cùng thì vì không có kiến thức nên không thể nào phản kháng, đến bản thân mình cũng không biết đang làm việc gì, dù có phản kháng đi chăng nữa thì cũng không biết là đang bị nói về cái gì. Nghĩ rằng “Nếu mình bị công kích thì sẽ phản công”, nhưng không phải là thế, có vẻ như là họ không biết cả cách đối xử. Cô ấy đã kể cho tôi một chuyện như sau: Chuyện xảy ra khi cô ấy đến Nhật được nửa năm, vừa lúc bắt đầu nhớ và nói được chút ít tiếng Nhật. Cô đi ngang qua bãi đất trống nhỏ nhỏ ở ngay cạnh căn hộ của mình, xung quanh là một nhà máy nhỏ và một nhà kho. Có đám trẻ con đang chơi đá bóng ở bãi đất trống đó. Ở Peru, bóng đá là môn thể thao rất phổ biến, bản thân cô ấy lúc còn nhỏ vì không có quả bóng nên lấy lon nước uống hay vo tròn tờ báo để đá ở khu ổ chuột của Lima (thủ đô của Peru). Vì thế cô cảm thấy rất vui và khi quả bóng lăn tới chỗ mình cô ấy không hề chần chừ mà đá ngay quả bóng lại về phía đám trẻ con. Thế nhưng vì cô đi xăng đan nên đã đá không chuẩn, quả bóng không bay về phía lũ trẻ mà rơi xuống cống sát bãi đất trống. Chất thải nhà máy đổ ra chỗ cống đó nên khá là bẩn, dầu thì loang lổ, mùi khó chịu kinh khủng. Cô ấy đã xin lỗi lũ trẻ rồi định chạy đi nhưng đã bị bọn trẻ vây quanh cản lại. Chúng bắt cô ấy phải đền một quả bóng khác, vì quả bóng kia đã bị bẩn và có mùi rất kinh. Chúng nằng nặc đòi cô phải đền bằng một quả bóng mới. Cô hoàn toàn không hiểu đám trẻ đang nói gì. Ở vùng Trung Nam Mỹ, có rất nhiều nước không có khái niệm về việc đền bù, vì mọi người rất nghèo nên khái niệm đền bù ấy không hề được hình thành. Cô bắt đầu khóc òa. Ở đất nước này, một cô gái từ vùng Trung Nam Mỹ đến đây để bán xuân như cô ấy trở thành thứ phiền nhiễu. Cô ấy nói điều đó đương nhiên là ở đất nước nào cũng nghĩ thế cả. Chính vì thế cô ấy nói với thân phận là một gái bán xuân, cô có thể chịu đựng được khi bị khinh miệt, bị đổi xử không ra gì nhưng cô ấy không thể hiểu nổi việc mình bị bắt mua trả một quả bóng mới. Cô ấy vì gia đình có mười sáu thành viên mà chỉ có thể thuê được một căn hộ nhỏ ở Peru nên đã tới Nhật để làm việc, không thể về nước được khi chưa kiếm đủ một số tiền nhất định. Thế nhưng, cô nghĩ cứ thế này thì chắc chắn sẽ có một ngày không thể sống được nữa. Đối với cô, lần đầu tiên ở nước ngoài, vì là ở nước ngoài nên chắc chắn Chúa cũng sẽ khác. Cô ấy cũng nghĩ rằng ngay cả Chúa Giêsu cũng có một tập quán khác nên có lẽ bị mất hết quyền năng.”

Frank vừa bước chậm rãi vừa kể lại. Chúng tôi từ nhà ga Seibu-Shinjuku bước đi khá lâu trên con dốc cạnh tòa nhà chọc trời của Nishiguchi, đi xa hẳn về phía hàng cây cổ đại rồi vào con phố có các ngôi nhà làm bằng gỗ san sát nhau. Ở nơi như thế này không có khách sạn. Các ngõ nhỏ rất tối, mái hiên sát với nhà nên nhìn chẳng thấy cảm quan chút nào. Không thể nhìn thấy mấy tòa nhà chọc trời của Nishi Shinjuku mặc dù nó ở ngay sát đó. Bầu trời như dán một tờ giấy mỏng dài màu xanh lam nhạt trên mái nhà trông rất phẳng nhẵn. Tôi đang bước song song cùng với Frank, chính xác hơn là tôi theo sau Frank, cứ như là đang được hướng dẫn. Rảo bước như thế này tôi thấy tinh thần được thanh thản hơn rất nhiều. Chưa kể tôi lại thấy mình bị cuốn hút vào câu chuyện của cô gái bán xuân đến từ vùng Trung Nam Mỹ. Từ lúc gặp tới giờ, Frank chưa bao giờ nói một cách điềm tĩnh hơn thế và lần đầu tiên tôi thấy nội dung câu chuyện nghe rất chân thật. Frank không giết tôi vì có sự xuất hiện của Jun chăng? Nghĩ ra thì thấy rằng Jun chẳng thể làm được gì. Jun chỉ biết đúng mỗi cái tên là Frank, người Mỹ. Cái tên Frank đó dĩ nhiên là không phải là tên thật với lại chỉ ở Tokyo này có hàng trăm người có cái tên là Frank. Chính Jim cũng đã nói nhưng cảnh sát chẳng thể tìm ra cụ thể một điều gì từ những lời khai báo của Jun. Cảnh sát không hề có trong tay ảnh chân dung của Frank, cũng không hề nắm rõ số hộ chiếu và tên thật mà cũng chẳng xác định được là Frank là người Mỹ hay không. Những người biết Frank đã ở quán bar đó ngoài tôi và Noriko đều đã chết cả. Noriko thì một trăm phần trăm không đến chỗ cảnh sát rồi, ngày mai cô ta có từ Narita trở về quê thì cũng chẳng ai có thể ngăn nổi. Frank có thể giết tôi bất cứ lúc nào vậy mà Frank đã không làm thế, hiện giờ Fank đang say sưa kể chuyện về cô gái vùng Trung Nam Mỹ.

“Cô ấy nghĩ rằng đã ở đây thì bắt buộc phải nghĩ tới Thần Thánh của đất nước này. Điều đó là chính xác!”

Từ Kabukicho chúng tôi đã đi bộ khoảng mười phút, tới nơi gần như là chính giữa Tokyo, tôi không hề biết có một nơi mà các khu nhà làm bằng gỗ xếp san sát nhau như thế này. Có một vài căn nhà một tầng như ở trong một vở kịch cổ xưa. Những căn nhà đó trông rất nhỏ giống một mô hình thu nhỏ. Có cửa kéo như thể nếu không khom lưng xuống thì không thể ra vào được. Ánh sáng từ ngọn đèn lồng tỏa sáng cả khu vườn khá chật hẹp được rải đá, trong cái bể được làm bằng thùng nước chôn sâu dưới mặt đất có mấy con cá thân lấp lánh màu hồng không thuộc loài cá vàng hay cá chép đang bơi. Ở phía đối diện của tòa nhà một tầng có mái hiên thấp tè ấy có thể nhìn thấy dãy nhà cao tầng của khu xung quanh quận Shinjuku. Tôi chưa bao giờ tới chỗ này. Frank không hề bị nhầm lẫn mà cứ tiến bước đi xa thêm. Con đường ở đây hẹp đến mức chắc chỉ đủ cho một chiếc xe ô tô cỡ nhỏ đi vừa.

“Cô ấy đã cố để tìm hiểu về Chúa, Thần của đất nước này nhưng không có cuốn sách nào nói về lĩnh vực đó được dịch sang tiếng Tây Ban Nha. Vì cô ấy không biết tiếng Anh mà. Cô cũng đã hỏi nhiều khách hàng nhưng chẳng có người Nhật nào biết về những chuyện như thế. Ở đất nước này, chẳng ai nghĩ về Thần, về Thánh. Cô ấy nghĩ vậy. Đối với họ phải chăng chẳng có nỗi cay đắng nào cả, phải chăng chẳng có nỗi khổ hạnh nào như kiểu nếu không dựa vào Thần Thánh hay vào Chúa thì chẳng còn biết làm gì. Người đã dạy cho cô ấy về chuyện chiếc chuông linh thiêng đó là một nhà báo người Liban sống ở đây khoảng hơn 20 năm. Hình như nhà báo đó đã nói với cô ấy rằng ở Nhật không có đạo Thiên Chúa hay Đạo Hồi mà cũng không có Thần Thánh hay Đức Chúa giống ở phương Tây. Mọi người quấn dây thừng vào hòn đá đang lăn trên đường hoặc cây cổ thụ trong rừng rồi coi đó là Thần Thánh, và họ còn tôn kính linh hồn của tổ tiên như là tôn kính Thần Thánh. Nhà báo đó cũng nói với cô gái rằng đúng như lời cô ấy nói, người Nhật chưa từng nếm trải việc ở đâu đó trên đất nước bị dân tộc khác xâm chiếm, bị tàn sát hay phải di dân vì bị nước khác đuổi đi, hoặc có một số lượng lớn người phải hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Những nơi đã trở thành chiến trường chính là Trung Quốc, những nước thuộc Đông Nam Á khác, các đảo ở Thái Bình Dương hay chỉ có đảo Okinawa. Còn đại lục của Nhật Bản thì đơn giản chỉ có các cuộc không kích chứ không hề có quân địch xuất hiện trực tiếp ở ngay trước mặt, bị chúng giết chết người thân thích, ruột thịt hay bị đe dọa hoặc bị ép buộc phải nói một ngôn ngữ khác. Ở châu Âu-về cơ bản đã từng có sự xâm lược như thế và có lịch sử đẫm máu. Cái đó trở thành nền tảng của sự hiểu biết mang tính quốc tế. Chính vì thế, những người ở đất nước này có một cách đối xử riêng biệt đối với người nước ngoài, họ không biết làm thế nào để thân thiện, nói về tính lịch sử thì họ chưa từng tiếp xúc với người nước ngoài về mặt hiện thực. Ngoại trừ trường hợp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trên thế giới này chỉ có nước Nhật là nước như thế. Nhà báo người Liban đã nói cho cô gái biết như vậy. Tất nhiên không phải người đó chỉ toàn nói về những mặt xấu, rồi câu chuyện bắt đầu chuyển sang đề tài về cái chuông. Vì nước Nhật không phải trải qua sự xâm lược hay thảm sát của quân đội nước ngoài nên đất nước này có sự thanh trừng rất đặc trưng mà nước khác không hề có, Nhà báo nói thêm với cô gái. Ý của nhà báo đó đang nói về một cách hàn gắn mà ta khó có thể tin được. Tập tục gắn với chiếc chuông đã được lưu truyền phải tới hơn 1000 năm. Vào ngày cuối cùng của năm, ở thời khắc Giao thừa, ở các chùa chiền hay miếu thờ, chuông được đánh không biết bao nhiêu tiếng, một con số rất dễ làm cho người ta chú ý, nhưng tôi lại quên mất rồi, hình như là khoảng một trăm lẻ mấy tiếng thì phải? Kenji! Cậu có biết không?”

Frank đang nói về tiếng chuông đêm Giao thừa. Tôi trả lời: “Một trăm lẻ tám!”.

“À, đúng rồi! Một trăm lẻ tám tiếng!”

Vừa nói Frank vừa đi vào một con hẻm ở giữa hai tòa nhà cuối phố. Ánh đèn của các ngôi nhà cũng như ánh đèn đường không hắt được tới sâu bên trong con hẻm đó. Nó là một hẻm tối đen như mực vừa hẹp vừa có cảm giác rờn rợn. Nếu không ngiêng người thì sẽ không thể lách mà đi tiếp được. Giữa chừng, tôi thấy có một tòa nhà chắc chỉ vừa bị phá hỏng và đang bỏ hoang. Vữa trên tường đã rơi từng mảng, vải bạt và tấm phủ nylon được chăng bao quanh. Frank và tôi quỳ gối xuống nền đất lật tấm vải bạt và tấm phủ nylon để vào bên trong. Có mùi của lớp bùn đã khô hay mùi các chất thải của động vật nồng nặc tỏa ra từ tấm phủ nylon đã bị ố bẩn vì ngấm nước mưa. “Cô gái đó năm ngoái cũng đã đi nghe tiếng chuông được đánh lên. Cô nói, không thể nghĩ rằng ở trên đời này lại có thứ tiếng kỳ diệu đến thế. Tất cả những ưu phiền đã tiêu tan bởi một trăm lẻ tám tiếng chuông.”

Frank bật đèn khi bước hẳn vào bên trong. Chiếc đèn tuýp đã cũ được đặt ở dưới sàn nhà. Toàn bộ căn phòng đã sáng hẳn. Ánh đèn hất từ dưới lên, tạo ra một cái bóng trông rất đáng sợ trên mặt của Frank. Tòa nhà này đã từng được dùng làm phòng khám gì đó. Trên tấm thảm trải phía góc phòng vẫn còn vương vãi những dụng cụ y tế, một chiếc ghế hỏng vứt chỏng chơ. Có một tấm đệm tôi nghĩ là được tháo ra từ chiếc giường nào đó, Frank quỳ gối lên đó và bảo tôi ngồi bên cạnh.

“Kenji này! Có đúng là tiếng chuông đó xóa sạch mọi ưu phiền không?”

Từ tiếng Anh mà Frank sử dụng có nghĩa là “bản năng xấu”.

“Kenji! Liệu cậu có thế dẫn tôi đến chỗ có thể nghe thấy tiếng chuông đó được không?”

Frank nói tiếp. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao Frank lại quyết định để cho tôi được tiếp tục sống.

“Được mà!” Tôi đáp.

“Vậy hả? Tốt rồi! Mà tiếng chuông đó làm thế nào lại xóa sạch được bản năng xấu của con người nhỉ? Kenji! Cậu có biết không? Tôi đã từng nghe ở đâu đó rồi nhưng lần này tôi muốn được nghe từ chính miệng người Nhật nói!”

“Frank! Tôi có thể nghỉ ở đây chứ?”

Tôi cũng nói thêm ý như kiểu tôi hiểu rằng là sẽ không thể về phòng của mình được nữa.

“Trên tầng hai có một chiếc giường, cậu cứ nằm nghỉ ở đó không sao đâu, tôi sẽ nằm trên đệm. À! Đúng rồi! Hôm nay có nhiều chuyện xảy ra quá, chắc hẳn cậu thấm mệt rồi, nhưng tôi vẫn muốn… chỉ một chút thôi, tôi muốn nói thêm về tiếng chuông đó có được không?”

Tôi vừa nói đồng ý vừa nhìn khắp phòng. Chẳng thấy có cầu thang hay thứ gì đó để có thể đi lên tầng hai. Tôi hỏi: “Làm thế nào để lên tầng hai nhỉ?”.

“Cậu nhìn cái kia kìa!”

Frank chỉ về phía góc phòng. Có một cái giá sắt đang bị đổ nghiêng, bên trên có đặt một chiếc tủ lạnh. Chỗ trần nhà ngay phía trên tủ lạnh có một lỗ thủng kích thước khoảng bằng một nửa tatami. Tôi nghĩ cái lỗ đó đã được tạo ra do người ta tháo cái thang.

“Nếu cậu đứng lên trên chiếc tủ lạnh đó thì sẽ leo lên được tầng hai, trên đó có rất nhiều giường, giống như ở khách sạn vậy!”

Frank vừa nhoẻn cười vừa nói. Sau khi lên được tầng hai nếu kéo tủ lạnh ra chỗ khác thì cả đêm không cần phải cảnh giác, quan sát gì cả. Cần phải dũng cảm lắm mới dám nhảy từ cái lỗ thủng đó xuống tầng một. Có vô số các mảnh vỡ thủy tinh vương vãi trên sàn, khi nhảy xuống sẽ gây ra tiếng động rất lớn.

“Chắc đây đã từng là một bệnh viện.”

Lúc tôi đang nhìn quanh thì Frank nói vậy.

“Tôi đã phát hiện ra khi đi dạo. Cậu có nghĩ rằng đây là một ngôi nhà trú ẩn tốt không? Không có nước nhưng lại vẫn có điện, không tắm vòi hoa sen được thì ta đun sôi nước khoáng bằng máy pha cà phê rồi lau người cũng được, cũng cực kỳ sảng khoái luôn!”

