Hôm nay, cũng như mọi ngày, trời vừa mới hửng sáng Giang Nam đã phóng ngựa lên đường, chạy không dừng vó cho nên đến trưa thớt ngựa của chàng tuy là ngựa tốt giống Đại Uyển cũng đã sùi bọt mép, còn Giang Nam thì thấy khát khô cổ họng, đang định tìm bóng mát nghỉ chân. Trên đường bỗng thấy một tòa lương đình, bên trong còn có người bán trà, Giang Nam buộc chặt ngựa rồi vào đình gọi trà uống.
Nhìn tòa lương đình rất rộng rãi, được xây bằng đá với hai bên là hai cây trụ lớn, lan can làm bằng gỗ đỏ, chàng thầm nhủ: “Trung Nguyên quả thực khác hẳn, tòa lương đình này còn tốt hơn cả nhà của người giàu sang bên Tây Tạng.” Ông lão bán trà pha cho chàng một bình trà thơm, Giang Nam uống rồi khen ngon, và hỏi: “Đây là nơi nào?” ông lão đáp: “Đây là làng Bình Hồ huyện Đông Bình.” Giang Nam nói: “Ồ, té ra đã đến Sơn Đông, gần đây có một hồ nước rộng đúng không?” ông lão nói: “Chắc là tiểu ca từ nơi khác đến?” Giang Nam giật mình thầm nhủ: “Té ra mình đã đến quê hương của nàng.” Trong lòng chàng hiện ra hình bóng của một thiếu nữ, đó chính là Trâu Giáng Hà, con gái của Dương Liễu Thanh.
Năm ấy Dương Liễu Thanh dắt con gái đến Hồi Cương và Tây Tạng tìm Đường Hiểu Lan, Giang Nam đã quen biết với nàng, tính lại thì cũng đã được năm năm. Giang Nam nghĩ bụng: “Mấy năm không gặp chắc là tiểu a đầu đã trở thành một cô nương xinh xắn.” Trâu Giáng Hà nhỏ hơn Giang Nam hai tuổi, lúc hai người quen biết nhau nàng chỉ là một cô bé nghịch ngợm, nhưng khi chia tay nhau nàng cũng đã cho chàng biết chỗ ở của mình.
Giang Nam nghĩ: “Giá mình không có việc thì đã đến thăm nàng.” Chàng định hỏi thăm nhưng lại nhớ lời dặn của Trần Thiên Vũ nên không dám hỏi nhiều. Bèn chỉ im lặng ngồi uống trà.
Giang Nam đã quen thói nói chuyện cho nên tuy im lặng mà trong lòng vẫn bồn chồn. Chàng nhắp một ngụm trà rồi ngẩng đầu lên thấy thớt ngựa vẫn đang thở phì phò, đành đưa mắt nhìn xa xăm. Khi chàng liếc mắt qua cây cột đá ở phía đông thì thấy có dấu một vết đao chém, nhìn sang cây cột phía tây thì thấy trên cột có một dấu chưởng, Giang Nam ngạc nhiên định hỏi nhưng mà cố nén lại, tuy vậy môi chàng vẫn mấp máy.
Ông lão thấy thế cười hì hì bước tới: “Khách quan, chắc là ngài ngạc nhiên khi nhìn thấy vết đao và dấu chưởng kia. Hôm ấy tôi suýt chết khiếp!” Giang Nam thầm nhủ: “Đấy là ông ta tự nói với mình, coi như mình không phải lắm lời.” Vì thế chàng mở to mắt nhìn ông ta, đợi ông ta nói tiếp nhưng không ngờ ông lão lại chẳng nhắc đến chuyện ấy nữa mà bảo: “Trà của khách quan đã nguội, có cần tôi châm thêm một bình không?” Giang Nam nói: “Cũng được.” ông lão lại bảo: “Tôi là một người thích nói chuyện, dù khách quan thích nghe hay không, tôi cũng phải nói. Nhưng hai ngày nay có nhiều người hỏi tôi chuyện này.” Giang Nam không nén được nữa: “Rốt cuộc là chuyện gì? Ông nói mau lên!” ông lão cười hì hì rồi nói: “Khách quan, trà của khách quan đã nguội” Giang Nam sực nhớ, lấy ra một đồng tiền rồi nói: “Tôi trả trước tiền trà, lát nữa pha cũng được.” ông lão bán trà nói: “Đa tạ.” Rồi mời từ tốn nói: “Khách quan, hình như ngài là người đi lại trên giang hồ.” Giang Nam nhớ lại lời Trần Thiên Vũ dặn dò, vội vàng nói: “Ông lầm rồi, tôi chỉ là người buôn bán nhỏ.” ông lão hờ hững liếc Giang Nam rồi cười: “Coi như là tôi đã nhìn nhầm, thôi được, người đi qua con đường này, dù là kẻ hành tẩu giang hồ hay người buôn bán thì chắc chắn cũng đều nghe qua một cái tên, đó là một nhân vật lẫy lừng ở huyện Đông Bình chúng tôi vào ba mươi năm trước.” Giang Nam bật cười nói: “Ba mươi năm trước tôi vẫn còn chưa ra đời!” chàng chợt nhớ không nên nói nhiều, thế rồi suỵt một tiếng bảo: “Này, đừng nói vòng vo nữa, kể mau lên.” ông lão cười: “Đó không phải là chuyện vớ vẩn đâu, ba mươi năm trước ở huyện Đông Bình có một nhân vật tên tuổi lẫy lừng, người ấy là minh chủ võ lâm năm tỉnh phía bắc, tên là, tên là…” Giang Nam không nén được: “Thiết chưởng thần đạn Dương Trọng Anh.” ông lão cười: “Đúng thế! Cho nên tôi mới bảo ngài chắc hẳn đã nghe cái tên này, quả nhiên không sai!” rồi ông ta phe phẩy cái quạt nan trong tay, tỏ vẻ rất đắc ý.
Giang Nam lại hỏi: “Dương Trọng Anh đã chết nhiều năm, chuyện này có liên quan gì đến ông ta?” chàng vừa nói ra thì mới biết không ổn, bởi vì lúc nãy chàng vừa mới bảo không phải là người đi lại trên giang hồ nhưng sao lại biết chuyện trên giang hồ? Ông lão vẫn mặc kệ, tiếp tục nói: “Chuyện này có liên quan đến Thiết chưởng thần đạn, Thiết chướng thần đạn tuy dã chết nhưng con gái của ông ta tên là tên là…” lần này thì Giang Nam cố nhịn không cướp lời nữa, ông lão nghĩ một hồi rồi nói: “Tên là Dương Liễu Thanh, nhưng chúng tôi không dám gọi thẳng tên của bà ta, bà ta thích người nhà gọi là đại tiểu thư, tuy đã là một người mẹ, nhưng người trong huyện đều gọi bà là Dương đại tiểu thư.”
Giang Nam thầm nhủ: “Ông lão này thật nhiều lời, nói cả buổi vẫn chưa nhập đề.” Chàng cứ trách người nhưng không nhớ mình cũng có lỗi ấy. ông lão ngập ngừng rồi lại nói tiếp: “Hôm ấy Dương đại tiếu thư và con gái của bà ta ra ngoài trở về, đã dừng lại ở đây uống trà, tôi quên cho ngài biết, tòa lương đình này là do Dương Trọng Anh đã góp tiền xây dựng nên. Tất cả gạch ngói đều là loại thượng đẳng. Nay tôi có thể kiếm sống ở đây, quả thực rất biết ơn ông ta.”