Những kiểu nhà đã bị phá như thế này khó mà vẫn còn đường điện, đường nước hay ga. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao vẫn còn đường điện trong nhà, nhưng tôi đã không hỏi. Kiểu gì thì kiểu cũng đã thế rồi. Mà tôi nghĩ nếu là Frank thì việc đó làm quá đơn giản.

“Tại sao chuông được đánh tới một trăm lẻ tám tiếng nhỉ? Hình như nhà báo người Liban ấy cũng đã nói một lý do gì đó rất đáng chú ý. Nhưng cô gái đã quên mất rồi. Thế nhưng, từ khi có được sự trải nghiệm vô cùng to lớn về tiếng chuông, cô gái đã học hỏi được rất nhiều về Nhật Bản. Tôi chưa bao giờ gặp người nào lại có kiến thức về Nhật Bản phong phú như thế. Xem nhé! Lũ con gái ở trong cái quán ban nãy chẳng biết gì ngay cả chuyện về đất nước của mình, nơi mình đang sinh sống. Mà có vẻ cũng chẳng quan tâm tới việc mình không biết thì phải. Điều mà lũ con gái đó biết chỉ toàn nào là khách ngồi ở ghế hạng nhất của Liên Bang sẽ được nghỉ ở khách sạn Hilton của Disney Land nếu chuyến bay bị hủy bỏ, nào là rượu Whisky ngô của Brighton thế nào, rồi lại chuyện âu phục đến túi xách. Chỉ toàn ba chuyện lăng nhăng. Tôi thấy vô cùng ngạc nhiên!”

Lũ con gái đó dẫu có muốn học về lịch sử của đất nước của mình đi chăng nữa thì cũng không thể được nữa rồi. Nghĩ đến đó khiến tôi nhớ lại cảm giác sợ hãi. Trước mặt tôi là hình ảnh cô số 5 bị rạch cổ đang hiện dần lên. Tôi lại có cảm giác y như lúc Frank đột ngột xuất hiện trên đường ban nãy, một nỗi sợ hãi không thể kiểm soát được. Ở sống lưng tôi bắt đầu cảm thấy có gì đó khác lạ, chân đã mất hết sinh lực. Có mùi đất thoang thoảng tỏa ra từ đâu đó, tôi có cảm giác như nó đọng lại ở đầu mũi, các phân tử của mùi đó dính chặt vào mặt sau của lớp da rồi chiếm lấy toàn bộ cơ thể. Thế nhưng, tôi lại không thấy hình ảnh cô số 5 bị cắt cổ hiện lên nữa. Chỉ có cảm giác về cơn buồn nôn, những gì ở trước mặt trở nên trắng xóa. Không thể tin nổi là tôi đã quên sạch những cảnh tượng về vụ thảm sát. Tôi cố gắng hồi tưởng lại hình ảnh ông khách hát bài của Mr. Chỉldren bị cắt lìa tai nhưng không tài nào làm được. Tôi vẫn có ký ức về hiện thực nhưng lại bị mất hết ký ức về hình ảnh. Có nghĩa là tôi vẫn nhớ rất rõ tên của những người bạn cũ và có thể hình dung ra rất cụ thể họ là kiểu người như thế nào vậy mà tôi không thể nào nhớ nổi khuôn mặt họ ra sao. Tôi chỉ nhớ mang máng đó là một cơn ác mộng chứ không thể nhớ chỉ tiết nó diễn ra thế nào. Tôi không tài nào hiểu nổi chuyện đó là thế nào nữa.

“Cô gái người Peru đó rất đam mê tìm hiểu về lịch sử của Nhật Bản và cũng là người khá am hiểu về nó. Từ xa xưa, ở kỷ nguyên trước, Nhật Bản chỉ trồng lúa đúng không nào? Dù trống có nguồn gốc từ Mỹ và sắt được lấy từ Ba Tư sang thì truyền thống trồng lúa đó vẫn không thay đổi. Thế nhưng, khi súng từ Bồ Đào Nha được truyền vào thì nó đã thay đổi, đã có một cuộc chiến xảy ra. Các cuộc chiến từ trước tới giờ chỉ dùng gươm đao, giống như một điệu nhảy hào hoa mang tính nghi thức. Có thể thấy rõ ở trong phim ảnh, các cuộc chiến tranh dùng súng đã ngày càng lan rộng, nó xâm chiếm cả phần bên ngoài đất nước. Vì cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài trở nên ít đi nên những chính sách về sự chiếm đóng hay nhập tịch cũng trở nên không được chỉn chu, không còn được các nước lân cận đánh giá cao. Cuộc chiến ngớ ngẩn đó vẫn được tiếp tục cho đến khi bom được rải xuống. Sau đó người Nhật mới thay đổi cách nghĩ, chấm dứt các cuộc chiến và bắt đầu sản xuất các mặt hàng điện tử là chủ yếu. Điều đó là đúng đắn. Đó là con đường mà nước Nhật nên tiến bước. Nhật Bản đã thất trận, vốn là một sự bại trận trong cuộc chiến giành lấy sự nắm quyền với Mỹ ở Trung Quốc, Đông Nam Á. Hàng chục năm đã qua cuối cùng nhìn lại thì ta có thể nói họ đã chiến thắng. Kenji! Tại sao chuông lại ngân lên đúng một trăm lẻ tám lần vậy? Cậu có thể giải thích rõ lại cho tôi được không? Tôi đã nghe từ cô gái nói nhưng tôi lại quên mất rồi!”

Tôi nghĩ rất có thể Frank đang thử tôi. Frank kiểm tra kiến thức của tôi xem tôi có xứng đáng làm người hướng dẫn cho mình đi nghe tiếng chuông Giao thừa hay không. Nếu tôi không qua được phần kiểm tra này thì sẽ ra sao nhỉ? “Theo đạo Phật”, tôi bắt đầu nói, tôi nghĩ đó là đạo Shinto nhưng Frank lại không hiểu sự khác nhau giữa đạo Shinto và đạo Phật. (Là một tín ngưỡng cùa người bản xứ dựa trên sự tôn kinh và thờ phụng các đấng tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, rừng núi, sông ngòi, hoăc hiện tượng tự nhiên như giông bão.)

“Theo đạo Phật, bản năng xấu được gọi là BONNOU (dục vọng), nhưng từ BONNOU lại có ý nghĩa sâu xa hơn so với từ tiếng Anh.”

Có vẻ như từ tiếng Nhật ấy đã hút hồn Frank. Frank cứ tập nói đi tập nói lại từ BONNOU.

“Thật tuyệt!”

Cứ mỗi lần phát âm chuẩn thì Frank lại lẩm bẩm như thế không ngớt và cũng không ngừng thở dài.

“Sao lại thế nhỉ? Từ đó quả là tuyệt vời! Tôi có cảm giác như chỉ cần lẩm nhẩm trong miệng từ đó thôi là tôi đã thấy có gì đó thoát ra khỏi cơ thể của mình mà cũng có cảm giác như cơ thể được bao quanh bởi cái gì đó. Kenji! Cậu nói cho tôi biết đi, từ đó có nghĩa chính xác là gì vậy?”

“Trước tiên cái mà ai cũng nên biết trước đó là tất cả con người ai cũng có cái đó!”

Nói xong tôi cũng thấy vô cùng ngạc nhiên trước những gì mình đã nói. Tôi không hề nghĩ rằng bản thân mình biết điều đó. Nếu như tôi không nhớ ai đã nói cho tôi biết thì đã đành nhưng tôi lại cũng chẳng nhớ mình đã đọc ở cuốn sách nào. Và cũng lâu lắm rồi tôi mới nghe thấy từ BONNOU. Bình thường từ đó không được sử dụng. Thế nhưng tôi lại biết ý nghĩa của từ đó. Hơn nữa, tôi lại hiểu rất chính xác là đằng khác. Con người ai cũng mang nó trong mình. Nói đến đó, tôi không thể tin vào mắt mình khi thấy khuôn mặt Frank như sắp òa khóc. Frank cất giọng nghe hơi run run.

“Kenji! Tôi xin cậu! Cậu hãy kể thêm cho tôi nghe đi!”

Tôi vừa nghĩ không hiểu kiến thức đó đã ngấm vào đầu tôi tự bao giờ, vừa tiếp tục nói về BONNOU. Cứ như là những thông tin dữ liệu đang nằm ngủ ở trong đĩa cứng giờ được giải đông khi nhận được một phần mềm thích hợp.

“Tiếng Nhật có một từ là MADOU!”

Khi tôi nói xong thì Frank lại bắt đầu luyện phát âm từ đó. Khi người nước ngoài phát âm, từ cổ tiếng Nhật có một âm vang rất lạ kỳ. Tôi có cảm giác như tính thần bí của nó tăng dần lên.

“Đó là động từ thể hiện một cách đơn giản cái gọi là BONNOU. Khi nói tới bản năng xấu thì ta có thể hiểu nó thuộc về mặt thú tính hoặc là khi nó đã được sinh ra thì sẽ chẳng dễ mà thay đổi, mà cũng có thể hiểu rằng đó là thứ đáng phải trừng phạt. Thế nhưng BONNOU và MADOU có sắc thái hơi khác nhau, có khi nó chia thành sáu loại, có khi nó lại chia thành mười loại và cũng có khi nó lại chia thành hai loại lớn, từa tựa như bảy hình phạt lớn ở trong đạo Thiên Chúa vậy. Chỗ khác nhau chính là thứ mà bình thường ai cũng có. Ta có thể dễ hiểu hơn khi ví đó là thứ mà được sắp xếp như trong nội tạng vậy. Nói có sáu hay mười loại nhưng để giải thích bằng tiếng Anh thì hơi khó!”

Nói đến đó Frank liên tục gật đầu và nói:

“Vậy sao? Tôi hiểu rồi! So với từ sâu xa ấy thì tiếng Anh quá đơn giản!”

“Có hai loại BONNOU. Một loại được sinh ra do suy nghĩ và một loại được sinh ra do tình cảm. BONNOU do suy nghĩ tạo ra sẽ ngay lập tức bị loại bỏ nếu phần chân thiện mĩ được chỉ ra, cái phiền hà mới chính là BONNOU được sinh ra do tình cảm. Và để có thể tự do thì cần phải có một quá trình luyện tập khá công phu, gian khổ. Frank! Chắc ông chưa bao giờ thấy các tín đồ đạo Phật không ăn gì, không mặc quần áo ngâm mình vào nước ở giữa mùa đông giá rét, vừa để cho thác nước xối xuống vừa ngồi thiền nhỉ?”

“Có! Hình ảnh đó rất nổi tiếng!” Frank nói. “Tôi đã từng nhìn thấy trên ti vi!”

“Đạo Phật có những mặt hết sức cao quý và ngọt ngào. Ví dụ rõ nhất chính là chiếc chuông được đánh vào đêm 31 tháng 12 đúng một trăm lẻ tám lần, tức là BONNOU được chia thành một trăm lẻ tám loại. Và những ai nghe được tiếng chuông đó sẽ được tự do thoát khỏi cái gọi là BONNOU!”

“Thế ta nên nghe tiếng chuông ở đâu?” Khi nghe Frank hỏi vậy tôi mới chợt nhớ ra không biết tại sao tôi lại am hiểu về tiếng chuông và BONNOU đến vậy. Tôi đã không thể giữ lời hứa với Jun là ở bên cô ấy trong dịp Giáng sinh. Nên Jun đã bắt tôi phải hứa là nhất định hai đứa phải ở bên nhau vào lúc Giao thừa. Để tham khảo cách tận hưởng phút Giao thừa sao cho có ý nghĩa, chúng tôi đã mua không biết bao nhiêu loại tạp chí rồi cùng nhau đọc. Nào là tạp chí PIA, nào là sách Tokyo Walker. Tôi không nhớ tên tạp chí đó là gì nhưng ở đó đăng một bài có dòng tít: “Nếu bạn hiểu rõ về nguồn cội thì sẽ có một đêm Giao thừa thú vị hơn nhiều”, nói về ý nghĩa của tiếng chuông và BONNOU. Tôi nằm lăn ra giường cùng với Jun rồi đọc to bài báo đó thành tiếng.

“Cô gái người Peru đã nói là rất đông người đến để nghe tiếng chuông. Cô ấy muốn đến nghe ở một nơi nào đó yên tĩnh hơn. Kenji, cậu có biết ngôi chùa nào yên tĩnh hơn không? Tôi không thích những chỗ đông người mà!”

Riêng tôi, tôi cũng không muốn cả hai, cả tôi và Frank tới chùa Meijijingu. Tôi nói:

“Có một nơi rất thích hợp! Một-cây-cầu!”

“Cầu ư?”

Frank tỏ vẻ không hiểu. Cuốn tạp chí đó cũng có nói về cây cầu đó và đó cũng là nơi tôi và Jun quyết định cùng nhau đi nghe tiếng chuông Giao thừa. Tôi đã quên mất tên của cây cầu bắc ngang con sông Sumida đó. Tôi nhìn đồng hồ. Bây giờ là 3 giờ sáng ngày 31 tháng 12. Chắc là Jun vẫn đang thức.

“Kenji! Cây cầu đó có được không? Vì tôi không rành mà!”

“Ở quanh đây hay ở Shinjuku này có ít chùa chiền lắm.” Tôi nói.

“Ở nơi buôn bán mới có nhiều chùa. Nhưng như lời cô gái Peru đã nói có tới hàng chục nghìn người tập trung ở đó. Đã nghe tiếng chuông thì nên nghe ở một nơi yên tĩnh. Có vẻ như ngồi ở rầm cầu nghe tiếng chuông vọng lại từ nhiều phía sẽ rất tuyệt.” Tôi nói xong, mắt của Frank biến sắc, trở nên sáng long lanh. “Nhất định tôi sẽ tới đó để nghe!” Frank nói với giọng hơi run run. “Cậu hãy dẫn tôi tới đó! Kenji! Tôi xin cậu đấy!”

Tôi gọi điện cho Jun. Tôi đã nói với Frank: “Bạn gái của tôi biết tên cây cầu đó!”. Khi chuẩn bị ấn nút gọi trên điện thoại tôi mới để ý thấy căn phòng khá lạnh. Tay tôi tê cứng nên ấn mấy lần vẫn bị nhầm nút.

“Anh Kenji à?”

Jun nhấc máy ngay. Hình ảnh Jun đặt điện thoại ở bên cạnh chăm chăm chờ đợi điện của tôi đang hiện lên trước mặt tôi. Tôi nghĩ chắc là Jun đang rất lo lắng, “ừ, anh đây!” Tôi đã cố gắng hết sức sao cho có thể trả lời một cách bình thường nhưng không hiểu do lạnh hay do căng thẳng quá mà giọng tôi vẫn cứ run run.

“Giờ anh đang ở đâu? Anh về nhà rồi à?”

“Anh vẫn đang đi cùng Frank!”

“Ở đâu?”

“Ở khách sạn của Frank!”

“Hilton à?”

“Không phải! Một khách sạn nhỏ hơn cơ! Không phải là Hilton mà là khách sạn dành cho thương gia, anh không rõ tên nữa nhưng rất thoải mái em ạ!”

Một ý nghĩ vụt qua trong đầu. Không biết là có suôn sẻ hay không và tôi cũng không dám chắc đó là một phương án hay. Vì vừa lạnh vừa buồn ngủ lại mệt nữa nên có lẽ phương án đó là tồi nhất lúc này nhưng ở một nơi như thế này thì chẳng nghĩ được gì khác ngoài điều đó. Hơi thở tôi phả ra làm mờ màn hình điện thoại. Frank vẫn đang nhìn chăm chăm vào tôi. Khuôn mặt Frank như bị bẻ cong do ánh sáng từ chiếc đèn tuýp chiếu vào. Ít nhất là, tôi nghĩ, ít nhất là tên này sẽ không giết tôi cho đến lúc tôi dẫn đến cây cầu đó.

“Jun à! Ngày mai anh phải dẫn Frank đi nghe tiếng chuông Giao thừa!”

“Anh đùa đấy à?”

“Không đâu! Tất cả đã lên lịch rồi!”