Giang Nam nghe mấy ngày trước Dương Liễu Thanh và con gái của bà ta đã đi ngang qua đây, tim đập mạnh, rồi chàng mới thúc ông lão: “Sau đó thì thế nào?” ông lão nói: “Hai mẹ con bà ta ngồi nói chuyện với tôi ở đây, nhắc đến chuyện Dương Trọng Anh khi còn sống, Dương đại tiểu thư còn hứa giúp cho tôi một số tiền để tu sửa đình này.” Giang Nam nhíu mày bảo: “Thế à?” ông lão nói tiếp: “Chúng tôi đang nói thì có một hòa thượng xuất hiện, đang lúc tôi cao hứng không biết ông ta bước vào từ lúc nào. Sau đó thấy vẻ mặt của Dương đại tiểu thư không ổn thì tôi mới phát hiện ra. Té ra hòa thượng ngồi trước mặt bà ta, nhìn bà ta với đôi mắt rất gian xảo. Con gái bà ta nói: “Mẹ, lão hòa thượng trông rất quái dị, mẹ nhìn đôi mắt của lão kìa.” Dương đại tiểu thư đột nhiên đứng dậy nói: “Lão Vương, tôi sẽ để lại một ký hiệu ở tòa lương đình này của ông!” rồi phóng vù ra một mũi phi đao. Ông lão kể rất hấp dẫn, Giang Nam giật mình, vội vàng hỏi: “Có phải mũi phi đao của Dương Liễu Thanh đã giết hòa thượng ấy không?” ông lão ấy nói: “Không, mũi phi đao của bà ta đã để lại dấu trên cây cột kia.” Giang Nam thở phào, thầm nhủ: “Bà ta phóng phi đao ra oai, chắc là muốn cho hòa thượng biết lợi hại.” Vì thế hỏi ông lão: “Hòa thượng ấy thế nào?”. Ông lão trả lời: “Hòa thượng ấy chẳng nói lời nào, cũng đứng dậy rồi đột nhiên vỗ một chưởng vào cây trụ kia…” Giang Nam kêu lên: “Ồ, té ra dấu chưởng kia là của lão hòa thượng!” ông lão nói: “Hòa thượng đánh xong một chưởng thì mới lạnh lùng nói với tôi: “Ta cũng để lại một dấu hiệu” rồi bỏ đi. Dương đại tiểu thư quát gọi lão ngừng lại…Giang Nam hỏi: “Thế là đánh nhau?” ông lão đáp: “Chỉ cãi nhau.” Giang Nam hỏi tiếp: “Cãi cái gì?” ông già nói: “Họ cứ nói như pháo liên châu, những chữ nghe được thì tôi chẳng hiểu, nào là cái gì lương tử, phiêu nhi, thanh tử… hình như hai người vốn có thù với nhau. Sau đó Dương đại tiểu thư mới nói một câu: “Ta sẽ đợi ngươi ở nhà!” chỉ có câu này là tôi nghe rõ ràng.” Giang Nam vội hỏi: “Ông có nghe bà ta nói khi nào không?” ông lão trả lời: “Tôi không nghe rõ.”
Giang Nam giật mình, thầm nhủ: “Như thế có nghĩa hòa thượng chắc chắn hẹn ngày với bà ta. Hỏng bét, dấu chưởng này lún sâu vào đá đến ba phân, xem ra công lực của lão hòa thượng hơn Dương Liễu Thanh rất nhiều. Mình có nên đi giúp mẹ con bà ta một tay không?” trong lòng thì cứ thấp thỏm, lúc thì nhớ đến lời dặn của Trần Thiên Vũ, lúc thì lại nghĩ đến mối giao tình giữa mình với Trâu Giáng Hà, chàng vẫn chưa quyết định thì chợt nghe tiếng bước chân, lại có hai người khách qua đường, ông lão ấy tuy đang cao hứng nói nhưng cũng bỏ đi tiếp khách.
Hai người này giắt đao ở hông, vừa vào thì đã lấy ra hai xâu tiền: “Ông già, đây là tiền trà ta thưởng cho ông.” Hai kẻ ấy ra tay rộng rãi hơn Giang Nam, ông lão cười toe toét, nói: “Đa tạ đại gia thưởng hậu, tôi không đám nhận!” người khách ấy nói: “Đừng nhiều lời, hãy nhận lấy. Ta hỏi ngươi, hai ngày trước có ai lạ mặt đi ngang qua đây không?” ông già ấy trả lời: “Có một hòa thượng.” ông ta đang định kể lại chuyện lúc nãy, người khách lại hỏi: “Ngoài ra còn có ai?” ông già nói: “Không có ai khác.” Người khách trả lời: “Có ai hỏi đường đến nhà họ Dương không?” ông lão nói: “Người trong huyện chúng tôi ai mà không biết nhà họ Dương, cần gì phải hỏi đường?” người khách ấy ừ một tiếng rồi nói: “Pha cho ta một bình trà.”
Hai người ấy ngồi đối diện với Giang Nam, một người nói: “Ta thật không hiểu, đà chủ chúng ta cần gì phải chuyện bé xé ra to như thế.” Giang Nam giật mình, chỉ thấy ánh mắt của hai người ấy hình như nhìn về phía mình, chàng vội vàng bưng chén trà lên, hai người thấy Giang Nam chỉ là một gã tiểu tử ngờ nghệch, mới yên lòng trò chuyện bằng tiếng lóng trên giang hồ. Giang Nam cũng hiểu một chút tiếng lóng, chỉ nghe người to béo nói: “Người đàn bà ấy chỉ nhờ có uy danh của cha mình để lại, dâu có gì khó đối phó? Đà chủ của chúng ta đã quá cẩn thận.” Tên ốm nói: “Đó là bởi vì trước đây cha của bà ta là minh chủ võ lâm năm tỉnh phía bắc, quen biết nhiều người, mấy ngày nay lẽ nào mụ ta không nhờ người giúp đỡ? Thực ra ta cũng lo cho đà chủ, cần gì phải dính vào chuyện này? Nếu bị lão hòa thượng ấy liên lụy, trái lại trộm gà không xong lại mất nắm thóc!”
Tên béo nói: “Huynh có điều không biết, nếu hạ được nhà họ Dương, đà chủ của chúng ta sẽ độc bá miền Sơn Đông. Huynh có biết lão hòa thượng ấy là ai không?”
Tên gầy nói: “Không biết, đang định hỏi huynh.” Tên béo nói: “Tôi cũng không biết pháp hiệu của lão. Nhưng nghe đà chủ nói, cả Đường Hiểu Lan cũng phải e dè lão ta mấy phần, chắc là một nhân vật lẫy lừng. Huynh hãy xem dấu chưởng lão để lại, quả thực công lực rất thâm hậu!” Tên gầy nói: “Tuy là vậy, nhưng hậu nhân của Thiết chưởng thần đạn cũng chẳng dễ đối phó, chúng ta phải chia nhau đi mời người giúp đỡ!”
Hai hán tử ấy vội vàng uống trà rồi lên ngựa, một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây. Lúc này Giang Nam đã quyết ý, thầm nhủ: “Công tử thường nói chúng ta là người học võ công, phải nên hành hiệp trượng nghĩa, huống chi bằng hữu của mình đã gặp nạn, Giang Nam này tuy chưa chắc đối phó nổi lão hòa thượng kia, nhưng ít nhất cũng có thề giúp cho họ.” Rồi chàng cũng vội vàng uống chén trà, lại hỏi ông lão bán trà đường đến nhà họ Dương.
Ông già cười nói: “Tôi đã đoán ngài quả nhiên đến nhà họ Dương giúp đỡ.” Giang Nam nói: “Sao ông biết?” Ông già nói: “Tôi đã từng gặp nhiều người, vừa nhìn đã biết ngài không phải là kẻ xấu, nếu không phải kẻ xấu thì lẽ nào không giúp hậu nhân của Thiết chưởng thần đạn? Thực ra mấy ngày nay đã có rất nhiều người hỏi đường tôi để đến nhà họ Dương giúp đỡ. Tôi thấy hai gã lúc nãy chẳng phải hạng tốt lành gì, cho nên tôi mới không nói thực.” Giang Nam nghe ông ta khen vì thế trả một nắm tiền rồi phóng ngựa lên đường.