Jun bắt đầu cáu. Cô ấy quên chuyện đang lo lắng cho tôi mà nhớ tới lời hứa của tôi sẽ cùng cô ấy tận hưởng đêm Giao thừa. Tôi có ý định để Jun đi theo dõi chúng tôi. Và tôi cũng có thể để Frank bị bắt nhưng như thế thì cần phải có thời gian để nói về những gì đã xảy ra ở quán bar đó. Khi biết được mọi chuyện có khi Jun còn bị mất hết bình tĩnh nữa là đằng khác. Mà cũng không thể biết được là cô ấy có tin cho hay không. Hơn nữa tôi cũng đang cố gắng quên đi những hình ảnh về vụ thảm sát đó, với lại, tôi sẽ bị cảnh sát thẩm vấn rất lâu và phải chấm dứt công việc hiện tại của mình, điều đó thì không thể rồi. Sẽ rắc rối khi nói: “Jun! Ông Frank này là tên quỷ sát nhân đấy, hãy tới đồn cảnh sát, dẫn đường cho cảnh sát tới đây!”…

“Cây cầu đó tên gì ấy nhỉ?” Tôi hỏi Jun.

“Cầu gì?”

Jun đang rất cáu. Cô ấy càu nhàu như kiểu cô ấy đã rất tức tối chỉ vì công việc của tôi mà phải hoãn bữa tối Giáng sinh ở khách sạn như đã hứa. Đối với một nữ sinh trung học như Jun thì dịp Giáng sinh mang một ý nghĩa rất đặc biệt. Jun và bạn của cô ấy đều chẳng mấy khi cần bạn trai. Các cô thường nói chuyện hẹn hò gây phiền toái. Nói chuyện thì nhàm chán mà lại chẳng có xu mốc nào. Ngay như hè vừa rồi cô ấy cũng không đi với tôi mà cùng đám bạn gái đi biển. Thế nhưng, đối với các cô gái thì dịp Giáng sinh lại là một dịp rất đặc biệt, mỗi năm có một đêm vô cùng quý giá được ở bên một người con trai, cùng nhau tận hưởng giây phút tuyệt vời nhất. Lần này tôi cũng lại nói hủy kế hoạch vì đi cùng Frank vào đúng đêm Giao thừa. Jun nổi cáu là đương nhiên.

“Cây cầu bắc qua sông Sumida có đăng ở tạp chí hôm trước mình đã đọc ấy. Tiếng chuông vọng vào khung sắt của cây cầu nghe rất vang và trong. Tên của cây cầu là gì nhỉ?”

“Quên rồi!”

Rồi cô ấy nói như kiểu thắc mắc tại sao tôi lại đi cùng Frank tới cây cầu đó.

“Jun! Chuyện này rất quan trọng. Ờ… nói thế nào nhỉ? Đại loại là nó liên quan tới tính mạng của anh!”

Tôi nghe thấy ở bên kia đường dây có tiếng thở dài của Jun và tôi vội vàng nói tiếp: “Khoan đã, Jun! Từ từ đã nào!”. Tôi cố gắng bắt Jun phải nói điều gì đó. Frank vẫn đang vô cảm nhìn tôi chằm chằm.

“Thôi nào! Em hãy bình tĩnh nghe anh nói đã! Những gì anh sắp nói không phải là chuyện đùa cũng không phải là nói dối. Anh mong em sau khi nghe anh kể đừng hỏi gì thêm, không có thời gian để giải thích! Trước tiên, em có hiểu cho anh không?”

“Em hiểu!” Jun hạ giọng, nói nhỏ.

“Vậy em có nhớ tên cây cầu không?”

“Cầu Kachidoki!” Jun nói. Có vẻ như Jun chưa bao giờ quên cái tên đó.

“Đó là cây cầu ở khu vực Tsukiji và Tukudajima hay Tukishima gì đó.”

Giọng của Jun nghe có vẻ căng thẳng.

“Tối nay chúng ta sẽ gặp ở cầu Kachidoki!” Tôi nói.

“Thế nhưng, anh muốn em chỉ đứng quan sát anh và Frank mà thôi!”

“Quan sát á? Nghĩa là thế nào? Em chẳng hiểu gì cả!”

Jun đang rất bối rối. Những lúc thế này khó có thể làm cho cô ấy hiểu tất cả. Tôi quyết định chỉ nói những gì cần thiết nhất.

“Tối nay khoảng 10 giờ anh và Frank sẽ có mặt tại chân cầu Kachidoki phía Tsukiji. Nhất định bọn anh sẽ ở chân cầu Kachidoki phía Tsukiji. Em rõ rồi chứ?”

“Khoan đã, Kenji!”

“Sao cơ?”

“Nhưng mà chân cầu tức là ở đâu?”

“Tức là nơi bắt đầu lên cầu ấy!”

“Em rõ rồi!”

“Jun này! Việc đầu tiên là em phải tìm bằng được anh và Frank. Nhưng em đừng lộ diện. Mà dù anh và Frank có nhìn thấy thì cũng hãy giả vờ như không quen biết. Dù có nhận ra thì cũng đừng lại gần hay bắt chuyện với anh. Em hiểu rồi chứ?”

“Tức là em sẽ chỉ giữ một khoảng cách và quan sát anh thôi chứ gì?”

“Đúng vậy! Sau phần đánh chuông Giao thừa, anh sẽ chia tay với Frank và cùng em về nhà. Vì thế, nếu như Frank có ý không để cho anh về hay nói cách khác nếu có rắc rối gì thì… tối nay chắc chắn sẽ có nhiều cảnh sát đến giữ gìn trật tự chỗ đông người nên em hãy báo cho họ đến cứu anh, được không? Nhất định anh sẽ chia tay Frank, vì thế nếu thấy anh không về được thì có nghĩa là Frank sẽ định làm gì đó với anh. Khi đó em cứ hét lên thật to hay làm gì cũng được, cứ chạy, xa khỏi anh và Frank rồi hãy báo cho cảnh sát, chứ một mình em thì không thể làm gì được đâu, em hiểu chứ?”

“Em hiểu rồi!”

“Vậy thì anh tắt máy đây! Hẹn ngày mai nhé!”

“Ấy! Khoan đã anh Kenji! Em chỉ hỏi một câu nữa thôi được không?”

“Cái gì vậy?”

“Có đúng Frank là kẻ xấu không?”

“Gần như là vậy!” Tôi nói xong rồi tắt máy.

“Tôi đã biết tên chiếc cầu đó rồi!” Tôi nói với Frank rồi mon men nhắc tới chuyện Frank giải phóng cho tôi sau phần đánh chuông. Tôi đã nói với một giọng hết sức bình tĩnh mà đến tôi cũng không thể ngờ tới. Tôi nghĩ, có lẽ do tôi đã cố gắng hết khả năng của mình. Tôi chỉ có thể nghĩ ra phương án để cho Jun quan sát tôi và Frank, chứ dù có tốn thời gian đến mấy cũng không thể nghĩ ra một phương án nào hay hơn được nữa.

“Tôi sẽ không thể tiếp tục nghề hướng dẫn du lịch này nếu tôi báo cảnh sát, với lại tôi chỉ biết có mỗi tên của ông, nên Frank, tôi sẽ không báo cho cảnh sát biết đâu. Đổi lại, khi phần đánh chuông kết thúc tôi muốn ông giải phóng cho tôi!”

“Điều đó tất nhiên là được rồi!” Frank nói. “Cho dù cậu không để bạn gái theo dõi thì ngay từ đầu tôi vẫn định như vậy mà. Tôi chẳng nói suốt với cậu tôi luôn nghĩ cậu là một người bạn còn gì!”

Tôi nhìn Frank khi nói những điều đó và nghĩ, tôi mới chỉ gặp người này cách đây khoảng ba mươi tiếng đồng hồ. Tôi có cảm giác như cách nói của Frank đang trở lại giống như lần đầu tiên tôi gặp ở khách sạn trước nhà ga Seibu-Shijuku. Thế nhưng, đương nhiên là vẫn khó có thể tin tưởng được. Trong trường hợp của Frank thì việc nghĩ tôi là bạn và việc giết tôi là không hề mâu thuẫn.

“Kenji! Cậu buồn ngủ chưa?”

Khi Frank hỏi vậy tôi đã lắc đầu. Ban nãy tôi đã rất muốn ngủ, ngủ ngay trên sàn vương vãi những mảnh thủy tinh vỡ cũng được nhưng có lẽ do tôi đã nói được chuyện quan trọng với Jun nên cơn buồn ngủ cũng tan biến. Frank tỏ ra như đang băn khoăn một điều gì đó. Frank định nói rồi lại thôi, miệng há ra rồi lại ngậm lại. Tôi chưa bao giờ thấy Frank như vậy.

Frank vội vàng lấy chai Evian trong tủ lạnh ở góc tường uống ực một hơi. Frank hỏi tôi có uống gì không và tôi trả lời muốn uống một ít Coca. Chiếc tủ lạnh đó có vẻ như được nhặt ở chỗ thu gom rác về và bên trong có cả bia.

“Tôi có một việc muốn hỏi cậu nhưng phải nói dài dài vì đó là câu chuyện cần phải kể khá tỉ mỉ, không biết có được không?”

Frank nói nghe có vẻ rất nghiêm trọng. “Tôi sẽ cố gắng nghe vậy!” Tôi nói.

“Tôi sinh ra ở một thành phố nhỏ bên bờ biển phía đông nước Mỹ, tên của nó có lẽ nói ra cậu cũng không biết. Phía trước nhà tôi có một khu vườn với bãi cỏ dại, phía mái hiên có người bà của tôi hay ngồi trên chiếc ghế đu, hình ảnh đó giống như các bộ phim của Mỹ ấy, ngôi nhà của tôi hết sức bình dị ở một thành phố cũng hết sức bình dị.”

Frank kể với giọng khác hẳn từ trước tới giờ. Tôi có cảm giác như từ lúc bước vào ngôi nhà hoang này cách nói và vẻ mặt của Frank trở nên hiền hòa hơn. Không biết quanh đây là nơi như thế nào mà có rất nhiều căn hộ nhỏ mọc san sát nhưng không hề nghe thấy một thứ âm thanh nào. Tôi nghe có tiếng o o phát ra từ chiếc đèn tuýp đặt trực tiếp ở trên sàn nhà.

Ngoài ra có thêm tiếng như là tiếng máy chạy từ chiếc tủ lạnh ở góc phòng. Cũng chỉ nghe được từng ấy âm thanh mà thôi. Cửa sổ bị vỡ và tường bị nứt đã được phủ bởi vải bạt và tấm phủ nylon nhưng do không có hơi lửa nên vẫn khá là lạnh. Hơi thở của tôi phả ra trắng xóa. Còn hơi của Frank chẳng trắng chút nào.

“Lý do mà cả gia đình tôi chuyển sang thành phố khác là để lẩn tránh tai mắt của mọi người. Lúc đó tôi lên bảy, tôi đã giết hai người ở thành phố tôi đã sống trước đó.”

Vì nghe thấy là từ “giết” nên theo quán tính tôi đã ngẩng mặt lên nhìn Frank. “Mấy tuổi cơ?” Tôi buột miệng hỏi.

“Bảy tuổi!”

Frank vừa uống chai nước Evian vừa chậm rãi nhắc lại một lần nữa. “Không thể tin nổi!” Tôi cứ lẩm bẩm như vậy. Kể từ lúc tôi gặp người đàn ông Mỹ này, lần đầu tiên sự nghi ngờ ông ta đang nói dối hay không bỗng dưng biến mất. Nó biến mất bởi từ “bảy tuổi”.

“Thành phố tôi đã từng sống từ trước đó có ờ… thế nào nhỉ… khoảng 8.000 dân, đó là một thành phố cảng, khá cổ kính và có bề dày lịch sử. Ở đó có một sân golf được coi là cổ hàng thứ tư của nước Mỹ, nó cũng không nổi tiếng cho lắm nhưng có rất nhiều người từ New York hoặc Washington đi máy bay tới cơ đấy. Sân bay gần nhất là Portland. Lái xe đi một lát thôi là cũng có thể tới Canada, đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, ở khu vực thuộc Canada đó người ta nói tiếng Pháp. Có một cảm giác là đang ở nước ngoài nên rất háo hức. Ở nước Mỹ, đặc biệt là ở bờ biển phía đông, cảnh có tàu hỏa chạy qua là rất hiếm. Hồi tôi vừa mới chập chững biết đi thì tàu hỏa không còn nữa nhưng vẫn còn đường ray. Tôi đã thích mê mệt đường ray làm bằng sắt được chôn dưới mặt đất ấy. Tôi thường chơi trò đi từng bước từng bước trên đó, có cảm giác cứ đang đi mãi đi mãi vẫn không hết đường. Khi đi từng bước từng bước như thế tôi thấy đường ray dường như dài vô tận, nó có thể kết nối toàn thế giới. Hồi bé, một lần tôi bị lạc. Kenji! Cậu đã bao giờ bị lạc chưa?”

Tôi lắc đầu.

“Thế thì lạ thật đấy!” Frank nói. “Bọn trẻ con, đứa nào mà chẳng bị lạc một lần chứ?”

Tôi có nhớ đã từng nghe bố kể câu chuyện về đứa trẻ bị lạc. Khi còn bé tí teo, bố tôi đã dặn đi dặn lại không biết bao nhiêu lần rằng trẻ con nếu đi chơi một mình nhất định sẽ thành trẻ lạc. Chính vì thế phải cùng chơi với mọi người, nếu chơi một mình sẽ bị mẹ mìn bắt cóc.

“Ta như có cảm giác, hễ ra ngoài đường là sẽ thành trẻ lạc và như thể để trở thành trẻ lạc thì phải chơi ngoài đường. Tôi đã từng nghe papa nói như vậy đấy!”

Vì Frank đã nói từ tiếng Anh là “papa” nên tôi hơi sững người một chút. Từ lúc nghe chuyện Frank đã giết người từ lúc bảy tuổi tôi nghĩ chắc là do Frank bị mất cha mẹ. Tôi đã từng đọc một cuốn tiểu thuyết cũng kiểu như thế. Đó là câu chuyện về đứa trẻ đáng thương bị mồ côi cha mẹ, lớn lên ở một ngôi nhà của những người mẹ nuôi già nua, sau này đã trở thành tên quỷ sát nhân. Tôi lại buột miệng hỏi: “Cha của ông vẫn khỏe chứ?”

Frank cười méo mó rồi lẩm bẩm: “Papa ư?”, rồi hạ giọng nói: “Tôi chẳng biết là ông ấy đang ở đâu nữa! Tôi vẫn còn nhớ rõ lúc tôi bị lạc. Chúng ta bị lạc ở nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng khoảnh khắc ta trở thành trẻ lạc bao giờ cũng giống nhau, tức là mọi việc đột nhiên xảy ra rất nhanh, chứ chẳng có đứa trẻ nào lại từ từ mới trở thành trẻ lạc. Khi chú ý thì mới nhận thấy xung quanh là những dãy phố lạ hoặc không hề biết là đâu, khi đó ta đã trở thành trẻ lạc. Đang đi ở nơi có nhà, có công viên hay con đường thân quen thì rẽ sang một góc phố khác đã thấy khung cảnh thay đổi hoàn toàn. Bây giờ khi nghĩ lại khoảnh khắc ấy tôi rất sợ nhưng sau đó lại thấy thinh thích. Cũng có nhiều trường hợp bị lạc do đi cùng một ai đó. Khi tôi vừa mới có thể tự ra ngoài đường chơi … lúc đó là mấy tuổi nhỉ… khoảng ba tuổi thì phải… tôi đã đi theo ban nhạc của Cục phòng cháy chữa cháy. Ở ngay sát nhà tôi có Cục phòng cháy chữa cháy và ban nhạc ở đó là một ban nhạc nổi tiếng của vùng họ đã giành giải nhất trong một cuộc thi. Họ rất hay luyện tập, vừa diễu hành vừa luyện tập và tôi thường đi theo. Thế nhưng, vì là một đứa trẻ mới có ba tuổi nên tôi thường bị bỏ rơi tít đằng sau. Cuối buổi diễu hành thường có kèn saxophone hay kèn tuba cất lên. Trông nó rất to mà lại lấp lánh, thật tuyệt vời. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi bị bỏ rơi một khoảng cánh khá xa. Cảm giác đó giống như bị tách ra khỏi cái gì đó… đúng rồi… giống như bị tách khỏi thế giới vậy. Khi nhìn xung quanh đột nhiên tôi nhận ra là mình đã bị lạc. Một ngày nọ, tình cờ tôi gặp lại mama khi đó mama đang trên đường từ cửa hàng mua sắm về thì từ trong xe nhìn thấy tôi đang lững thững bước đi!”