Đường đi bằng phẳng, Giang Nam nhìn ra phía xa, chàng thấy hai hán tử ấy đang thấp thoáng phía trước. Giang Nam phóng lên lưng ngựa thầm nhủ: “Tên gầy hình như rất lanh lẹ, mình cứ đuổi theo tên béo.” Rồi chàng vung roi, thớt ngựa Đại Uyển tung vó lướt nhanh, chỉ trong một tuần trà thì đã đuổi theo phía sau tên béo, Giang Nam gọi lớn: “Này, lúc nãy người đã đánh rơi đồ trong trà đình!” Hán tử ấy kìm ngựa, hỏi đầy vẻ hoài nghi: “Đồ gì?” Giang Nam nói: “Người nhìn xem, đây chẳng phải là bọc tiền của người sao.” Hai thớt ngựa lướt tới gần nhau, Giang Nam bất thình lình mở bàn tay chụp vào bên sườn của y, đó là một chiêu đại cầm nã thủ rất lợi hại mà Đường Kinh Thiên đã dạy cho chàng trong một buổi cao hứng, Giang Nam thấy hán tử ấy chẳng hề để ý thì trong bụng mừng thầm, chỉ nghe soạt một tiếng, chàng đã xé được tà áo của hán tử ấy nhưng không kéo được y xuống ngựa, nói thì chậm, sự việc diễn ra rất nhanh, hán tử ấy lật tay điểm lại Giang Nam đổ sầm xuống đất. Hán tử ấy cười ha hả: “Tên tiểu quỷ nhà ngươi dám giở trò trước mặt ta, đúng là múa rìu trước cửa Lỗ Ban, đọc sách trước mặt Khổng Tử.” Giang Nam nằm ngửa dưới đất, hai mắt trợn ngược, miệng thì kêu hừ hừ, hán tử ấy cười lạnh nói: “Kém cỏi như thế mà cũng dám ám toán đại gia, hừ, thực là mất mặt. Mau nói thực, ai sai ngươi đến thăm dò tin tức?” Giang Nam nói rất khẽ, hán tử ấy bảo: “Chẳng qua ngươi chỉ bị ta điểm huyệt đạo, lẽ nào đau đến nỗi nói không ra lời? Nếu ngươi cứ vờ vịt nữa, ta sẽ làm cho ngươi câm luôn! Nói lớn lên!” Giang Nam vẫn cứ rên lên hừ hừ, lời nói chẳng rõ ràng tí nào. Hán tử ấy cả giận nhảy xuống lưng ngựa, bước tới gần Giang Nam rồi vung tay tóm lấy chàng. Trong khoảnh khắc điện chớp lửa xẹt ấy, Giang Nam đột nhiên vọt người dậy, hai tay búng ra, hán tử ấy nằm mơ cũng không ngờ rằng Giang Nam đã trúng thủ pháp điểm huyệt nặng tay mà vẫn có thể phản công, y chưa kịp kêu lên thì đã ngã xuống đất. Giang Nam cả cười nói: “Thủ pháp điểm huyệt của ngươi còn kém ta xa lắm!” Té ra trước đây Giang Nam đã từng bị dị sĩ của phái Không Động là Hoàng Thạch đạo nhân ép làm học trò, đã từng đi theo ông ta bảy ngày, chỉ học được một loại công phu làm thay đổi vị trí của huyệt đạo, võ công của hán tử ấy vốn hơi nhỉnh hơn Giang Nam, thế nhưng y lại dùng công phu điểm huyệt cho nên mới tạo cơ hội cho Giang Nam.
Giang Nam nheo mắt nhìn y cười: “Ai đã sai ngươi đi mời trợ thủ? Mau nói thực, nếu nửa câu giả dối ta sẽ bẻ xương lột da ngươi!” khi nói đến câu cuối cùng thì chàng gằn giọng.
Hán tử ấy tức tối, im lặng chẳng thèm trả lời. Giang Nam nói: “Được, trước tiên ngươi sẽ nếm mùi vị bị ta điểm huyệt đạo. Khi ngươi đã nếm đủ thì ta sẽ lại bẻ xương lột da ngươi!” Hán tử đột nhiên cảm thấy trong người có vô số con rắn đang cắn xé, đau đến nỗi chết đi sống lại. Số là Kim Thế Di dạy chàng thủ pháp điểm huyệt này. Kim Thế Di học thủ pháp điểm huyệt từ Độc Long tôn giả, đây là loại thủ pháp kỳ quái nhất, lợi hại nhất, tổng cộng có bảy cách điểm huyệt khác nhau, công hiệu khác nhau, Giang Nam vừa mới sử dụng thủ pháp dễ học nhất, người học không cần có công lực thâm hậu nhưng cũng đủ khiến cho đối phương không thể chịu đựng nổi. Giang Nam thấy y lăn lộn ở dưới đất, trong lòng cũng cảm thấy bất nhẫn, nhủ thầm: “Y quả là một trang hán tử cứng cỏi, nếu y không nói mình chỉ đành thả y.
Không biết mình có nên bẻ xương lột da y hay không?” chàng vừa nghĩ thì chợt nghe hán tử ấy kêu lên: “Tôi nói”. Giang Nam cả mừng, buột miệng bảo: “Đúng là đồ vô dụng!” nhưng sau khi nói ra thì sợ y tiếp tục chịu đựng cho nên vội vàng nói: “Tuy là vô đụng, nhưng có thể ứng biến linh hoạt mới coi như là đại trượng phu!” rõ ràng câu trước với câu sau rất chỏi nhau, ai mà nghe được chắc chắn sẽ cười đến rụng răng, nhưng hán tử ấy quá đau đớn, nào có thể cười y được, vội vàng nói: “Tiểu gia, ngài mau hỏi đi, ngài hỏi một câu tôi sẽ trả lời một câu.” Giang Nam nói: “Ai sai ngươi đi mời trợ thủ?” hán tử ấy bảo: “Là đà chủ của chúng tôi.” Giang Nam hỏi: “Hừ, ta đâu có biết đà chủ của các người? Y họ gì tên gì?” hán tử ấy nói: “Hách Đạt Tam” Giang Nam kêu ồ một tiếng rồi nói: “Té ra là chưởng môn của phái Thái Sơn!”
Thật ra Giang Nam không hề biết có phái Thái Sơn, càng không biết võ công của Hách Đạt Tam đến mức nào, nhưng trước kia chàng đã từng nghe Trần Thiên Vũ và Tiêu Thanh Phong đàm luận với nhau, hai người ấy bảo rằng, trong võ lâm các môn phái tuy nhiều, nhưng hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang là có nhân tài nhiều nhất, tiếng tăm cao nhất. Tiếp đến là các phái Nga Mi, Thanh Thành, ngoài bốn phái này, đệ tử của phái Thiên Sơn tuy không đông nhưng mỗi đời đều có nhân vật kiệt xuất, song phái Thiên Sơn ở miền biên thùy phía tây, rất ít tham dự vào những cuộc đấu đá ở võ lâm Trung Nguyên, cho nên phái Thiên Sơn có thể nói là đứng chơ vơ một mình không xếp vào bốn môn phái lớn. Giang Nam vừa nghĩ như thế, để tỏ ra mình là người thông thuộc tình hình võ lâm, chàng mới nói bừa thêm một câu: “Chỉ là hạng tép riu ở miền Sơn Đông.” Thật ra Hách Đạt Tam tuy chẳng thể sánh nổi với chưởng môn của các phái Thiếu Lâm, Võ Đang nhưng ở Sơn Đông cũng là nhân vật lẫy lừng.
Hán tử ấy thấy Giang Nam khinh miệt đà chủ của mình thì quả thực tức giận đến nỗi thất khiếu bốc khói, nhưng cũng không dám nổi giận hay lên tiếng. Chỉ nghe Giang Nam lại hỏi: “Các người đi mời những ai?” hán tử ấy nói: “Đà chủ của chúng tôi giao thiệp rất rộng rãi, mời rất nhiều người đến đây, tôi cũng không biết hết.” Giang Nam nói: “Vậy thì ngươi cứ nói những kẻ ngươi biết.” Hán tử ấy bảo: “Có Bạch mã Đỗ Bình, Bàn long quải Hứa Đại Hiến, bang chủ của bang Trấn Sơn Triệu Thiết Hán…” Giang Nam chưa từng nghe những cái tên này, chỉ hừ một tiếng rồi nói: “Toàn là những nhân vật vớ vẩn!” hán tử ấy nói: “Chuyện người hỏi tôi đã trả lời, ôi chao, người… người…” thủ pháp điểm huyệt này nếu để kéo dài không giải thì càng lúc sẽ càng đau, hán tử này chịu không nổi, mồ hôi đổ ra ròng ròng. Giang Nam thấy thế thì bảo: “Được, ta sẽ hỏi ngươi việc cuối cùng, các người hẹn gặp nhau tại nhà họ Dương vào lúc nào?” hán tử ấy bảo: “Ngay đêm nay?” Giang Nam cười hì hì rồi vung tay vỗ lên lưng y, hán tử ấy cảm thấy cơn đau biến mất nhưng vẫn không thể động đậy được, cũng chẳng nói được lời nào. Té ra tuy Giang Nam đã hóa giải thủ pháp điểm huyệt lúc nãy nhưng lại dùng thủ pháp điểm huyệt bình thường điểm vào ma huyệt và á huyệt của y. Giang Nam giấu y vào chỗ khuất rồi mới cười nói: “Ngươi hãy ngủ một giấc, đợi ta điều tra xem thử ngươi có nói thực hay không rồi sẽ quay trở lại thả ngươi.” Chàng lại dùng cỏ khô phủ lên rồi mới bỏ đi.
Giang Nam vừa đi vừa thầm nhủ: “May mà bọn chúng hẹn nhau đêm nay, vậy dù mình có trễ một ngày cũng chẳng làm hỏng chuyện lớn của công tử.” Chàng cũng không nghĩ nếu bị thua thì phải làm thế nào, trong lòng chỉ nhớ đến một tiểu cô nương tinh nghịch. Khi trời chạng vạng thì chàng đã đến Dương gia trang, đó là một tòa trang viện rất lớn, được xây dựng dựa theo thế núi. phía trước Dương gia trang là một mặt hồ phẳng lặng, phong cảnh rất đẹp, Giang Nam thầm nhủ: “Chả trách nào tiểu cô nương Giáng Hà lại trông rất tao nhã.” Đường núi gập ghềnh không dễ đi ngựa, cho nên Giang Nam bỏ ngựa đi bộ. Con ngựa một mình ăn cỏ bên bờ hồ, Giang Nam lẳng lặng trèo lên núi, thầm nhủ: “Nàng chắc không ngờ mình đến giúp. Hà hà, khi hoạn nạn mới biết ai là bằng hữu, Giang Nam này vốn là một trang hán tử!” Chàng nghĩ đến chỗ đắc ý thì suýt nữa đã bật cười.
Giang Nam đang đi thì chợt nghe phía sau lưng có bước chân nặng nề, chàng vội vàng nấp vào bụi cỏ nghiêng tai lắng nghe, chỉ nghe một trong eo éo cất lên: “Tam ca, sao huynh lại bị mắc lừa người ta, bị dúi trong đống cỏ thế? Tôi không tin tên tiểu tử ấy lại có công phu như vậy.” Giang Nam vừa nghe thì cảm thấy đó hình như là hán tử cao gầy đã gặp ở trà đình, thế rồi mới len lén nhìn ra, chỉ thấy có cả thảy ba người, một hán tử cao lớn sừng sững đi ở phía trước, hán tử béo vừa mới bị chàng tra khảo đi ở giữa còn hán tử cao gầy đi ở cuối cùng. Hán tử béo mặt đỏ ứng, trên người còn dính cỏ; té ra hán tử gầy nghe y rên rỉ cho nên mới cứu y ra. Hán tử cao lớn sừng sững kia chắc là người được tên gầy mời đến giúp đỡ.
Hán tử béo bị đồng bọn trêu ghẹo thì ngượng ngùng, một lát sau mới nói: “Ngươi đừng coi thường y tên tiểu tử ấy đúng là thân mang tuyệt kỹ, công phu điểm huyệt rất thần diệu, trên đời chỉ e không tìm được người thứ hai!” Y thổi phồng võ công của Giang Nam là để che đậy cho mình. Giang Nam nghe thấy thì sung sướng trong lòng, thầm nhủ: “Gã này cũng có con mắt tinh đời, lẽ ra mình không nên hành hạ y như thế!” Hán tử ốm nói: “Vậy là huynh đã phục y?” Hán tử béo trả lời: “Tài không bằng người, cái gì mà khâm phục, theo ta thấy, không những chúng ta không phải là đối thủ của y, dù cho bang chủ của chúng ta ra tay cũng chưa chắc thắng nổi y! Khẩu khí của y rất lớn, y bảo bang chủ của chúng ta chẳng qua chỉ là hạng hai!” Hán tử cáo lớn chính là bang chủ của phái Trấn Sơn Triệu Thiết Hán, y là bạn rất thân của Hách Đạt Tam, nghe thế thì đùng đùng nổi giận, hừ một tiếng rồi hỏi: “Khi tên tiểu tử ấy hỏi ngươi mời những ai, ngươi có nhắc đến tên ta không?” hán tử béo nói: “Tôi có nhắc đến tên ngài, y nói… tôi quả thực không dám kể lại.” Triệu Thiết Hán nói: “Chắc là mắng ta chứ gì? Không liên quan gì đến ngươi, cứ nói đi.” Hán tử béo nói: “Không mắng nhưng lại nói các vị là hạng vớ vẩn!” Triệu Thiết Hán cả giận: “Hừ, nếu y gặp phải ta, ta sẽ bẻ xương lột da y!”
Chợt trong bụi cỏ có tiếng người cười khì, té ra Giang Nam nghe hán tử béo tâng bốc mình như thế thì cuối cùng không nhịn được nữa cho nên mới bật cười Hán tử béo kêu lên: “Ồ, chính là hắn!” Triệu Thiết Hán cả giận: “Được, để ta coi ngươi là nhân vật như thế nào?” Thân người y tuy to lớn dềnh đàng nhưng rất linh hoạt, chỉ vừa quát lên thì đã phóng tới đấm vù ra một quyền, Giang Nam xoay người trở tay điểm lại, cười hì hì nói: “Ngươi có sợ công phu điểm huyệt tuyệt thế vô song của ta không?”chàng chỉ nói đến đấy thì không thể cười được nữa. Số là công phu ngoại gia của Triệu Thiết Hán từ lâu đã lẫy lừng năm tỉnh phía bắc, quyền như búa, chưởng như rìu, y nào để cho Giang Nam tiến sát tới, chàng điểm không trúng huyệt đạo của y, trái lại bị bàn tay của y chém trúng đau như dao cắt. Quần thảo nhau được một hồi, Giang Nam nhanh chóng bị dồn vào thế hạ phong. Hán tử gầy cười rộ lên, còn hán tử béo thì nói: “Y vẫn chưa thi triển tuyệt kỹ, ngươi xem, y có thể chịu được ba mươi chiêu của Triệu bang chủ, chỉ như thế cũng đã hơn ngươi!”
Thực ra võ công của Giang Nam kém xa Triệu Thiết Hán, nhưng chàng được Đường Kinh Thiên, Kim Thế Di, Trần Thiên Vũ chỉ cho chút ít, tuy không thể sử đụng được toàn bộ, nhưng những thứ chàng học toàn là võ công thượng thừa, đủ có thể dọa dẫm được người khác. Lúc đầu khi mới giao thủ với chàng, Triệu Thiết Hán chưa biết chàng ra sao, chỉ nghe hán tử béo bảo thủ pháp điểm huyệt của chàng rất thần kỳ, trong lòng có hơi sợ, cho nên trong mấy chiêu đầu thì không dám tấn công gấp, chỉ phòng bị không cho Giang Nam áp sát tới.