Từ “mama” cũng đã được phát âm rất tự nhiên từ miệng của Frank. Thế nhưng, tôi đã không hỏi rằng mẹ của Frank có khỏe không. Tôi có linh cảm rằng không nên hỏi vậy.

“Nói thế nào nhỉ? Tôi vẫn nhớ rất rõ không gian đó, không gian lúc tôi trở thành trẻ lạc. Tôi chỉ biết đường quanh quanh gần nhà tôi mà thôi. Đối với tôi thế giới chính là quần thể khu nhà bao quanh căn nhà của tôi. Lúc đó thế giới của tôi có hình chữ T, cậu có hiểu không nhỉ, có một con đường nhỏ kéo dài trước cửa nhà tôi, thế giới chỉ giới hạn đến đó, tôi vẫn nhớ rõ phần biên giới đó. Bên trái là hòm đựng thư màu xanh của nhà hàng xóm, bên phải là hàng cây sơn thù du nằm ở góc đường, phía đối diện hơi dốc có cảm giác như là đang xuống đồi, giữa chừng có hàng ghế băng bằng sắt của công viên, có một dòng sông dài, nhỏ chảy qua. Hộp đựng thư, cây sơn thù du, băng ghế bằng sắt, khi tôi bước qua những thứ đó thì tôi đã trở thành một trẻ lạc. Đã rất nhiều lần tôi ra tới ngoài thế giới nhìn đây nhìn đó vậy mà vẫn không tài nào quen với khung cảnh ở phía đối diện ấy. Tôi nghĩ đó là do tôi nghĩ thiên về cái gọi là “bên ngoài thế giới” mạnh quá. Giống như kiểu người Trung cổ rất sợ rừng rú. Ngày tôi gặp lại mama vào một ngày cuối xuân, trời đầy mây, khi thời tiết bắt đầu chuyển sang hạ ở vùng bờ biển phía đông này rất nhiều ngày trời đầy mây, độ ẩm khá cao, giống như lúc trời sắp đổ mưa, khi mặt trời chiếu xuống thì nóng oi nóng bức, nhưng có một cơn gió thổi qua thì lại lạnh nổi da gà, chính vì thế có rất nhiều người mắc bệnh về đường hô hấp hay bị viêm phế quản. Tôi vẫn nhớ, tất cả người lớn đều ho sù sụ. Ngày hôm đó, từ chiếc hòm thư màu xanh tôi bước vào một thế giới hoàn toàn khác, đối với con nít việc trở thành trẻ lạc không còn là tình trạng nữa mà giống như là nghề nghiệp, cũng lo lắng, hoảng sợ và có một cảm giác háo hức kiểu làm một việc… cơ thể của tôi, đúng rồi tôi đã vô cùng lo lắng, có cảm giác như tôi bắt đầu không nhận biết được ngay cả da thịt mình cũng như biên giới của thế giới bên ngoài. Bản thân tôi như đang bị tan chảy bởi cảnh sắc đang bốc khói màu xám xịt. Tôi đã hét lên rất nhiều lần, một đứa trẻ đang hét giữa đường phố, ấy vậy mà chẳng có một người lớn tuổi nào thèm để ý và rồi chỉ biết khóc. Ngày hôm đó tôi vô cùng hoảng sợ và bị kích động khi mama xuất hiện, đột nhiên mama đỗ xịch ô tô ngay bên cạnh, ơ kìa! Đây là cậu con trai cưng của tôi mà! Mama đã thốt lên. Tôi òa khóc, không phải vì được gặp lại mama mà do tôi đã rất hoảng sợ. Tôi có cảm giác như thế giới mà tôi không hề biết và mama trở nên xa lạ. Có vẻ như mama đã trở thành một người hoàn toàn khác, chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ tôi phải về với thế giới mà tôi đã biết rất rõ. Thế nên tôi đã chạy trốn khỏi vòng tay của mama đang dang ra để ôm lấy tôi. Không thể gặp lại mama ở nơi này mà phải gặp ở phía bên kia, người đàn bà này giống mama của mình thôi chứ không phải là mama thật. Tôi đã nghĩ rằng ở thế giới bên này có một người giống hệt mama mà thôi. Tôi sợ hãi vô cùng và cắn vào cổ tay của mama, cằm của tôi trở nên tê cứng không còn cảm giác gì nữa, tôi đã cắn rất mạnh vì tôi đã nghĩ rằng phải cắn thật mạnh. Mama rất sững sờ vì tôi mới ba tuổi mà đã cắn rách cả một mảng da. Chỗ da đó gần với mạch máu hay sao mà máu tuôn ra nhiều khủng khiếp. Như một đứa trẻ khát sữa tôi đã hút máu của mama, uống ừng ực. Tôi đã sống chết hút bằng được thì thôi, dù tôi đang cảm thấy rất khó thở nhưng tôi nghĩ rằng nếu không uống thì sẽ không thở được. Kenji! Cậu đã từng uống máu của động vật rồi chứ?”

Tôi cảm thấy ngột ngạt, khó thở đến nỗi không thể trả lời được. Đã gần hai năm tôi đi dịch như thế này nên gần đây tôi đã có thể chuyển trực tiếp những từ đơn tiếng Anh sang hình ảnh. Trước đây tôi thường phải chuyển các từ đó sang tiếng Nhật một lần đã rồi mới nắm bắt được nghĩa của từ đó. Ví dụ như từ “blood”, trước tiên tôi phải chuyển sang tiếng Nhật có nghĩa là “máu”, rồi sau đó trong đầu tôi mới mường tượng ra hình ảnh dòng máu đỏ. Trong não tôi, danh từ “blood” và động từ “drink” nối liền với nhau. Hơn nữa, với vẻ mặt hết sức thản nhiên, Frank hỏi tôi là đã uống máu rồi chứ. Ví dụ như đang tường thuật lại các chi tiết của một bộ phim kinh dị đã đành nhưng đây là hiện thực. Thật là kinh khủng, đó là một câu chuyện cực kỳ dã man, thế cậu đã từng uống dòng máu đang tuôn chảy rồi chứ? Đằng này, Frank hoàn toàn không nói theo kiểu đó. Giọng điệu giống hệt lúc Frank hỏi tôi: “Kenji! Hồi còn nhỏ cậu đã từng thích bóng chày phải không?”. Nghe xong câu hỏi: “Kenji! Cậu đã từng uống máu của động vật rồi chứ?” thì tôi cúi gằm xuống và lắc đầu.

“Vì thế, lần đầu tiên tôi uống máu của mama!” Frank đã nói với vẻ mặt rất u sầu. “Máu là một thứ chẳng ra gì cả, chẳng ngon, chẳng đắng mà cũng chẳng ngọt vì thế việc đó sẽ chẳng thể nghiện được!”

Tôi vừa nghe câu chuyện vừa thỉnh thoảng gật đầu, rồi ôm đầu gối cúi mặt xuống. Chiếc đèn tuýp đặt trên nền nhà, chiếu hắt lên phía trên. Chính vì thế tôi không nhìn thấy rõ một phần sàn nhà và chiếc đệm tôi và Frank đang ngồi. Khi đã quen mắt, tôi nhìn xuống nền thì thấy một lớp bụi dày, vương vãi vết bẩn màu đen có mấy con bọ đang bu quanh. Mấy con bọ đó là loại mà tôi ít khi thấy, chúng đậu thành đàn quanh chỗ bẩn đó. Có vẻ như đó là vết máu. Tôi nghĩ hay là Frank đã giết ai đó ở đây chăng? Hay là Frank đã giết ở chỗ khác rồi vác xác tới đây rồi lấy các dụng cụ y tế của phòng khám bị vứt vương vãi để cắt rời thi thể nạn nhân. Có khi con dao thon dài mà Frank đã dùng đế cắt cổ cô gái ở quán bar không chừng cũng được lấy ở đây.

Frank tiếp tục nói.

“Sau khi tôi cắn mama, mama và papa đã đưa tôi đến tới khám ở bệnh viện nhi. Kết quả kiểm tra là: Từ bé tôi chẳng mấy khi uống sữa nên bị thiếu canxi mãn tính. Chính vì thế dẫn tới tình trạng mất ổn định cảm xúc. Ngoài ra cũng là do ảnh hưởng của những bộ phim kinh dị mà người lớn hay xem. Đúng là hai người anh trai của tôi rất mê xem thể loại phim kinh dị. Chín mươi chín phần trăm trẻ em Mỹ ghiền phim kinh dị. Khi tôi giết hai người, có rất nhiều cuộn băng, tờ rơi và mặt nạ cao su được tìm thấy. Như vậy là tôi đã bị ảnh hưởng quá nhiều bởi những điều đó. Nói tóm lại, có nghĩa nguyên nhân phạm tội giết người của một đứa trẻ đã được tìm ra, đó là muốn để mọi người yên tâm. Chứ làm gì có nguyên nhân nào giải thích cho việc giết người của một đứa trẻ, giống như không có nguyên nhân nào giải thích cho việc một đứa trẻ trở thành trẻ lạc. Hay là vì cha mẹ đã rời mắt khỏi con cái chăng? Đó không phải là nguyên nhân, mà chính xác đó là một quá trình của việc một đứa trẻ trở thành trẻ lạc.”

Đã 4 giờ sáng. Cái lạnh ngày càng đậm hơn. Nhưng dường như Frank không hể cảm thấy cái lạnh đó. Tôi thì mặc áo khoác còn Frank thì chỉ mặc mỗi chiếc áo jacket. Hai đêm liền tôi đi cùng Frank nhưng chưa lần nào tôi thấy Frank co ro vì lạnh. Frank nhìn tôi phả hơi vào hai bàn tay đang vo tròn xoa vào nhau rồi hỏi: “Cậu lạnh lắm à?”. Tôi gật đầu và càng ngạc nhiên hơn khi Frank cởi ngay chiếc áo jacket khoác lên vai tôi. Tôi ngại ngần định lật trả chiếc áo thì Frank đã nói: “Không sao đâu! Vì tôi không thấy rét bao giờ!”. Và rồi Frank vén tay áo lên lên để lộ phần cổ tay bảo tôi nhìn. Giống như lúc tôi nhìn thấy ở quán bar, trên cổ tay có vô số các vết rạch tự sát. “Việc không cảm thấy lạnh và các đường rạch tự sát có liên quan gì tới nhau nhỉ?” Tôi nghĩ.

“Từ lúc uống máu của mama tôi như bị ám ảnh bởi suy nghĩ lại muốn hút máu của một ai đó. Không hẳn là tôi thích uống máu mà tôi bị ám ảnh bởi hành động uống máu. Điều đó thật bất thường. Con người có thể tưởng tượng được, tức là trong các loài động vật thì chỉ có loài người mới có khả năng tưởng tượng. Con người với sức mạnh phi thường hơn hẳn các loài động vật to lớn khác, để có thể tồn tại thì cần phải có sức tưởng tượng. Để có thể vượt qua nguy hiểm mà sống sót, nhất định phải cần tới khả năng phán đoán, thể hiện, truyền đạt, xác nhận… và cái chi phối những điều đó chính là khả năng tưởng tượng. Tổ tiên của chúng ta đã tưởng tượng ra hầu hết những mối hiểm nguy và phòng chống sao cho nó không trở thành hiện thực. Chính vì thế, cái khả năng tưởng tượng ấy vẫn được lưu truyền tới thế hệ ngày nay. Nếu được phát huy theo hướng tích cực thì nó sẽ sinh ra các lĩnh vực như nghệ thuật, khoa học, còn nếu được phát huy theo hướng tiêu cực thì nhất định nó sẽ trở thành mối nguy hiểm, lo lắng, sự căm thù và sẽ tác động ngược trở lại bản thân. Trẻ con thường bị cho là nhẫn tâm nhất. Vì bọn trẻ rất hay giết các loài côn trùng hay trêu chọc những động vật nhỏ, có đứa còn phá hỏng cả đồ chơi. Đó không phải là những hành động do ý thích bản năng mà là do mong muốn thoát khỏi những điều lo lắng trong tưởng tượng thông qua những việc làm thực tế. Chúng không thể chịu nổi sự tưởng tượng của bản thân về việc tra tấn hay giết các con côn trùng nên chúng đã vô thức làm thử cái việc mà chúng cho rằng dẫu có giết lũ côn trùng thì bản thân mình hay thế giới cũng chẳng sụp đổ. Tôi cũng không thể chịu nổi sự lo lắng về nỗi ám ảnh rằng bản thân mình sẽ uống máu ai đó nữa. Chính vì thế, lúc bốn tuổi, lần đầu tiên tôi cắt cổ tay, lần đầu tiên tôi tự hành xác. Tất cả mọi người đều rất ngạc nhiên. Và tôi lại được đưa tới bác sĩ. Người đó nói rằng không được cho tôi xem những thể loại phim hoang tưởng hay kinh dị nữa. Tôi không hề ghét phim kinh dị. Thế nhưng lũ anh trai của tôi còn thích sự điên cuồng hơn cả tôi. Về cơ bản, những người thích phim kinh dị thường đang ở trong tình trạng chán nản, thích cái gì đó mang tính kích động, và rồi họ lại thích sự an tâm. Và cũng vì phim kinh dị đóng vai trò giảm sốc nên nếu phim kinh dị biến mất khỏi thế gian này thì cái gọi là sự lo lắng trong tưởng tượng sẽ không biến mất đi mà có lẽ số tên sát nhân thích sự thử thách sẽ gia tăng đột biến. Khi xem phim kinh dị ta tưởng tượng ra hình ảnh tên sát nhân cũng giống như khi xem tin về tên sát nhân ta cũng sẽ tưởng tương ra tên đó. Từ lúc bốn tuổi đến khi sáu tuổi tôi đã tự cắt cổ tay mình khoảng trên mười lần. Kenn à! Cái lạnh lúc máu chảy dần dần từ trong người mình ra tuyệt vời lắm! Tôi đã bị giám sát rất kỹ. Có một chị gái trông rất xấu xí được giao nhiệm vụ giám sát tôi. Tôi đã bị chị ta đấm rất mạnh khi bị phát hiện đang định tự cắt cổ. Vào một buổi chiều mùa thu, khi chị ta vào nhà tắm, tôi đã cầm con dao của anh trai tôi, nhét chiếc bánh mađalen mẹ tôi vừa nướng cho tôi ban sáng vào trong túi rồi ra khỏi nhà và tôi đã đi lạc rất lâu. Tôi cứ đi mãi trên đường cho đến lúc cũng tìm ra đoạn đường ray quen thuộc thuở nào. Tôi nhớ mình đã từng đi dọc theo đường ray này. Trên mặt đường được làm từ xi măng trộn vỏ sò đã được nghiền nát, có thanh sắt màu đỏ được chôn chặt, tôi còn thấy những mảnh vỏ sò ánh lên lấp lánh trông rất đẹp. Tôi tiếp tục bước đi về hướng ngọn đồi. Cứ thế tôi leo lên đó và bao giờ cũng dừng lại giữa chừng. Tất nhiên là từ lúc ra khỏi nhà tôi đã thành một đứa trẻ lạc rồi. Con đường bây giờ trở nên hẹp hơn, tôi tuyệt nhiên không ngoảnh lại mà tiếp tục bước đi. Có vẻ như nếu ngoảnh lại thì có gì đó sẽ biến mất vậy. Tôi có linh cảm như ở đâu đó của thế giới này sẽ biến mất. Chính vì thế tôi đã quyết định tuyệt đối không ngoảnh lại hay nhìn xuống phía dưới. Con dao tôi mang theo khá là to nên không thể tiếp tục giấu trong quần được, trong lúc tôi đang bước đi, nó rơi từ chiếc quần đùi xuống, tôi vừa cầm con dao vừa nhìn chằm chằm vào đường ray bằng sắt có màu đỏ và nền xi măng có trộn với vỏ sò được nghiền nát vừa tiếp tục bước đi. Cho tới lúc bỗng nhiên tôi không còn thấy đường ray nữa, tôi đã nghĩ rằng đường ray không bao giờ có điểm dừng nên tôi vô cùng sững sờ. Tôi cứ nhìn rất lâu đoạn đường ray bị cắt đứt giữa chừng, tôi đã nghĩ rằng đó là đường biên giới của thế giới. Và tôi để ý rằng tôi đã đứng ở đỉnh ngọn đồi từ lúc nào. Trước mặt có một cái hồ, khi ngoảnh lại tôi thấy ở phía dưới toàn bộ khu phố trông như một bức họa. Lần đầu tiên tôi thấy một khung cảnh như thế. Tôi cũng chưa khi nào ở trên đỉnh dốc như thế này. Tôi có thể nhìn thấy toàn cảnh khu phố. Ở trên ngọn đồi thoai thoải, ngôi nhà, cửa hàng cứ mọc san sát, khu trung tâm có nhà thờ, công viên và cả những tòa nhà lớn. Còn chiếc cần cẩu của khu sản xuất tàu, chiếc thuyền ngày xưa các anh trai của tôi thường dẫn tới nhìn trông bé tẹo như con sò. Ở phía đối diện, biển đang bốc khói màu xam xám, mặt trời rất to đang lùi dần ở phía chân trời, một cơn gió đẩy mùi biển ban sáng lan tỏa tới chỗ tôi. Tôi có thể nhìn thấy toàn bộ. Tôi vừa cảm thấy như cả thế giới đang ở dưới chân tôi và lại vừa có cảm giác như tôi đang bị tách ra khỏi thế giới. Tôi lẩm nhẩm trong miệng: “Tuyệt vời!” cứ như là tôi đang hứng đựng sự soi rạng của Thần Thánh. Trên đỉnh núi có vết tích của một mỏ than lộ thiên. Và con đường khai thác quặng đã thành một cái hồ hình gấp khúc. Trên mặt hồ có mười mấy con thiên nga, chúng bay tới từ Quebec. Tôi đi vòng xung quanh chiếc hồ rậm rạp đầy cây sậy. Khi tôi ngồi xuống chỗ bãi đá, tôi lấy chiếc bánh ra khỏi túi, bẻ nhỏ rồi bắt đầu ném về phía hồ. Tôi không biết là thiên nga ăn được bánh mađơlen. Đám thiên nga lướt trên mặt nước tiến về phía tôi. Tôi biết rõ rằng nếu tôi mà đến gần thì chúng sẽ chạy trốn. Đó là vì bản thân tôi cũng như vậy, hễ ai đó hoặc cái gì đó mà tiến sát lại là nhất định tôi sẽ trốn chạy. Những gì tiến lại gần mà không hề có sự báo trước không thể nhầm lẫn được, đó chính là địch. Có một con thiên nga bơi đến gần chỗ tôi, nó không hề cảnh giác và đó là một con thiên nga chưa trưởng thành. Toàn bộ thân của nó nhuốm màu cam của buổi chiều tà. Trái tim tôi đang hoảng sợ đập nhanh như muốn nhảy bổ ra ngoài miệng, mũi hay tai vậy. Tôi thầm nhủ rằng vẫn chưa… vẫn chưa đến lúc. Con thiên nga đó đã tiến sát đám lau sậy, nơi mà chỉ cần tôi vươn tay ra là chạm tới cái cổ thon dài của nó. Thế nhưng, tôi vẫn ngồi nguyên vị trí, bẻ nhỏ miếng bánh mađơlen tiếp tục ném về phía mặt hồ. Tôi lặng lẽ, nhè nhẹ lấy con dao ra khỏi chiếc quần sao cho con chim không phát hiện ra, tháo chiếc bao làm bằng da. Con dao của anh trai tôi rất nặng và to. Tôi nghĩ mọi thứ như đang hòa quyện, cái cảm giác bị tách rời khỏi thế giới và cái cảm giác thế giới đang ở dưới chân trở thành một trong con người tôi. Tôi từ từ đặt con dao lên vai rồi nhắm vào cổ con thiên nga cắt đứt phựt một nhát, lần đầu tiên tôi biết rằng cổ thiên nga có xương vì tôi nghe thấy một tiếng rắc rất đặc biệt giống như là cành cây khô bị gãy. Chỗ cổ con thiên nga bị gãy, máu phọt ra rất nhiều. Máu có vị khác với máu của mẹ, nó ngọt ngọt, tôi nghĩ có lẽ là do có lẫn vụn bánh mađơlen. Tôi nhớ là tôi đã uống rất nhiều máu. Quanh hồ chính là vết tích của mỏ than, đó cũng là nơi xảy ra nhiều vụ phạm tội như là hãm hiếp… Từ hồi nhỏ hầu như chẳng có ai tới thăm tôi cả. Vì thế tôi đã sống mà không ai biết là tôi giết thiên nga.”

Frank ngừng nói, cúi mặt xuống, lấy ngón tay ở cả hai tay chấm vào hai con mắt. Giống như là đang lau nước mắt vậy. Frank nói nhỏ rằng đó là do ông ta đang mỏi mắt.

“Tôi bị mất ngủ, hễ tình trạng mất ngủ kéo dài là mắt tôi bị đau, các bộ phận khác của cơ thể vẫn bình thường. Chỉ có mắt là cực kỳ đau không chịu nổi.”

“Ông bị mất ngủ bao lâu rồi?” Tôi hỏi.

“Khoảng một trăm hai mươi tiếng đồng hồ.” Frank đáp.

“Một trăm hai mươi tiếng tức là năm ngày.” Tôi vừa tính vừa nói. Tôi nghĩ chắc là Frank đã dùng thuốc kích thích hay gì đó tương tự. Có rất nhiều đứa bạn của tôi đang nghiện loại thuốc kích thích. Ở lớp của Jun hình như cũng có mấy đứa như vậy. Khi dùng liên tục thuốc kích thích thì cũng có trường hợp không ngủ suốt mấy chục tiếng đồng hồ. “Ông có dùng loại thuốc gì không?” Tôi hỏi.

“Không phải thế!” Frank lắc đầu.

“Tôi đã giết hai người trong khu phố, tôi đã uống máu thiên nga. Tôi đã được đưa vào bệnh viện tâm thần, tôi nghĩ đó là bệnh viện có quân đội quản lý. Bác sĩ đoán rằng những câu trả lời của tôi với cảnh sát là khác thường. Cái cảm giác mà thế giới ở ngay dưới chân tôi và sự lo lắng rằng tôi sẽ bị tách rời khỏi thế giới vẫn tiếp tục từ lúc tôi đón buổi chiều tà ở chiếc hồ đó. Tôi bị bắt uống rất nhiều thuốc ở bệnh viện. Thuốc được trộn với thức ăn và được nhồi vào trong họng bằng một chiếc que làm bằng nhựa ở phía đầu có gắn một mẩu Silicon. Chiếc que đó hình như được làm để dành riêng cho những người không thể tự cho thức ăn vào miệng. Nó rất hiệu quả, một lượng lớn thức ăn được nhồi vào. Do tác dụng phụ của thuốc mà người tôi trở nên béo quay béo cút, mặt tôi trắng xanh, tôi có cảm giác như cơ thể hiện tại không phải là của tôi nữa, nó giống như là thân hình của một con thú nhồi bông, được nhồi cả mùn cưa hay cái gì đó nữa. Tôi có cảm giác người tôi biến thành chất lỏng. Tình trạng đó kéo dài tới vài năm. Tôi thấy tôi không phải là tôi nữa. Tôi nghĩ chắc chắn là vậy, đúng là không phải tôi. Đúng là một trò đùa. Trước tiên, con người thực sự của tôi đang lùng sục lục phủ ngũ tạng nhưng không tìm thấy, dẫu có rạch đứt da thì cũng chỉ thấy máu, lòng, bắp thịt và xương. Sau một năm, tôi ra viện với thân hình mập tròn. Người tôi trở nên rất lạ. Cả nhà tôi đã chuyển đi, tới một làng quê ở Vlrgirda. Papa, mama và ngay đến cả anh trai tôi khi ra đi không hé răng với tôi một lời nào. Sau đó gần 10 năm trôi qua, tôi thành người lớn, khi tôi ở tù anh cả tôi đến thăm, anh mới giải thích cho tôi hiểu. “Đó không phải là vì cậu đã giết người mà cậu đã trở nên béo phì thành một người khác. Mọi người không biết nên phải làm gì, nên nói chuyện như thế nào cho đúng.” Anh tôi đã nói như thế. Tôi bị chứng mất ngủ từ lúc tôi vào bệnh viện tâm thần lần thứ tư. Khi đó tôi đã bị cắt bỏ một phần não, và từ ấy tôi ngủ rất ít, thế nhưng không phải mang tính thường nhật. Tôi phải phẫu thuật thùy não. Người ta đục một lỗ ở xương sọ, rồi chọc một dụng cụ gọi là lobotom vào, cắt dây thần kinh. Chụp được cả ảnh cắt lớp. Hồi đó tôi đã có một cuộc phẫu thuật. Tôi được biết những người sau khi phẫu thuật như thế thường trở nên cực kỳ trầm tính. Bệnh viện tâm thần của Mỹ đứng đầu bảng về bộ môn não, thần kinh. Người Mỹ rất thích động chạm tới phần não. Khi bị cắt một phần não tôi mới mười lăm tuổi. Tôi trở nên tôn sùng trò ma thuật. Tôi đã thân quen với rất nhiều gã ở trong bệnh viện tâm thần và nhà tù dành cho thiếu niên. Hội chúng nó đã dạy cho tôi cách giết người đúng kiểu như là cách cắt cổ sao cho máu gần như là không phọt ra ngoài hay để cắt phần gân nổi bắp chân với gót chân sao cho có tiếng như tiếng xé vải thì trước tiên phải đặt con dao ở vị tí như thế nào. Tôi cũng đã học thuật thôi miên và không ngờ nó lại đơn giản đến thế. Tôi luôn nghĩ cách giết như vậy chưa đủ, phải có một cách nào khác nữa. Có một lần tôi đã tìm ra cách đó. Vì khi giết người cũng có lúc tôi tập trung hơn tới cái gọi là nhân sinh. Có những khoảnh khắc đầu óc tôi minh mẫn, có vẻ như để ý tới một cái gì đó khác. Kenji! Cậu đã từng vào bệnh viện tâm thần chưa?”

Câu chuyện của Frank về cơ bản là rất khó hiểu mà cũng rất khó nghe nhưng không thể bịt tai lại được. Giống như thể nghe nhạc còn hơn là nghe nói chuyện. Tôi có cảm giác như có giai điệu và nhịp điệu, không phải thấm vào từ tai mà thâm từ lỗ chân lông vào da thịt. Và như bị cuốn vào câu chuyện của Frank nên khi bị hỏi là đã bao giờ vào bệnh viện tâm thần chưa thì tôi đã không thể nghĩ nổi rằng Frank đã hỏi một câu quá ư là ngớ ngẩn. Tôi đã trả lời một cách hết sức bình thường: “No!”. Trong lúc nghe câu chuyện của Frank kể tôi đã không hề nghĩ đó là câu chuyện bất bình thường. Tôi nghĩ, khi nghe câu chuyện của Frank có cảm giác giống như khi nghe câu chuyện về loài người trước đây đã chém giết nhau, có thời kỳ còn ăn thịt lẫn nhau. Ranh giới giữa cái gọi là bình thường và bất thường trở nên mong manh. Không rõ cái nào là tốt cái nào là xấu. Vừa có tâm trạng hoảng sợ, bất an vừa có cảm giác hoàn hồn kỳ lạ mà từ trước tới giờ tôi chưa từng nếm trải. Tôi cũng có cảm tưởng như đang bị bao vây bởi cái gì đó nhũn nhũn như là thạch hay như kiểu những rắc rối ngập tràn trong thế giới này bỗng chốc được giải quyết mà chẳng phải nghĩ ngợi gì, và cũng như thể ranh giới giữa bản thân mình và người khác trở nên mơ hồ.

Tôi đã bị kéo vào một nơi nào đó hoàn toàn khác.

“Bệnh viện tâm thần! Đó là một nơi rất cuốn hút tôi. Tôi vẫn không thể quên câu chuyện về việc thử nghiệm con mèo. Cho một con mèo vào chiếc hộp thử nghiệm, mỗi lần nó lấy chân ấn nút là thức ăn được cung cấp, cứ lặp đi lặp lại hành động đó sẽ làm cho con mèo nhớ được. Đó là phần huấn luyện. Khi xong phần huấn luyện đó, người ta để con mèo ở trạng thái đói ăn, rồi lại nhét nó vào trong chiếc hộp thử nghiệm có cái nút ấn giống hệt nhưng nếu ấn vào sẽ có dòng điện chạy qua. Khi đó, con mèo bị kích thích nhẹ, nó trở nên lo lắng. Sau đó con mèo rơi vào trạng thái như bị thần kinh, cuối cùng thì mất luôn cả cảm giác thèm ăn và chết vì đói. Cậu thấy thú vị không? Chính một chuyên gia kiểm nghiệm tâm lý đã kể cho tôi câu chuyện đó đấy. Cậu có biết về kiểm nghiệm tâm lý không? Tôi đã thử tới hàng trăm lần ấy nên tôi thuộc làu các mục câu hỏi, hơn mười tuổi tôi đã rành hơn cả một thẩm phán. Nổi tiếng nhất là loại Minnesota Multiphasic Personality Inventory (một loại trắc nghiệm tính cách, được thiết lập để chẩn đoán bệnh tâm thần). Cậu có định thử không?”

Tôi thực sự bị cuốn hút vào câu chuyện về con mèo. Nó lấy chân ấn nút để được cho ăn. Phần huấn luyện đó quả là thú vị. Phần thử nghiệm tiếp theo thực hiện khi con mèo đói, cũng ấn nút nhưng lại chỉ được nhận cái gọi là đau đớn. Đương nhiên là con mèo không hiểu gì cả. Tôi cũng có cảm giác như đã nếm trải điều tương tự như thế hằng ngày khi còn nhỏ. Không phải là chuyện mang tính đột ngột như là việc bố mất mà nó mang tính thường ngày. Thế giới của người lớn xung quanh không phải là thứ diễn ra như đúng suy nghĩ của mình. Nên những đứa trẻ không thể sống nổi một mình sẽ lớn lên với suy nghĩ giống như con mèo kia. Bao gồm cả thái độ của cha mẹ, phản ứng xung quanh đối với trẻ con là không đồng đều. Đặc biệt, đất nước này lại rất lộn xộn. Không có tiêu chuẩn nào nói cái gì là quan trọng nhất. Đám người lớn sống chỉ vì tiền hay chỉ vì cái gì đó có giá trị vật chất, tức là cái gì đó giống như đồ hàng hiệu. Có thể nghe thấy các mẩu tin trên ti vi, báo, tạp chí, đài… nói tóm lại là trên tất cả các phương tiện rằng bản thân họ chỉ mê mẩn mỗi tiền và đồ hiệu, chẳng có gì cần thiết hơn. Từ chính trị gia, quan chức tới các bố già, nhân viên công ty hạng bét thường uống loại rượu rẻ tiền ở các cửa hàng quanh vùng cũng đều chỉ cần tiền. Miệng thì ngoạc ra nghe có vẻ vĩ đại rằng sống trên đời đâu chỉ có tiền, nhưng cứ nhìn vào cách sống thì lộ ra ngay rằng mấy gã đó ngoài tiền ra chẳng tìm cái gì khác. Tạp chí hằng tuần của các bố già hay chỉ trích các cô nữ sinh cấp III đi làm gái bao, trong cùng một số nào là giới thiệu phần Fashion Health (Một loại fuzoku của Nhật. Ở trong phòng riêng nhân viên nữ sẽ phục vụ các khách hàng nam về mặt tình dục) với giá đặc biệt hay món xúp buổi sáng sớm, nào là vừa công kích thói tham ô của các chính trị gia và quan chức, vừa giới thiệu các cổ phiếu thượng hạng có thể mua giá rẻ hay các bất động sản, rồi đưa cho xem cả ảnh về nhà mình hay những thứ mà mình có thuộc hạng cao cấp, ra vẻ ta đây là người thành đạt. Những đứa trẻ ở đất nước này, ngày nào cũng như ngày nào, suốt 365 ngày trong năm, và cũng gần như suốt cả ngày đều có suy nghĩ giống như con mèo chờ thức ăn. Nói một cách ngắn gọn là trong thế giới trù phú có đầy đủ lương thực như thế này, các ông bố thường nói rằng chúng ta vừa ăn khoai vừa cố gắng chọn đất nước trù phú như thế này đó. Rồi lại nói vẻ vĩ đại như kiểu chẳng thích sống như thế này chút nào. Lúc nào chúng tôi cũng nghĩ, nếu sống theo những gì bạn nói thì chắc chắn sẽ trở thành người giống bạn. Đó là nỗi đau.