Đến khi đánh xong ba mươi chiêu, Triệu Thiết Hán đã biết võ công của Giang Nam ra sao, cho nên mới ngạc nhiên thầm nhủ: “Công lực của tên tiểu tử này chỉ xứng là đồ đệ của mình, nhưng thủ pháp của y rất tinh kỳ, còn giỏi hơn cả sư phụ của mình, không biết là tại sao?” lúc này y biết mình hơn hẳn Giang Nam nhưng vẫn còn e sợ những chiêu số kỳ quặc của chàng, đến khi đánh xong ba mươi chiêu chỉ thấy Giang Nam vẫn sử dụng những ngón cũ, y không khỏi cười rộ, thầm nhủ: “Chả lẽ y đã học lén võ công?”. Tuy cảm thấy lai lịch của chàng kỳ quái nhưng lúc này y chẳng còn e sợ gì nữa, thế rồi mới thay đổi chưởng pháp, tay trái dùng Thôi bi thủ, chưởng như búa lớn mở núi, quyền tựa chùy sắt gõ đá, quyền cước đều mang theo kình phong!
Giang Nam bị y dồn ép đến nỗi thở chẳng ra hơi, lòng thầm nhủ: “Hỏng bét, hỏng bét!” nghĩ chưa dứt thì Triệu Thiết Hán chợt vung hai tay mở ra ngoài, hai chưởng của Giang Nam bị chặn lại, trong lúc gấp gáp chàng đã sử dụng một chiêu Loan cung xạ hổ do Trần Thiên Vũ dạy cho, chiêu số thì đã đúng nhưng công lực không đủ, chẳng thể nào đẩy được cánh tay của Triệu Thiết Hán, Triệu Thiết Hán cười ha hả: “Cho ngươi xem bản lĩnh của ta!” thế rồi tay trái đè xuống, giữ chặt hai tay của Giang Nam, tay phải bóp vào cổ họng chàng. Hán tử ốm cười đồng bọn của mình: “Này, sao không thấy y sử dụng tuyệt kỹ.”
Giang Nam nổi cả gân xanh trên mặt, bị y bóp cổ họng, muốn la cũng không xong. Triệu Thiết Hán cười lạnh nói: “Ngươi dập đầu trước ta ba cái, kêu ta một tiếng ông nội, ta sẽ thả ngươi.”Giang Nam thầm nhủ: Mình chỉ có một ông nội, nếu kêu ông nội thì sẽ làm nhục cha mẹ, muôn lần không thể được.” Thế là chàng đã quyết cho nên chỉ lắc đầu, Triệu Thiết Hán càng bóp chặt hơn. Giang Nam đã sắp đứt hơi, cả lắc đầu cũng không đủ sức, nhưng mặt vẫn tỏ vẻ cứng cỏi.
Trong lúc Giang Nam đang nguy cấp, chợt thấy Triệu Thiết Hán kêu rú lên, đầu lưỡi thè ra, tuy tay phải vẫn còn bóp vào cổ Giang Nam nhưng đã không còn lực. Giang Nam hít sâu một hơi, thật kỳ lạ, đầu lưỡi của Triệu Thiết Hán càng thè càng dài, cả tóc cũng rối bời, tựa như không phải y bóp cổ Giang Nam mà Giang Nam bóp cổ y, trông bộ dạng như một kẻ bị treo cổ, Giang Nam kêu lên: “Này, ngươi làm gì thế, ngươi dọa ta đấy ư, ta không sợ!” chàng tuy nói không sợ nhưng trong bụng thì rất kinh hoảng. Hán tử ốm thấy Giang Nam quả thực đã sử dụng tuyệt chiêu, hoảng sợ đến nỗi kinh hồn bạt vía, vội vàng cùng đồng bọn co giò chạy mất!
Chợt nghe Triệu Thiết Hán lại kêu rú lên một tiếng nữa, hai tay xuôi xuống rồi lăn sầm ra đất, thất khiếu chảy máu trông giống như người chết. Giang Nam kêu lên: “Mẹ ơi!” rồi cũng hoảng sợ đến nỗi ngất xỉu! Giang Nam tựa như mới trải qua một cơn ác mộng, trong mơ hồ chàng cảm thấy người mình nhẹ hẫng rồi bốc lên cao, trước mặt xuất hiện vô số đầu trâu mặt ngựa, chàng kêu không thành tiếng, lòng thầm nhủ: “Hỏng bét, chắc chắn ma treo cổ đã bắt mất hồn mình” Đột nhiên những ảo ảnh ấy biến mất, và một giọng nói quen thuộc vang lên: “Đừng lo, hôm nay ta sẽ cho ngươi làm một anh hùng vang đanh bốn biển!” Bên tai tiếng gió kêu lên vù vù tựa như chàng đang cưỡi mây mà đi, rồi bỗng dưng chàng lại cảm thấy như mình rơi xuống từ trên không trung, sau đó tất cả lặng yên trở lại.
Giang Nam thử mở mắt: “Ồ, ở đây là đâu thế?” nhưng chàng lại thấy hình như mình đang bị kẹp giữa hai tấm gỗ, chẳng thể nào xoay chuyển được, lại thấy có ánh sáng chói lòa từ hai bên chiếu tới, Giang Nam ngẩn người ra. Chàng dần đần tỉnh táo trở lại, phát hiện mình đang nằm cuộn sau một tấm biển, huyệt đạo bị phong tỏa không thể nào cử động được.
Bên dưới là một tòa sảnh đường rộng rãi có bày mấy chục cái bàn vuông, trên mỗi bàn có hai bầu rượu, Giang Nam cứ tưởng mình đang nằm chiêm bao, thầm nhủ: “Chả lẽ Diêm Vương mời mình dự tiệc? Chợt nghe một giọng nói trong trẻo vang lên: “Mẹ, hôm nay thật náo nhiệt, có đông người đến như thế sao?” Giang Nam ngẩn người ra, chỉ thấy có hai phụ nữ bước ra, đó chính là Dương Liễu Thanh và con gái của bà ta Trâu Giáng Hà.
Giang Nam cắn đầu lưỡi, rất đau, rõ ràng không phải chiêm bao. Vậy ai đã đưa mình tới đây? Chàng càng nghĩ càng thấy rối trí.
Chỉ nghe Dương Liễu Thanh thở dài: “Con thật không biết trời cao đất dày, đêm nay là bữa tiệc Hồng Môn, con tưởng là uống rượu mừng sao?” Trâu Giáng Hà hỏi: “Cha đã mời bao nhiêu người đến giúp đỡ.” Dương Liễu Thanh nói: “Mời thì nhiều nhưng chỉ có mười người đến.” Trâu Giáng Hà hỏi: “Còn phía bên kia?” Dương Liêu Thanh bảo: “Nhận được cả thảy ba mươi bốn thiệp mời, theo quy củ trên giang hồ, lẽ ra phải có ba mươi bốn người tới. Con hãy đếm lại thử xem có đủ hai mươi bốn bàn hay không?” Trâu Giáng Hà nói: “Đúng thế, có ba mươi bốn bàn, cha và mẹ ngồi một bàn, chẳng phải là đã dư hai bàn sao?” Dương Liễu Thanh bảo: “Hai bàn ấy là chuẩn bị cho khách không mời mà đến.”
Trâu Giáng Hà nói: “Người của bọn họ họ chẳng phải nhiều hơn chúng ta gấp đôi hay sao?” Dương Liễu Thanh lại thở dài: “Tình người ấm lạnh, nếu ông ngoại con còn sống, dù chúng ta không gởi thiệp mời, hào kiệt ở các nơi cũng sẽ tự đến. Con hãy xem thử tấm biển kia!”
Giang Nam giật thót tim, tưởng rằng Dương Liễu Thanh đã phát hiện ra mình, chỉ nghe Dương Liễu Thanh nói: “Ta vẫn còn nhớ vào ngày đại thọ sáu mươi tuổi của ông ngoại con, một trăm hai mươi bốn anh hùng ở năm tỉnh phía bắc đã tặng tấm biển này, trên tấm biển đề bốn chữ vàng “Võ lâm thạc vọng”, đến nay đã ba mươi năm, chả lẽ quả đúng như lời xưa nói, ba mươi năm gió bay nước chảy hay sao?” Té ra bà ta đang cảm khái chứ không phải phát hiện Giang Nam.