“Kenji! Cậu sao vậy?”

Frank đang nhìn thẳng vào mặt tôi. “Không có gì!” Tôi nói.

“Mặt cậu trông có vẻ như là đang tức tối điều gì vậy ấy!” Frank vừa uống một hơi nước Evian vừa cười nói.

“Tôi thấy câu chuyện về con mèo rất thú vị!” Tôi cũng vừa nói vừa uống Coca. Chai Coca đặt ở trên sàn không còn ấm nữa. Tôi nghĩ nơi này thật lạ. Tôi có cảm giác như bị cô lập với xung quanh, cũng là vì cái giá rét nhưng cứ như đang ở một hành tinh khác vậy. Có lẽ hành tinh đó chấp nhận kẻ sát nhân. Chí ít là trong cuộc chiến thì kẻ sát nhân chính là anh hùng. Với suy nghĩ đó, lần đầu tiên tôi hiểu rõ được lý do tại sao tôi không vào trong đồn cảnh sát khi ở trên đường của Kabukicho ban nãy. Những người bị giết ở quán bar đó ở một môi trường giống như con mèo đợi thức ăn, đã không hề kháng cự. Tôi nghĩ, lẽ nào Frank đang kháng cự. Ban đầu là được cho ăn, có nghĩa là không phải phạm tội, nhưng sau đó lại bị cho “ăn điện”, trở thành một trong số ít những người phản kháng với cả thế giới mà cái hộp thí nghiệm là vật tượng trưng. Tôi nghĩ như vậy và nhìn sang Frank, người đang bị ánh sáng của đèn tuýp hắt vào từ dưới lên, thấy rằng đó như là một người đàn ông dẫu có bị đối xử tàn nhẫn nhưng nhất quyết không chịu khuất phục. Frank nói: “Cậu có thử trả lời một số câu trắc nghiệm tâm lý không?”. Frank nói, rồi liến thoắng hỏi tôi các câu hỏi mà Frank thuộc làu làu. Tôi cứ trả lời “Yes” hoặc “No” với từng câu hỏi của Frank.

Có rất nhiều loại câu hỏi. Từ câu hỏi dành cho kẻ mê mẩn những bài thơ tả về các loài hoa đến những câu hỏi dành cho những kẻ có bộ phận sinh dục với hình dáng dị thường hay có sở thích chọc ghẹo người mình thích. Có khoảng hơn 200 mục câu hỏi tất cả. “Thú vị không?” Frank nhoẻn cười.

“Tất cả những câu hỏi vừa rồi đều là do tôi nghĩ ra cả đấy! Sẽ không ổn khi nghĩ rằng phải trả lời ngay các câu hỏi trắc nghiệm. Tôi đã được hỏi tới vài trăm lần rồi nên bây giờ tôi là kẻ nắm chắc nhất các trắc nghiệm tâm lý mang tính thế giới nữa cơ đây!”

Tôi nhìn kết quả của phần trắc nghiệm, nói: “Tôi có chỗ nào bất thường không nhỉ?”.

“Không có! Tất cả đều rất bình thường! Những người có tinh thần khỏe mạnh là những người có sự nổi loạn và mâu thuẫn ở chừng mực nào đó. Những người mà cứ bình bình, có sở thích và sở ghét cứng nhắc như đá mới là những người nguy hiểm. Tất cả mọi người đang sống ở trạng thái mà không biết con lắc nghiêng về hướng nào hay lúc nào cũng khổ sở khi gặp rắc rối. Chính cái đó mới là bình thường”

“Thế còn ông thì sao?” Tôi hỏi.

“Tôi bình thường mà!” Frank trả lời.

Khi nghe vậy, tôi có cảm giác không tự nhiên chút nào. Tôi nghĩ liệu ông ta có chắc chắn là vậy không? Mở đầu là việc có mẩu da người gắn trên cửa, sau đó liên tiếp các sự việc bất bình thường không thể tưởng tượng nổi đã xảy ra. Dĩ nhiên như thế sẽ rất mệt mỏi vậy mà mắt cẫn cứ chong chong, chẳng có gì là buồn ngủ cả. Vừa lạnh thấu xương thấu gan vừa phải ngồi trong căn phòng hết sức lạ kỳ với các dụng cụ y tế vương vãi trên sàn này. Lẽ nào khung cảnh này đã khiến tinh thần của tôi hơi khác thường một chút? Nào là bị Frank cảm hóa, nào là thấy thấu hiểu tâm can Frank, mà cũng không hẳn là thế. Nhưng tôi chắc chắn rằng có lẽ chỉ có trái tim và cơ thể tôi đang bị kéo vào nơi mà từ trước tới giờ tôi chưa từng đặt chân. Tâm trạng tôi giống như thể đang vừa đi du ngoạn ở một nơi lạ hoắc không dấu chân người vừa nghe câu chuyện của người hướng dẫn du lịch.

Frank nói với tôi rằng chắc là tôi đã thấm mệt rồi.

“Kenji! Chắc hẳn cậu mệt rồi! Có rất nhiều chuyện tôi chưa kịp kể với cậu, nhưng thôi cậu cứ nghỉ ngơi đi đã, tôi nay còn phải đi nghe tiếng chuông nữa!”

“Tôi không thể ngủ được!” Tôi nói.

“Cậu nghĩ là sẽ bị tôi giết à?”

“Không phải thế! Tôi có cảm giác như đầu tôi đang căng hết cả lên!”

“Hay cậu nên ăn thứ gì đó?”

“Tôi không có cảm giác thèm ăn!” Tôi trả lời.

“Nhưng cứ cho cái gì vào miệng là sẽ ngủ được ngay đây!” Frank nói. Trong đống giấy lót làn sóng (giấy gấp theo hình làn sóng, dùng để bảo quản thủy tinh) được xếp ở phòng, Frank lấy máy pha cà phê, rót nước Evian vào rồi cắm phích điện để đun sôi nước. Và cũng từ đống giấy lót làn sóng, Frank lấy ra hai cốc Ra-O (mì ly ăn liền).

“Lúc nào ông cũng ăn loại mì này à?” Tôi hỏi.

“À hà!” Frank cười. “Vì tôi chẳng thèm ăn một thứ nào khác cả!”

“Có lý do gì đó chăng?” Tôi vừa nhìn khói bốc lên từ máy pha cà phê vừa hỏi. Là vì tất cả mọi người ai chẳng thích của ngon vật lạ.

“Đó là bởi suốt một thời gian dài trong bệnh viện tâm thần tôi bị nhồi nhét toàn đồ ăn dành cho người ốm chẳng có vị gì cả, với lại tống như kiểu ấn vào họng. Tôi hầu như chẳng có ký ức gì về thức ăn ngon cả. Cứ ăn thứ gì thì thứ đó như là chui tuột ra ngay khỏi cơ thể, tôi có cảm giác như những thứ quan trọng chạy trốn đi hết cả.”

Đó là gì nhỉ?

“Tôi được trời giao cho một nhiệm vụ, đó là giết người. Ấy chính là một sứ mệnh trời ban”.

Chẳng mấy chốc cốc mì đã nấu xong. Frank đưa cho tôi chiếc nĩa nhựa. Hơi nước, mùi và hơi ấm của cốc mì lan tỏa, thấm sâu vào cơ thể tôi. “Nghe một trăm lẻ tám tiếng chuông xong ông có tiếp tục giết người nữa không?” Tôi vừa húp mì vừa hỏi.

“Tôi chẳng biết nữa!” Frank trả lời.

“Tôi đã nghĩ, ngoài việc giết người ra chẳng có việc gì đáng làm cả! Để tiếp tục tồn tại thì việc giết người trở thành một việc không thể thiếu được. Việc rạch sâu cổ tay, cắt cổ con thiên nga để uống máu hay việc giết người về cơ bản là giống nhau. Nếu không hoạt tính hóa bộ não và cơ thể để sống thì con người, ví dụ ngay cả một đứa trẻ cũng sẽ bị bệnh alzheimer (bệnh mất trí nhớ). Lượng máu truyền tới não sẽ giảm dần. Con mèo kia do bị stress mà bị giảm lượng máu đến tột cùng. Để ngăn chặn điều đó, con người từ thời kỳ săn bắn, hái lượm đến thời kỳ của nhạc Pop, xe đua đã nghĩ ra tất cả những phương pháp có thể, thế nhưng, cách để phòng chống bệnh alzheimer không nhiều. Đặc biệt là đối với trẻ em, chúng rất yếu ớt nên chúng không có nhiều sự lựa chọn. Vì sự quản lý đang được tăng cường mang tính toàn cầu nên những người như tôi đang gia tăng.”

Frank vừa chọc chiếc nĩa vào cốc mì rồi đưa lên cằm và cứ giữ nguyên như thế vừa tiếp tục nói như thể đang quên là phải cho mì vào miệng. Giọt nước trong cốc mì rơi xuống sàn phủ đầy bụi. Vừa mới đó đã không thấy khói bốc lên từ mặt cốc mì. Vậy mà Frank vẫn không ngừng nói chuyện, quên luôn việc mình đang định ăn mì. “Tập trung”, từ đó vẫn chưa thể diễn tả đủ. Mà còn có gì đó mang tính nghiêm trọng, như thể bị cái gì đó ám ảnh. Nếu ngừng nói chuyện thì sinh mệnh sẽ chấm dứt. Frank vẫn đang nói chuyện với cảm giác đó và chưa hề ăn một sợi mì nào. Sợi mì ở trên chiếc nĩa đã chuyển màu. Câu chuyện vẫn cứ kéo dài kéo dài mãi, tôi vừa nhìn sợi mì đã khô và chuyển màu đang đưa đi đưa lại vừa nghĩ không biết ban đầu nó là cái gì. Trong mắt tôi những sợi mì đó biến thành một thứ rất kỳ lạ. Frank nói rằng không có cảm giác thèm ăn, rồi hầu như không ngủ. Và ông ta cũng nói thêm để tiếp tục tồn tại, cần phải giết người, đó là việc cần thiết. Tôi có cảm giác như đã hiểu một chút ý nghĩa của những lời nói đó. Tôi đánh mắt về phía đầu chiếc nĩa nhắc Frank dừng câu chuyện lại một lát mà ăn mì cái đã. Và Frank giật mình như hiểu ra là mình đã quên bẵng việc ăn mì và bắt đầu cho mì vào miệng, nhai với vẻ mặt như kiểu thắc mắc rằng tại sao động vật cần phải thực hiện một việc phiền toái đó là “ăn” cơ chứ?

“Lúc tôi hai mươi tuổi, có vụ giết liên tiếp ba người mà chỉ nhằm đúng đối tượng là những cụ già hay nằm ngủ trên ghế đu. Tôi đã ghi âm vào băng rằng chính tôi là thủ phạm rồi gửi cho đài phát thanh địa phương. Tôi có một anh bạn DJ, và tôi muốn cho anh ấy biết rằng tên giết người hàng loạt đang trở thành chủ đề nóng nhất đó chính là tôi. Tôi đã nhét bông gòn vào trong miệng, dán giấy bóng kính vào miệng, ngậm chiếc bút chì để thay đổi giọng nói, ghi âm vào chiếc máy cassatte cũ kỹ của bố. Rất thú vị. Chỉ để thu âm thôi mà mất tới hơn hai mươi tiếng đồng hồ. Vậy mà tôi không hề thấy nhàm chán. Cuối cùng FBI đã vào cuộc, phân tích mẫu giọng và kết luận đó là băng của tên tội phạm thật nên tôi hối hận vì đã ghi âm và gửi cuốn băng đó đi. Nhưng mấy năm sau, khi nhớ lại tôi vẫn thấy việc ghi âm đó thú vị thật. Lúc tôi ghi âm cuốn băng, tôi có cảm giác như đang tiếp xúc với tôi ở bên ngoài, không thể nói lưu loát được. Nhưng khi giết người thật thì tôi có cảm giác đó mới chính là tôi. Con người tôi và cơ thể của tôi rất ăn khớp với nhau. Tôi muốn nghe tiếng chuông để kiểm chứng xem nếu đúng là cái bản năng xấu sẽ biến mất thì trong con người tôi sẽ biến mất cái gì. Tôi thực sự muốn kiểm chứng điều đó!”

Ăn hết chỗ mì hồi lâu tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Khi tôi dụi mắt thì Frank chỉ vào tấm đệm rồi nói tôi cứ nằm trên đó mà ngủ. Trên tầng hai có giường nhưng leo được lên đó thì cũng hơi mệt nên tôi cứ mặc nguyên bộ quần áo nằm luôn lên đệm. Đèn tuýp đặt ở trên sàn chiếu vào hơi chói nhưng vì Frank vẫn chưa ăn xong nên tôi lấy một tay che mắt rồi thiếp đi. Frank để ý thấy và đã tắt đèn. Chiếc đệm khá là lạnh giờ cũng ấm hơn. Tôi tự hỏi Frank toàn nằm nghỉ thế này sao? Mấy lần tôi tưởng đã chìm vào giấc ngủ rồi nhưng do lạnh nên tôi giật mình tỉnh lại, mãi không chợp mắt được. Lúc ăn mì xong có ấm được chút xíu bây giờ lại lạnh trở lại, hơi lạnh ở dưới sàn luồn qua chiếc nệm truyền vào người, khiến người tôi run rẩy tự lúc nào. Frank đem ra một thứ sờ giống như là cái chăn, đắp lên người cho tôi. Lúc tôi cựa quậy, tôi nghe thấy tiếng loạt soạt nên tôi đoán Frank đắp cho tôi một loại giấy dày và mềm. Trong bóng tối mịt mùng, tôi nghe thấy tiếng Frank đang ăn nốt chỗ mì. Ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi cũng đã một lần rùng mình nghĩ rằng mình sẽ bị giết. Nhưng tôi lại tự nhủ mình không thể bị giết trước khi nghe tiếng chuông Giao thừa được. Tôi có nghe tiếng một con chim ré lên trước lúc tôi thiếp đi.

Đúng là có mấy tờ báo được phủ lên trên người tôi. Tôi nghe thấy tiếng Frank dặn tôi là sẽ không trở về đây nữa nên đừng để quên thứ gì. Nhìn ra tôi không tin vào mắt mình nữa, Frank đang thay quần áo, một bộ vest tuxedo. “Tôi chờ cho đến lúc cậu dậy đấy!” Frank nói.

“Ở phòng này không có gương nên tôi không biết chiếc nơ ở cổ áo thắt đã chuẩn chưa?”

Chiếc quần Frank mặc có may cả đường viền, chiếc áo sơ mi bên trong làm từ vải bóng, phía ngực được may thêm bèo. Trong góc hộp các tông đặt ở sàn có chiếc nơ cài áo và áo khoác.

“Trông ông diện ghê!” Tôi nói.

“Cám ơn cậu!” Frank vừa cài khuy áo vừa cười.

Khi nhìn Frank đang định mặc bộ vest tuxedo trong căn phòng mờ tối vương vãi các mảnh kính vỡ trên sàn, tôi có cảm giác như vẫn đang trong giấc mơ. “Ông đã mang theo bộ áo này tới đây à?” Tôi hỏi.

“À, à…” Frank đáp. “Tôi đã đem nó theo đây! Bộ tuxedo này mặc trong những dịp lễ tết là phù hợp nhất!”