Trâu Giáng Hà nhíu mày: “Chúng ta tuy người ít thế yếu, nhưng cũng không nên làm mất uy danh của ông ngoại.”
Dương Liễu Thanh bảo: “Đương nhiên, mẹ có bao giờ chịu nhận thua?” Trâu Giáng Hà hỏi: “Vậy lão hòa thượng khiêu chiến với chúng ta là ai?” Dương Liễu Thanh bảo: “Ta chỉ biết tên tục gia của y là Hách Hạo Xương, là đồ đệ của Đại lực thần ma Tát Thiên Đô.”
Trâu Giáng Hà nói: “Đại lực thần ma? Cái tên này nghe thật quen, ồ, con đã từng nghe cha nói, y là đại ma đầu cùng thời với ông ngoại, chẳng phải đã chết rồi ư?”
Dương Liễu Thanh bảo: “Đúng thế, y và các đồ đệ đã chết hết chỉ còn lại một mình Hách Hạo Xương. Đại lực thần ma Tát Thiên Đô có một người anh sinh đôi tên gọi Bát tí thần ma Tát Thiên Thích, giờ đây cũng chỉ còn lại một đệ tử.” Trâu Giáng Hà nói: “Có phải là Đổng Thái Thanh, kẻ cũng trở thành hòa thượng hay không? Ba mươi năm trước, y đã bị ông ngoại đánh gãy một cánh tay, khi chúng ta đến Thiên Sơn tìm Đường thúc thúc đã gặp y. Ồ, con đã hiểu. Hách Hạo Xương đến báo thù cho sư huynh của y.”
Dương Liễu Thanh bảo: “Năm đó nếu không nhờ Phùng Lâm khuyên giải, mẹ đã móc mắt y, hừ, bản thân Đổng Thái Thanh không dám đến trả thù, trái lại Hách Hạo Xương lại giúp y, thật là buồn cười.” Giang Nam thầm nhủ: “Dương cô cô còn khoác lác hơn cả mình!”
Số là lần đó Dương Liễu Thanh và Đồng Thái Thanh gặp nhau ở quán rượu bên đường, Đổng Thái Thanh dùng một cánh tay đấu với thần đạn của Dương Liễu Thanh, Giang Nam cũng đã chứng kiến, nếu không nhờ Phùng Lâm đến kịp lúc, Dương Liễu Thanh đã thua to. Giang Nam lại nghĩ “Đổng Thái Thanh làm sao có thể tìm bà trả thù, trừ phi y chui ra khỏi hòm, không, lúc y chết cũng chẳng được nằm vào hòm. Trừ phi y chui ra từ hố băng.” Thì ra Đổng Thái Thanh đã cùng một đại ma đầu khác là Xích Thần Tử lên ngọn Chu Mục Lang Ma ở dãy Hy Mã Lạp Nhã tìm cỏ tiên, đã bị chết cứng ở Băng Xuyên (xin mời xem bộ Băng xuyên thiên nữ truyện). Trần Thiên Vũ đã kể lại chuyện này cho Giang Nam nghe, bởi vì lần ấy Đường Kinh Thiên và Kim Thế Di cũng có tham gia, và Kim Thế Di đã mất tích từ đó.
Hình như mẹ con Dương Liễu Thanh không biết chuyện này. Trâu Giáng Hà nói: “Mẹ, mẹ đã quên rồi, lúc đó Phùng a di chẳng phải đã nói không cho Đổng Thái Thanh tìm mẹ trả thù nữa sao? Thật lạ, sao sư đệ của ông ta lại không biết lệnh cấm của Phùng a di, chẳng lẽ Đổng Thái Thanh không nói cho ông ta biết sao? Mẹ, chúng ta đừng sợ, nếu lần này đánh thua, Phùng a di cũng sẽ trả thù cho chúng ta.” Dương Liễu Thanh nói: “Hà nhi, dù lần này mẹ có bị đánh chết, con cũng không được báo với Phùng Lâm, người nhà họ Dương chúng ta xưa nay không cần ai thương xót, cũng không cần phải nhờ vả người khác.” Số là Dương Liễu Thanh và Phùng Lâm xưa nay bất hòa, Phùng Lâm cũng không chỉ một lần bỡn cột bà ta, Dương Liễu Thanh đương nhiên không nói cho con gái biết (ba mươi năm trước, Dương Liễu Thanh từng là vị hôn thê của Đường Hiểu Lan. Nhưng Đường Hiểu Lan lại yêu chị gái của Phùng Lâm là Phùng Anh. Vì thế Phùng Lâm thường hay bỡn cợt Dương Liễu Thanh). Nói đến đây, có một tên gia đinh vào báo: “Bọn chúng đến rồi!” Dương Liễu Thanh nói: “Ngươi vào bảo lão gia ra đón khách.” Một hồi sau, chỉ thấy một hán tử mắt to mày rậm, người to lớn dềnh dàng tuổi khoảng năm mươi cùng với một đám người bước ra, người đó chính là chồng của Dương Liễu Thanh tên gọi Trâu Tích Cửu, còn những người kia là đến giúp cho nhà họ Dương. Trâu Tích Cửu ở rể nhà họ Dương, rất sợ vợ, người tuy thô hào nhưng lại trầm mặc ít nói, ông ta căn dặn người nhà hai câu: “Mở rộng cửa lớn, nghênh đón bằng lễ.” Ông ta không hề tỏ ra hùng hổ như vợ. Cửa lớn mở ra, chỉ thấy một nhà sư cười ha hả bước vào.
Trâu Tích Cửu nói một chữ “mời”, Dương Liễu Thanh thì lạnh lùng nói: “Đa tạ đại sư đã đến, hôm nay quần hùng đều tụ tập ở đây, quả thực khiến tôi thấy vinh hạnh.”
Hách Hạo Xương cười ha hả: “Các nhân vật lẫy lừng ở năm tỉnh phía bắc đa số cũng đều có ở đây, may mắn, may mắn!” Hai người chưa từng giao thủ, trước tiên đã đấu khẩu, Dương Liễu Thanh mỉa mai ông ta dắt theo nhiều người, Hách Hạo Xương cũng trả lại một câu, thừa cơ lấy lòng những nhân vật phía Dương Liễu Thanh, dụng ý là không muốn kết thù với họ.
Số là lần này Hách Hạo Xương có hai mục đích, thứ nhất đương nhiên là muốn trả thù. Thứ hai là muốn dựng cháu của y, bang chủ của bang Thái Sơn Hách Đạt Tam làm lãnh tụ võ lâm năm tỉnh phía bắc. Còn những người đến giúp cho Dương Liễu Thanh, kẻ có võ công thực sự cao cường không nhiều, nhưng ai cũng có tiếng tăm trong võ lâm, Hách Đạt Tam muốn làm lãnh tụ võ lâm đương nhiên không thể xích mích với những người này. Trong số những người đi cùng Hách Hạo Xương, có một nhà sư người Tây Tạng mặc cà sa màu đỏ, thân hình cao lớn, Hách Hạo Xương giới thiệu với hai vợ chồng Dương Liễu Thanh: “Đây là Tàng Linh thượng nhân ở Tây Tạng.” Tàng Linh thượng nhân chắp tay nói: “Từ lâu đã nghe đại danh của hiền lương mạnh, nay mới có duyên may mắn được gặp.” Dương Liễu Thanh và Trâu Tích Cửu chỉ cảm thấy một nguồn lực dồn tới, lập tức đầu váng mắt hoa, hơi thở khó khăn, trong khoảnh khắc ấy chợt nghe một tràng cười kỳ quái vọng tới, âm thanh không cao nhưng nghe rất lạnh lẽo, nhất là Tàng Linh thượng nhân nghe càng chối tai hơn, chỉ thấy sắc mặt của y chợt thay đổi, nguồn áp lực cũng giảm xuống. Lúc này những người quen mặt của cả hai bên đều chào nhau, Tàng Linh thượng nhân và Hách Hạo Xương đưa mắt nhìn đám người nhưng không biết ai đã phát ra tiếng cười, Tàng Linh thượng nhân bất đồ nhớ lại một quái kiệt trong chốn võ lâm, trong lòng rất hoài nghi. Giang Nam chỉ nghe tiếng cười chối tai này, chàng càng kinh ngạc hơn đám đông, tiếng cười ấy giống như tiếng cười mà chàng đã nghe khi đang mơ hồ, nhưng người đó là ai? Đột nhiên chàng nghĩ tới một người: “Chả lẽ là Kim Thế Di? Đúng thế, khi Kim Thế Di phát ra tiếng cười quái dị cũng chối tai như thế này!” Nhưng Giang Nam ở trên cao cho nên nhìn xuống rất dễ dàng, chẳng có ai là Kim Thế Di cả! Chủ khách đều đã ngồi vào chỗ, Trâu Tích Cửu nói với Hách Hạo Xương: “Lần này đại sư đến hàn xá không biết có gì chỉ giáo?” Hách Hạo Xương đứng dậy, cũng nói với Dương Liễu Thanh: “Dương đại tiểu thư, ai đã đánh bại sư huynh của tôi, mời bà hãy nói thẳng ra.” Dương Liễu Thanh chỉ nghĩ y đến đây là để trả thù việc sư huynh bị đánh gãy tay vào ba mươi năm trước, nào ngờ y không biết Đặng Thái Thanh đã chết, nghe thế thì ngạc nhiên: “Tôi không giết sư huynh của ông.” Hách Hạo Xương nói: “Dựa vào bản lĩnh của bà thì làm sao có thể giết được sư huynh của tôi. Tôi muốn hỏi là bà đã nhờ ai giết chết ông ta?” Dương Liễu Thanh nổigiận: “Nếu ta muốn nhờ người giết chết y, thì khi gặp mặt lần đầu tiên ở Tây Tạng tađã không tha cho y.”
Hách Hạo Xương nói: “Tôi biết bà quen biết rất nhiều, bà e ngại sư huynh của ta, nếu không phải bà dùng kế thì đã nhờ người ta giết chết ông ta, được, mặc kệ là ai, tóm lại bà là chủ mưu, nếu bà không nói ra thì món nợ này tôi chỉ đành đòi bà!” Dương Liễu Thanh vỗ bàn tức giận nói: “Ngươi cứ bảo ta giết người, được, ngươi cứ xông tới, ngươi tưởng ta sợ ngươi?” Trâu Tích Cửu vội vàng khuyên: “Có lời thì hãy từ từ nói, chủ khách vừa mới gặp nhau, chú nó ta hãy uống ba chén rượu trước đã!” Nói chưa dứt lời chỉ nghe có người kêu: “Được, ta sẽ đến kính nữ chủ nhân ba chén.” Người vừa mới lên tiếng chính là Hách Đạt Tam, những người ở phía y quá nửa là do y mời tới, cho nên thân phận của y là khách chính, y ra mặt kính rượu nữ chủ nhân cũng là lẽ đương nhiên, nhưng thủ pháp kính rượu của y rất đặc biệt, chỉ thấy y rót đầy ba chén rượu. Hai ngón tay xoay lên mép chén, ba chén rượu bay ra liên tiếp thành hình chữ phẩm, rượu trong chén chẳng hề đổ ra ngoài. Nhà họ Dương vốn nổi tiếng nhờ Thiết chưởng thần đạn, công phu ném ám khí rất đặc biệt, Hách Đạt Tam dùng thủ pháp ném ám khí kính rượu, là muốn tỉ thí với bà ta.
Dương Liễu Thanh cũng từ tốn rót đầy ba chén rượu, đợi cho ba chén rượu của Hách Đạt Tam bay đến cách mấy thước, bà ta đặt ba chén rượu lên lòng bàn tay, thản nhiên nói: “Tửu lượng của ta rất tệ, ba chén này không uống được, ta cũng xin kính!” Thế rồi lật tay, ba chén rượu đầy tràn cũng bay vút ra, chạm với ba chén rượu của Hách Đạt Tam, phát ra tiếng kêu lanh canh, chỉ thấy sáu chén rượu tách ra làm hai nhóm. Mỗi nhóm ba chén, ba chén thì bay ngược trở về chỗ Hách Đạt Tam, ba chén còn lại thì bay tới trước mặt đại hòa thượng, phương hướng khác nhau, tốc độ thì nhanh như nhau còn rượu thì không rớt ra một giọt. Thủ pháp ấy cao minh hơn Hách Đạt Tam nhiều, những người đi cùng y đều không khỏi trầm trồ.
Hách Đạt Tam chỉ đành thi triển thủ pháp tiếp ám khí, bưng ba chén rượu uống cạn, đại hòa thượng thì phất ra cây quạt nan trong tay, đánh hờ một chiêu, sau đó lại mở bàn tay ra, chỉ thấy ba chén rượu đầy tràn lần lượt hạ xuống lòng bàn tay của y, tựa như lòng bàn tay của y có một lực hút vô hình. Những người có võ công cao cường đều nhận ra, ba chén rượu này đều bay tới ba hướng khác nhau, hai chén thì bay vào hai bên huyệt thái dương của y, còn một chén bay thẳng vào sóng mũi của y, y chỉ đánh ra một chiêu mà cả ba chén rượu đều bay về một hướng, hạ xuống lòng bàn tay của y, nếu so với Dương Liễu Thanh, y cũng có sở trường riêng, Dương Liễu Thanh giỏi thủ pháp ném ám khí, còn nội công của đại hòa thượng này thâm hậu hơn Dương Liễu Thanh nhiều!
Hách Hạo Xương đặt ba chén rượu xuống, nói: “Ý của ta thì khác hẳn Trâu thí chủ, cứ tính nợ cho rõ ràng rồi uống rượu mới thích. Nữ thí chủ, bà bảo thế nào về cái chết của sư huynh tôi đây?” Y lại tiếp tục dồn ép Dương Liễu Thanh, Dương Liễu Thanh trợn mắt nổi giận: “Ta đã bảo chẳng phải ta giết, ta cũng không biết ai giết, ngươi cứ đòi tính sổ với ta, ta cũng chẳng biết nói gì! Chỉ có chiếu theo quy củ giang hồ, ta phải thỉnh giáo công phu của đại hòa thượng nhà ngươi trước.” Trong số người Trâu Tích Cửu mời tới có một ông già tên Trịnh Càn Nguyên nói: “Xin hỏi đại hòa thượng, có phải thực sự sư huynh của ông đã bị người ta giết hay không? Ông đã phát hiện ra xác của ông ta hay có người báo tin? Trên giang hồ cũng thường có chuyện báo tin chết nhầm.” Hách Hạo Xương nói: “Năm đó sư huynh của ta tìm Dương Liễu Thanh tính sổ, bị bà ta nhờ người phái Thiên Sơn đánh bại, sau đó thì không biết thế nào nữa. Chính Hoàng Thạch đạo nhân đã báo tin sư huynh ta chết, Hoàng thạch đạo nhân là danh túc của phái Không Động, lẽ nào lời ông ta là giả? Ta không hỏi bà ta thì hỏi ai?” Giang Nam nghe thế thì chợt lo, chàng cứ kêu trong lòng: “Sao ngươi không hỏi Kim Thế Di?” nhưng đáng tiếc chàng không thể lên tiếng được.