***

Bây giờ là 4 giờ chiều, chúng tôi ra khỏi căn nhà. Tôi không rõ là lượng người sẽ đổ về cầu Kachidoki là bao nhiêu nhưng nếu không vào được tới cầu thì sẽ rất khốn đốn. “Từ lúc tới Nhật, ông ở đây suốt à?” Tôi hỏi khi vừa bước ra khỏi căn nhà. “Tôi đã ở khách sạn rồi nhưng không thấy thoải mái!” Frank vừa bước trong cái hẻm vừa trả lời. Tối qua, do trời tối nên tôi không để ý thấy. Có biển cấm vào được chăng khắp lối vào hẻm. Tôi thấy có cả tấm biển ghi chữ: Nơi lưu trữ chất nguy hiểm! Khi tôi nhìn chằm chằm vào tấm biển, Frank nói với tôi chất nguy hiểm đó là chất polychlorinated Biphenyl (PCB). Ở khu vực này toàn tập trung nào là trạm xá nhỏ nào là văn phòng của các cố vấn về thuế hay văn phòng của kế toán viên. Bọn họ không dùng giấy than mà toàn dùng giấy copy làm từ PCB. Hình như ở quanh đây cũng có xưởng sản xuất nhỏ hay kho bán buôn loại giấy như thế. Vì biết được rằng PCB rất độc hại nên khu vực này đã bị phong tỏa. Cảnh sát không biết rằng tính chất hóa học của chất dioxin chỉ phát tác khi bị đốt cháy nên họ cũng tuyệt đối không bén mảng tới đây bao giờ. Và đây chính là nơi lý tưởng nhất để ẩn náu. Có vẻ như thông tin này Frank đã được mấy người vô gia cư nói cho biết. Frank bảo rằng đó là một người vô gia cư nói tiếng Anh. Tôi cũng đã không hỏi liệu đó có phải người vô gia cư mà người ta tìm thấy xác đã bị đốt cháy không?

Trên bộ vest tuxedo, Frank có quàng thêm một chiếc khăn màu đỏ. Chúng tôi đã tới nhà ga Yoyogi, và bộ vest đó có vẻ chẳng nổi bật chút nào. Có lẽ vì mọi người tưởng chúng tôi đang ra ngoài để tới một bữa tiệc đón Giao thừa.

“Vào thời điểm Giao thừa mọi người thường ăn Sôba đấy!” (một loại mì sợi dài được làm từ bột kiều mạch, món ăn truyền thống của Nhật). Nói xong tôi rủ Frank vào quán mì Sôba ở trước nhà ga. Tôi đói kinh khủng. Tôi gọi một tô Sôba cá trích, còn Frank gọi một tô Zarusôba. Trong quán có mấy đôi đang ăn là học sinh hay học sinh dự bị gì đó và chẳng hề để ý khi chúng tôi bước vào. Bộ vest tuxedo của Frank, theo con mắt của một kẻ không sành lắm về thời trang nhưng tôi cũng nhận ra rằng nó là bộ vest rất rẻ tiền. Chiếc khăn cũng không phải là loại khăn len casơmia. Chiếc áo sơ mi của tôi thì nhàu nhĩ vì nằm lâu trên tấm nệm, lại còn bị dính bụi bẩn nữa. Nếu nhìn kỹ đáng lẽ phải nhận ra chúng tôi rất đáng nghi nhưng mấy đôi học sinh đó đang thì thầm nói chuyện với nhau nên chẳng hề chú ý tới chúng tôi. Tôi có cảm giác như đã hiểu ra lý do tại sao Frank giết người dã man như thế mà chẳng hề bị bắt. Ở đất nước này, bây giờ không có ai quan tâm để ý tới ai cả. Không biết ở Mỹ thì thế nào nhỉ? Trong lúc đợi tô mì được đưa tới, tôi có hỏi Frank ý đó thì Frank nói ở các khu đô thị đều giống ở Nhật cả.

Trong quán mì Sôba không có nĩa nên phải mất gần một tiếng đồng hồ Frank mới ăn hết tô zarusôba. Trong lúc những sợi mì trương phình được từ từ “giải quyết” hết thì trời đã xẩm tối. Cửa hàng đã xôn xao chuẩn bị món mì Toshikoshi Sôba (món mì được ăn trước giao thừa, giống bữa cơm tất niên của người Việt). Người chủ cửa hàng là một ông già dáng nhỏ nhắn. Khi tôi xin lỗi về việc đã ăn khá lâu thì ông ta cười nói rằng người nước ngoài ăn chậm là đúng rồi, biết làm sao được. Ở quán mì Sôba bất kỳ đâu đều giống như ở đây, tôi và Frank được nhìn như những người khách bình thường khác và vì thế tôi cảm nhận được một tâm trạng khá kỳ lạ. Có cảm giác tôi đã trở về với cuộc sống thường nhật, tôi đã cho rằng vụ thảm sát tối qua là phi thực tế. Thế nhưng, ở đâu đó trong tôi vẫn còn nhớ rõ nỗi sợ hãi khi thấy chiếc tai đã bị cắt và cái cổ họng bị rạch đứt. Có một cái gì đó như một lớp màng mỏng bị rạch đứt hay một vết rạn nứt mà không rõ ở đâu hình thành và đang bao quanh tôi và Frank. Đó là một cảm giác bồn chồn không yên chút nào.

Trong lúc Frank đang ăn mì Sôba, tôi đã đọc hết góc này đến góc kia tờ báo chiều đặt sẵn trên bàn nhưng không hề thấy đăng gì về quán bar đó. Cửa hàng đóng cửa nên chẳng ai nghi ngờ vì nghĩ rằng quán đang nghỉ Tết. Ngay cả gia đình những nhân viên ở đó cũng nghĩ rằng họ đang phải tranh thủ kiếm tiền vào dịp này nên cũng khó mà báo cho cảnh sát biết. Vì thế, có lẽ vụ việc sẽ bị phát hiện muộn. Không biết đến lúc nào thì các xác chết mới bị phân hủy? Với tiết trời lạnh thế này thì chắc cũng phải lâu lâu.

Frank vừa chọc đôi đũa vào chỗ mì bị trương vừa hỏi tôi tại sao vào đêm Giao thừa mọi người lại ăn mì Sôba. Tôi đã giải thích là mọi người thường truyền nhau rằng ăn mì sẽ được sống lâu hơn. Frank cầm đôi đũa như đang nắm con dao vậy. Frank móc mì vào đầu đôi đũa rồi cứ thế đưa lên miệng. Lúc đầu, các sợi mì cứ trôi tuột xuống, sau đó, khi mì vón thành cục, nó lại rối tung ở đầu đũa. Nhìn cách cầm đũa và cách ăn mì của Frank thì những ai không biết gì có lẽ sẽ thấy rất thú vị. Nhưng tôi thì không hề nghĩ thế chút nào.

“Tại sao người Nhật trước đây lại nghĩ ăn mì sẽ không bị chết nhỉ?”

Frank hỏi với khuôn mặt rất nghiêm nghị. Tôi có đính chính: “Không phải là không chết!”. Frank tỏ ra không hiểu và tôi mới để ý tới sự vô lý trong câu nói. Chắc chắn là về mặt ý nghĩa thì sống lâu và không chết là giống nhau. Tôi chợt nghĩ, phải chăng ở đất nước này việc sống lâu và không chết có sắc thái hơi khác nhau? Phải chăng người Nhật không bao giờ hình dung rằng để giết bản thân mình thì phải có ai đó tác động từ bên ngoài?

Frank bỏ dở tô mì với những sợi mì đã khô và vón thành cục màu xám.

***

Chúng tôi lên tuyến Yamanotesen, rồi chuyển sang tuyến Marunouchisen rồi lại lên tuyến Hibiyasen, sau đó mới xuống ga Tsukiji. Lúc chuyển tàu, phía ga Ginza hơi hỗn loạn, khi đó Frank tỏ ra không thoải mái. Tôi nghĩ chắc là Frank ghét cảnh hỗn loạn nên đã hỏi. Và Frank trả lời là sợ.

“Tôi sợ những chỗ đông người, ngày xưa tôi đã rất sợ rồi, chính vì thế tôi chỉ đơn thuần nghĩ rằng sẽ tới nơi mà chẳng có người nào… đối với tôi chẳng có ai là ở khoảng cách an toàn.”

Từ ga Tsukiji chúng tôi ra phố chính, vì vẫn còn sớm nên dòng người qua lại vẫn ít. Frank nhìn chùa Tsukiji Honganji từ trên cầu vượt dành cho người đi bộ rồi nói trông giống như là đền thờ Hồi giáo của những người vô gia cư. Chúng tôi bước về phía cầu Kachidoki. Frank đã gửi túi xách ở tủ gửi đồ ở ga Yoyogi. Trước khi gửi, Frank có lấy chiếc áo mưa màu ghi từ trong ba lô ra rồi khoác ra ngoài bộ tuxedo. Đó là loại áo mưa bình thường mà người Anh hay mặc, chính vì thế mà Frank lại càng không có gì nổi bật. Con đường tới cầu Kachidoki khá là rộng mà xung quanh các cửa hàng, quán nước vừa ít lại hơi tối, xe đi qua cũng lác đác. Lần đầu tiên tôi tới chỗ này. Quang cảnh ở đây khác hẳn quận Shibuya và quận Shinjuku. Có hẳn một chuỗi cửa hàng tiện ích của một công ty ở ngay cạnh cửa hàng bán đồ câu cá làm bằng gỗ, mái nhà và tấm biển bị hỏng, ngay cạnh dãy phố cổ bán cá khô là san sát các khu nhà chung cư cao ngất ngưởng.

Chúng tôi đã nhìn thấy chiếc cầu cổ làm bằng sắt và đá hình cung tên. “Chiếc cầu đẹp quá!” Frank lẩm bẩm. Một góc bờ sông trở thành một công viên nho nhỏ gọi là gò Sumidagawa. Ở lối vào công viên có một đài phun nước hình chữ nhật làm bằng đá. Không biết là do thời tiết hay do trời tối mà không thấy nước đâu cả. Còn khá nhiều thời gian mới tới giờ đánh chuông Giao thừa nên chúng tôi đi xuống dưới công viên đó và ngồi ở ghế đá. Từ chỗ ghế đá có thể thấy rõ tay vịn của cây cầu. Tôi nghĩ Jun mà quan sát từ chiếc ghế đá này thì tốt quá. Ở trên cầu cứ cách khoảng mấy mét là có đèn làm bằng sắt hắt ánh sáng màu vàng in xuống mặt sông. Không biết có phải là do tôi quen nhìn ánh sáng trắng của đèn tuýp hay không mà tôi nhìn chiếc đèn ấy lại có một cái gì đó hoài niệm. Ở phía đầu công viên có một mấy người đàn ông làm việc xa nhà đang tụ tập thành vòng tròn uống rượu với nhau. Ban đầu họ châm lửa đốt gì đó, chẳng mấy chốc có hai viên cảnh sát tới bắt dập lửa. Mấy người đàn ông đó răm rắp nghe theo. Trời đã tối vậy mà thỉnh thoảng có đàn chim bồ câu tụ tập ở trên cao. Tôi nghĩ cái trắng trắng ở ngay giữa sông chính là đàn mòng biển.

“Vẫn còn nhiều thời gian lắm!” Tôi nói với Frank.

“Tôi cũng quen với việc chờ đợi rồi!” Frank vừa sửa chiếc nơ thắt trên cổ vừa nói.

Trời bắt đầu về khuya nhưng gió thổi qua con sông vẫn yếu ớt, ấm hơn hẳn tối ngày hôm qua hay đúng một ngày qua. Frank đang nhìn chằm chằm vào mấy người đàn ông nhậu nhẹt và cử chỉ hành động của hai viên cảnh sát. Hai viên cảnh sát chặn không cho mấy người đàn ông châm lửa mà không hề mang tính cưỡng ép. Sau khi mấy người đàn ông dập lửa, hai viên cảnh sát cùng ngồi xuống bắt đầu nói chuyện. Nào là hỏi chuyện quê ở đâu hay ngày mai là năm mới rồi mà không về quê hay sao. Có vẻ như đám đàn ông trả lời là họ cùng xuất thân từ các tỉnh phía đông bắc, vì không mua được vé xe vào dịp cuối năm nên đành phải qua một đêm ở đây, ngày mai mới trở về nhà.

Người bắt đầu đông dần lên. Rất nhiều đôi trai gái và các nhóm thanh niên đi với nhau. Có cả đôi trai gái cùng nhau uống cà phê trong bình giữ nhiệt, ăn bánh sandwich. Có nhiều đôi khoác vai nhau cùng nghe nhạc bằng Walkman. Mỗi lần có con tàu nào đi qua là lại có nhóm thanh niên đồng loạt giơ tay vẫy về hướng đó. Tôi nghĩ chắc bọn họ đều đã đọc cuốn tạp chí đó. Tôi vẫn chưa thấy bóng dáng Jun đâu cả.

Hai viên cảnh sát bắt đầu bước về phía chúng tôi. Mặc dù tôi biết là thi thể các nạn nhân ở quán bar vẫn chưa phát hiện thì sẽ chẳng có lý gì tôi bị bắt nhưng cứ thấy dáng viên cảnh sát mặc đồng phục cầm gậy tiến gần là tôi đã thấy căng thẳng. Frank không hề thay đổi sắc mặt.

“Xin chào!”

Viên cảnh sát đứng tuổi chào chúng tôi. Tôi cũng đáp lại: “Chào ông!”. Frank vẫn ngồi nguyên vị trí, gập người cúi đầu chào. Đó là kiểu chào cứng nhắc mang đặc trưng văn hóa của Nhật. “Ông Tây hả? Đến để nghe chuông Giao thừa phải không?” Viên cảnh sát hỏi và tôi trả lời: “Vâng ạ!”.

“Tôi nghĩ lượng người tối nay cũng không đông lắm nhưng dẫu sao thì tôi cũng muốn nhắc nhở là các bạn nên cẩn thận, chú ý bọn kẻ cắp, móc túi, nên trông chừng đổ ở của mình nhé!”

Tôi dịch lại cho Frank. “Cám ơn!” Frank nói bằng tiếng Nhật rồi lại gập người cúi đầu. Hai viên cảnh sát cười rồi bước đi. “Thật là thân thiện!” Frank vừa nhìn theo hai viên cảnh sát vừa lẩm bẩm.

Lượng người bắt đầu tăng dần, chúng tôi bắt đầu đi lên trên cầu. Có một người vô gia cư ở ngay phía chân cầu. Ông ta chất đồ lên xe nổi, ngồi trên tấm bìa các tông, xung quanh ông ta bốc mùi rất khó chịu. Chúng tôi tránh xa khỏi người vô gia cư, vịn vào thành cầu đứng đợi tiếng chuông. Frank hỏi:

“Người vô gia cư kia và tôi, thì theo xã hội, đâu là đối tượng có hại hơn?”

“Có cả kiểu người có hại đối với xã hội ư?” Tôi hỏi Frank.

“Có đấy!” Frank vừa nhìn người vô gia cư vừa nói. “Loại người như tôi rõ ràng là có hại, tôi rất giống một con virus. Virus gây bệnh cho con người thực ra là thuộc về thiểu số, ngoài ra còn tồn tại vô số, không thể đếm được các loại virus khác. Vai trò của nó, nói một cách ngắn gọn là giúp quá trình đột biến gen, tạo ra tính đa dạng của sinh mệnh. Tôi đã đọc rất nhiều sách về virus. Tôi ngủ ít cũng là vì tôi dành nhiều thời gian cho việc đọc sách. Tôi nghĩ nếu virus không tồn tại trên Trái Đất này thì loài người cũng sẽ không được sinh ra. Trong thế giới virus, cũng có loại chui vào trong gen của chúng ta rồi trực tiếp thay đổi thông tin di truyền. Không ai có thể quả quyết rằng việc virus HIV gây nên bệnh AIDS trong tương lai sẽ không phá hỏng các thông tin di truyền, thứ mà không thể thiếu được đối với sự tồn tại của loài người. Tôi giết người một cách tự giác để gây sốc cho những người khác, bắt họ phải ủ rũ suy nghĩ. Thế nhưng, tôi nghĩ rằng tôi là người thiết yếu trên thế giới này… thế nhưng… loại kia thì… hơi khác…”

Vừa nói Frank vừa nhìn người vô gia cư. Người vô gia cư ngồi bất động trên tấm bìa các tông. Phía trên cầu đã có khá nhiều người nhưng chẳng có ai tiên gần tới chỗ người vô gia cư.