Trịnh Càn Nguyên là người dĩ hòa vi quý, ông ta tiếp tục nói: “Nếu năm xưa sư huynh của ông đã bị người của phái Thiên Sơn đánh bại, lẽ ra ông nên hỏi chưởng môn của phái Thiên Sơn là Đường Hiểu Lan mới đúng!” Nay Đường Hiểu Lan đã là nhân vật lẫy lừng võ lâm, người bình thường càng không thể lên ngọn Nam Cao trên núi Thiên Sơn được, Trịnh Càn Nguyên nói như thế rõ ràng là biết y không dám lên Thiên Sơn hỏi tội Đường Hiểu Lan. Hách Hạo Xương nhìn Trịnh Càn Nguyên rồi nói: “Đây là…” Hách Đạt Tam nói: “Đây chính là Trịnh Càn Nguyên lão anh hùng.” Hách Hạo Xương nói: “Trịnh lão anh hùng, đa tạ ông đã khuyên. Nhưng đáng tiếc lời của ông hình như có chút sai lầm, trên giang hồ thường có chuyện tìm thù đòi mạng theo quy củ thì phải tìm người chủ mưu, đâu có lẽ nào lại đi hỏi những kẻ tòng phạm? Huống chi ai ai cũng biết mối giao tình giữa Dương đại tiểu thư với Đường Hiểu Lan, cho nên cần gì phải bỏ gần lấy xa, lên Thiên Sơn hỏi Đường Hiểu Lan? Cứ cho là người của phái Thiên Sơn đã làm chuyện này, hỏi Dương đại tiểu thư cũng chẳng khác gì.” Năm xưa Dương Liễu Thanh muốn lấy Đường Hiểu Lan nhưng không được, bà ta rất ghét bị người khác nhắc lại chuyện này, bất đồ mặt đỏ ửng nổi giận đùng đùng nói: “Lão lừa trọc nhà ngươi ăn nói vớ vẩn, bịa đặt xằng bậy, ai mà biết sư huynh nhà ngươi đã chết như thế nào? Được, nếu ngươi đã đến đây sinh sự thì cứ coi như là ta đã giết! Hà nhi. Lấy đạn cung của mẹ ra đây!” Hách Hạo Xương đứng phắt dậy: “Nữ thí chủ, bà nên cẩn thận lời nói, chúng ta đấu võ chứ không đấu miệng!” Rõ ràng là y đã bới móc Dương Liễu Thanh trước, nhưng nay lại bảo người ta ăn nói cho cẩn thận, Dương Liễu Thanh tức đến nỗi thất khiếu bốc khói, bà ta nhận lấy đạn cung, toan bước ra khỏi chỗ ngồi.
Trong khi kiếm rút cung căng, chợt có một tên gia đinh chạy vào bẩm cáo: “Có người muốn gặp chủ mẫu, y còn mang theo một món lễ vật, bảo rằng muốn nhờ chủ mẫu gởi cho một người tên là Mai Nhược đại sư, Dương Liễu Thanh và Hách Hạo Xương đều ngạc nhiên, té ra sau khi Hách Hạo Xương xuất gia đã lấy pháp hiệu là Mai Nhược, sau khi sư phụ của lão là Đại lực thần ma chết, lão đã ẩn cư gần ba mươi năm, gần đây nghe tin sư huynh đã chết cho nên mới xuống núi trả thù, cũng rất ít người biết chuyện lão trở thành hòa thượng, càng không ai biết lão có pháp hiệu là Mai Nhược. Hai người đều tưởng rằng đó là bằng hữu của đối phương, Dương Liễu Thanh phần chưa hết tức giận, lập tức bảo: “Mặc cho có bao nhiêu người, nhà họ Dương chúng ta đều có thể tiếp đãi, hãy dắt y vào!” Tên gia đinh ấy hơi ngạc nhiên, bẩm cáo: “Chỉ có một người đến.” Dương Liễu Thanh quát: “Có nghe chưa? Mau đắt y vào!”
Một lúc sau, tên gia đinh đắt theo một người vào, Dương Liễu Thanh nói: “Ồ, già Vương, té ra là ông.”
Giang Nam nhận ra đó là ông già bán trà, thầm nhủ: “Ông lão này cũng thích lo chuyện bao đồng như mình, chắc là muốn tìm cớ đến đây xem náo nhiệt. Nếu không làm sao cứ chọn lúc người ta sắp đánh nhau lại đến tặng quà.” Chỉ thấy ông lão ôm theo một cái tráp sắt hình chữ nhật, trên cái tráp có gián tờ giấy trắng ghi rằng “Làm phiền giao cho Mai Nhược đại sư đích thân mở ra.” Hách Hạo Xương cũng nhận ra ông lão họ Vương bán trà, y ngạc nhiên lập tức giật lấy cái tráp, nói: “Ta chính là Mai Nhược hòa thượng.” Rồi y cầm cái tráp mà lắc, bên trong hình như có vật bằng sắt, nên có tiếng kêu phát ra, Hách Hạo Xương ngần ngừ một chốc lâu mà vẫn không dám mở ra.
Tàng Linh thượng nhân nói: “Để ta coi thử là lễ lạt gì?” người nhận lấy cái tráp từ Hách Hạo Xương, y cậy có võ công cao cường, nhủ rằng dù trong tráp có ám khí cũng chẳng làm gì được y, cho nên mới vận Kim cương chỉ lực bật nắp tráp ra, chỉ thấy trong cái tráp có một cánh tay đen kịt. Hách Hạo Xương kêu thét lên, lấy cánh tay ấy ra gõ lên bàn, cánh tay kêu keng một tiếng, cái bàn cũng mất đi một góc, té ra đó là một cánh tay sắt.
Hách Hạo Xương khóc rống lên rằng: “Sư huynh, quả nhiên huynh đã bị người ta hại!” Té ra hơn ba mươi năm trước, Đổng Thái Thanh bị cha của Dương Liễu Thanh chặt đứt một cánh tay, y đã lắp vào một cánh tay sắt, luyện thành Thiết tý thần công rồi mới tìm đến Dương Liễu Thanh trả thù. Hách Hạo Xương nhận ra đây là cánh tay sắt của Đổng Thái Thanh.
Tàng Linh thượng nhân nói: “Ồ, hình như trên cánh tay có khắc chữ?” Hách Hạo Xương cầm cánh tay nhìn kỹ, phía trên quả nhiên có viết bảy tám chữ: “Chết ở Băng Xuyên, chẳng liên quan gì đến ai.” Sau đó còn có hai hàng chữ nhỏ ghi lại việc Đổng Thái Thanh lên ngọn Chu Mục Lang Ma tìm tiên thảo, bị chết cứng trong Băng Xuyên. Hách Hạo Xương kinh ngạc lắm, tóm lấy ông lão họ Vương bán trà hỏi: “Ai đã nhờ ngươi đem cái tráp này tới?” Ông lão trả lời: “Là Tiểu Tam Tử!”
Hách Hạo Xương nói: “Tiểu Tam Tử là ai?” Ông lão ấy nói: “Tiểu Tam Tử đấy ư? Ồ, là một đứa trẻ chăn trâu hàng xóm.” Trâu Giáng Hà bật cười; Hách Hạo Xương tức giận quát: “Ngươi cười gì?” Ông lão thì bảo: “Thật oan cho tôi quá, già Vương này suốt đời không nói dối nửa câu, nếu không tin thì ngài có thể hỏi Dương đại tiểu thư.” Hách Hạo Xương nói: “Có đúng là đứa trẻ chăn trâu đã gởi chiếc hộp này tới hay không?” Ông lão trả lời: “Quả đúng là tôi đã nhận từ trong tay của nó.” Tàng Linh thượng nhân nói: “Ngươi có hỏi rõ ai đã đưa cái tráp này cho nó không?” Ông lão đáp: “Hắn bảo là một tên ăn mày.” Tàng Linh thượng nhân biến sắc: “Ăn mày cũng biết tặng quà?” Ông lão nói: “Ồ, nghe Tiểu Tam Tử bảo, tên ăn mày này ra tay rất rộng rãi, đã thưởng cho hắn một nén bạc.”
Hách Hạo Xương giật mình, thầm nhủ: “Chả lẽ bang chủ của Cái Bang ra mặt chống đối với mình?” rồi y vội vàng hỏi: “Có phải là một lão ăn mày già mặc cái áo rách rưới bị vá nhiều chỗ hay không?” Oong lão trả lời: “