“Bọn họ không hẳn là từ bỏ mong muốn, ý chí được sống. Họ lại đang từ bỏ việc giao tiếp với những người khác. Ở các nước nghèo đều có dân tị nạn nhưng lại không hề có người vô gia cư. Thực tế là người vô gia cư vẫn đang sống cực kỳ vui vẻ. Nếu họ khước từ cuộc sống xã hội thì họ nên tới một nơi nào khác, gánh một mạo hiểm nào đó mới phải. Chí ít thì tôi cũng đã làm thế khi tới đây. Bọn họ thậm chí cũng không thể phạm tội, nhưng họ đang thoái hóa. Và tôi đã giết những kiểu người đang thoái hóa ấy.”

Frank chậm rãi nói những lời đó với những từ ngữ tiếng Anh phù hợp với khả năng của tôi. Câu chuyện của Frank nghe có tính thuyết phục nhưng tôi vẫn không đồng ý ở một vài điểm. Tôi đã không thử hỏi rằng cô nữ sinh bị giết rồi bị cắt rời các bộ phận cũng là đối tượng đang thoái hóa hay sao? Tôi không đủ dũng cảm.

Tôi chuyển hướng nhìn từ người vô gia cư sang phía gò Sumidagawa và tôi giật thột mình khi Frank nói: “Tới rồi kìa!”. Tôi nhìn thấy Jun đã có mặt ở công viên và đang ngồi trên ghế đá. Jun có quay sang nhìn về phía tôi rồi lại ngay lập tức ngoảnh mặt đi. Cô ấy đã để ý thấy Frank và tôi đang nhìn về phía mình. Jun ngồi im trên ghế, mặt cúi gằm. Có lẽ cô ấy đang không biết mình phải làm gì cho đúng. Tôi bắt đầu hối hận khi gọi Jun tới để quan sát. Không phải vì Frank đã biết Jun. Đáng lẽ ra tôi nên mường tượng ra trước mọi việc. Frank đã tới tận cửa căn hộ của tôi để dán mảnh da đã bị cháy xém đen. Đương nhiên không phải là xác nhận khuôn mặt của Jun. Nhìn thấy Jun, điều mà tôi hối hận chính là vì cô ấy tượng trưng cho tôi lúc trước khi gặp Frank. Tôi đã vô tình gọi một kẻ ngây thơ, trong trắng tới trước mặt một con quái vật. Ở Jun và tôi hiện tại đang có một khoảng cách. Gì thì gì đến cuối cùng nên chỉ mình tôi giải quyết mọi việc. Không nên đưa Jun vào mấy chuyện này. Tôi phải đi tìm mấy viên cảnh sát, chắc chắn họ đang đi tuần quanh khu vực này. Tôi đã nghĩ mình phải bảo vệ bằng được Jun. Khi nghĩ vậy, tâm trạng của tôi không bị Frank ám ảnh nữa. Tôi có cảm giác như mình đã thoát khỏi sự thôi miên. Tôi cũng đã hiểu tại sao tôi không thể chấp nhận những điều hay những câu chuyện mà Frank nói suốt từ nãy. Dĩ nhiên là chẳng ai có thể hiểu loại người nào đang thoái hóa mà việc tự ý quyết định giết họ lại càng không tốt chút nào. Tôi đã nghĩ như vậy.

“Kenji! Tôi lại hiểu đấy!”

Frank nói vậy làm tôi đứng tim. “Thỉnh thoảng tôi hiểu được suy nghĩ của người khác đây!” Frank nói tiếp.

“Nhưng không hẳn là lúc nào tôi cũng hiểu được. Nếu lúc nào cũng hiểu thì thoắt một cái đầu óc tôi sẽ bị điên lên mất. Kenji! Cậu không biết được lúc giết người thì căng thẳng và cần phải tập trung đến mức nào. Tôi hiểu rõ tín hiệu của những kẻ khi bị đâm một nhát cực mạnh. Tín hiệu đó tới từ đường máu đi lên vòng quanh não, với những kẻ đang thoái hóa, lượng máu đi lên não rất yếu, tín hiệu “Hãy giết đi” được phát ra một cách vô thức. Chính vì thế tôi mới giết. Kenji! Tôi sẽ không giết cậu đâu, và cả cô bạn gái kia của cậu nữa tôi cũng không giết. Cậu là người bạn duy nhất tôi có thể chơi ở nước Nhật hay nói đúng hơn là ở trong kiếp người của tôi. Nào, được rồi! Cậu hãy tới chỗ cô bạn gái của cậu đi! Tôi cám ơn cậu đã dẫn tôi đến tận đây! Thế cũng là đủ lắm rồi! Tôi sẽ tới một nơi khác để nghe tiếng chuông một mình!”

Nói xong, Frank hất cằm chỉ về phía Jun. Tôi như người mộng du đang định bước đi thì đột nhiên bị Frank tóm vai giữ lại. “Tôi quên mất không gửi cậu món quà!” Frank nói rồi gí vào tay tôi một chiếc phong bì.

“Đối với tôi, đây là vật vô cùng quý giá, quan trọng hơn hết thảy thứ gì, kể cả tiền, cậu vui lòng nhận cho tôi được chứ?”

Vừa đưa chiếc phong bì, Frank vừa nói là vẫn còn một việc muốn làm nữa.

“Tôi đã rất muốn cùng cậu đi uống xúp Miso, nhưng từ bây giờ không thể gặp được cậu nữa rồi nên thôi vậy!” (Xúp Miso: Một loại xúp của Nhật, có hai nguyên liệu chính là đậu phụ và tảo biển khô. Sau đó có thể chế thêm bất cứ thứ gì vào ăn kèm).

Xúp Miso ư?

“Ừm! Tôi hứng thú với món đó lắm! Ngày trước, có một lần tôi đã từng gọi món đó trong quán bar Sushi ở bang Colorado. Đó là loại nước rất kỳ lạ, kỳ lạ ở cái mùi nên tôi đã không uống, thế nhưng tôi đã nghĩ đó là loại nước uống tạo hiếu kỳ cao. Trước tiên là màu của nó, một màu nâu rất kỳ lạ, còn mùi thì cứ như là mùi mồ hôi của người vậy. Khi nhìn thì tôi cảm nhận được rằng món đó rất tao nhã, tinh tế. Và với thắc mắc không biết kiểu người như thế nào sẽ uống loại nước đó như một món ăn hằng ngày, tôi đã tới đất nước này. Thật là tiếc, tôi đã rất muốn đi cùng cậu.

Uống nó…

“Ông sẽ trở về Mỹ ngay chứ?” Tôi hỏi.

“Không! Tôi không thể trở về Mỹ ngay được!” Frank đáp.

“Nếu vậy thì ông có thể uống nó ở bất kỳ đâu mà!” Tôi nói. “Vì xúp Miso có ở bất kỳ nhà hàng kiểu Nhật nhỏ nhỏ nào, ngay cả ở cửa hàng tiện ích.”

“Thôi! Không sao!” Frank nói rồi mỉm cười. Không phải là kiểu cười khi các cơ trên khuôn mặt được thư giãn mà kiểu cười rất đặc biệt được tạo ra như khi ở đâu đó trên khuôn mặt bị phá hủy.

“Tôi không cần phải uống nó nữa, giờ tôi đã ở ngay chính giữa bát xúp Miso rồi! Ở trong bát xúp Miso mà tôi đã nhìn thấy trong quán bar Sushi ở bang Colorado có hỗn độn những thứ mà tôi chẳng rõ đó là gì. Những cọng rau được thái nhỏ hay là gì đó nhìn chỉ thấy như là đống rác nhỏ. Tôi hiện tại đây cũng giống như mấy cọng rau thái nhỏ ấy, đang được trộn lẫn trong bát xúp Miso khổng lồ. Thế là tôi mãn nguyện lắm rồi!”

Sau khi bắt tay chia tay, tôi trở nên căng thẳng. Tôi bước về phía công viên dưới cây cầu nơi có Jun đang ngồi. Jun vẫn cứ ngồi im, với vẻ mặt hoang mang nhìn tôi và Frank. Tiếng chuông Giao thừa vẫn chưa cất lên. Vì mọi việc diễn ra khác so với dự đoán của tôi nên tôi không biết phải làm gì cho đúng nhất bây giờ. Jun chỉ về phía cây cầu. Khi tôi nhìn sang thì không thấy bóng dáng của Frank đâu nữa. Jun lắc đầu như kiểu không biết ông ra đã đi đâu mất rồi.

Dưới ánh đèn đường, tôi mở phong bì ra. Mặt ngoài phong bì có dán bảy tấm ảnh lúc tôi và Frank chụp ở máy chụp ảnh tự động hôm đầu tiên gặp Frank. Mặt tôi thì không được thoải mái cho lắm vì vẫn chưa hiểu gì, còn mặt Frank thì vô cảm. Bên trong phong bì có để một chiếc lông chim đã nhuốm bẩn chuyển sang màu xám. “Cái gì vậy anh?” Jun tiến sát hỏi tôi.

“Là cánh của con thiên nga!” Tôi trả lời.

3 Đêm Trước Giao Thừa

3 Đêm Trước Giao Thừa

Status: Completed Author:

Nội dung

Cuốn tiểu thuyết này kể lại những gì đã xảy ra xung quanh hai nhân vật: một thanh niên người Nhật vừa mới bước sang tuổi 20 và một người đàn ông trung niên không rõ danh tính thật được gọi là Frank trong ba ngày từ ngày 29 tháng 12 đến đêm Giao thừa. Hai con người, trong một khoảng thời gian rất ngắn thôi mà đã có được trải nghiệm mang màu sắc văn hóa và đặc trưng xã hội của bản thân.

Xuất bản năm 1997 – đúng vào thời kỳ tệ nạn nữ sinh mại dâm dưới danh nghĩa “giao tế có viện trợ” lên đến mức khủng hoảng ở Nhật – cuốn sách kể chuyện một thanh niên Nhật được một du khách Mỹ thuê hướng dẫn đi xem những chốn ăn chơi đồi trụy ở Tokyo, rồi xảy ra vụ một nữ sinh mại dâm bị thảm sát, xác cắt rời vất bỏ trong túi đựng rác ngay khu vực “đèn đỏ” Kabukicho ở Shinjuku, khiến anh ta nghi ngờ người Mỹ này là thủ phạm, từ hình dạng và hành trạng kỳ dị của ông ta. Người thanh niên đó chính là Kenji, và người khách Mỹ kia là Frank.

Sau cuộc “thương lượng”, Kenji nhận lời hướng dẫn cho Frank trong ba ngày vòng quanh Kabukicho. Nhưng sau đó Kenji bắt đầu thấy lo lắng. Không phải là do sự bất đồng về văn hóa mà vì những cử chỉ, hành động khó hiểu của con người có cái tên là Frank đó. Vào đúng ngày hôm đó, Kenji đọc một tờ báo nói về “một nữ sinh cấp ba bị giết, bị cắt rời tay, chân và cổ rồi bị vứt ở bãi rác của Kabukicho.” Khi đó cậu đã nghi ngờ thủ phạm chính là Frank.

Không hề có một chứng cứ nào vậy mà càng ngày Kenji càng khẳng định chắc chắn hơn rằng Frank đúng là thủ phạm, nhưng cậu không thể hủy giao ước được nữa. Cuối cùng, cậu đã quyết định vẫn đi cùng Frank trong buổi tối thứ hai và cố gắng giữ liên lạc qua điện thoại với cô bạn gái tên Jun.

Những linh cảm của Kenji là đúng. Sang ngày thứ hai, Frank mới bắt đầu bộc lộ những sự bất thường. Thế nhưng, điều cuối cùng lại là sự sợ hãi vượt qua cả sự linh cảm. Frank lần lượt lần lượt giết hết người này đến người khác. Dù vậy, giữa chừng, ông ta mấy lần vừa ngáp vừa giết. Ngay cả Kenji khi nhìn thấy cảnh đó cũng tự ngộ nhận rằng mình sẽ bị giết. Thế nhưng Frank đã không những không giết mà còn cùng cậu rời khỏi hiện trường. Frank, người mà từ đầu tới giờ chỉ toàn nói dối đã bắt đầu nói ra sự thực với Kenji. Ông ta nói bản thân mình chính là một kẻ sát nhân: “…con người tồn tại trong cơ thể tôi không phải là một mà là nhiều người, nó hoàn toàn không gắn kết lại thành một, tôi nghĩ con người mà đang nói với cậu đây mới là con người thật của tôi… những gì mà tôi đã làm ban nãy ở trong quán ấy đến bản thân tôi, tức là tôi, người đang nói với cậu đây cũng không thể lý giải được…”

Frank hy vọng rằng nhờ tiếng chuông Giao thừa thánh thiện, mọi thứ đáng ghét trong người của ông ta sẽ được hủy diệt bằng sạch. Ông ta – người đã tiêu diệt những thứ mang “tính Nhật Bản” một cách dã man ấy – lại đang ở chính giữa bát xúp miso, đang hy vọng rằng sẽ được thanh thản nhờ tiếng chuông Giao thừa mang bản sắc văn hóa của đất nước Nhật Bản.

Chính vì thế, tác giả rõ ràng muốn tuyên bố rằng văn hóa của Nhật Bản không hẳn là tuyệt vời. Người Nhật mà không kết nối, cứ mỗi người một hướng, ngâm mình trong nước ấm, không có khả năng truyền đạt ý chí của mình thì nếu lực lượng mạnh mẽ – như Frank – xâm nhập vào sẽ bị triệt hạ dễ như không. Xúp miso được cho thêm rất nhiều rau và nhiều thứ khác nữa nhưng quả thực đó là một món rất ngon. Cuối cùng Frank đã đưa cho Kenji cả “cánh của con chim thiên nga”. Có vẻ như cái mà Frank nhận được không đơn giản là hòa tan vào văn hóa của Nhật Bản một cách dễ dàng. Vẫn còn nhiều điều đang bỏ ngỏ.

Vài nét về tác giả:

Ryu Murakami, sinh năm 1952 tại Sasebo, một thành phố ở Tây nam Nhật Bản, nơi có căn cứ quân sự của Mỹ đóng, do vậy ông đã lớn lên trong bầu không khí văn hóa Mỹ trên quê hương mình.

Tiểu thuyết đầu tay Màu xanh trong suốt được tặng giải Akutagawa, một giải thưởng văn học uy tín nhất ở Nhật Bản dành cho các tài năng trẻ đã gây tranh luận trong giới văn học và công chúng. Những người phản đối thì cho rằng tác phẩm đó chỉ mô tả lối sống và thói quen của lớp thanh niên phóng đãng. Họ coi nó không đáng gọi là văn học. Những người ủng hộ thì cho rằng tác phẩm của Ryu Murakami là một thể loại văn học mới. Sự đụng độ các ý kiến như vậy cứ diễn ra suốt một phần tư thế kỷ qua mỗi khi một cuốn tiểu thuyết mới của tác giả này xuất hiện.

Nhân vật của ông là giới trẻ hiện đại, không tin tưởng vào sự đồng thuận với tập thể để đổi lấy sự an toàn và thăng tiến theo thứ tự, như xã hội truyền thống Nhật Bản hứa hẹn và đòi hỏi. Ông cho rằng sự gia tăng số lượng thanh thiếu niên phạm pháp là hiện tượng chung của các nước tiên tiến, không riêng gì Nhật. Quả thật, hiện tượng “văn hóa trẻ” Nhật Bản, nhất là truyện tranh “manga”, phim ảnh hoạt họa Nhật: Astro Boy; Pokemon; Yu-Gi-Oh.v.v… phổ biến và được yêu chuộng nồng nhiệt ở cả phương Tây lẫn phương Đông, cho thấy rằng những vấn đề của giới trẻ Nhật Bản hiện nay có thể cũng sẽ phát hiện ở các nước khác, nhất là những nước đồng văn ở Đông Á.

Ngoài “In the Miso soup – 3 đêm trước giao thừa”, tác phẩm của Ryu Murakami đã được dịch ở Việt Nam còn có “Xuyên thấu”; “Màu xanh trong suốt”; “69”… đều do Bách Việt mua bản quyền và xuất bản.

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset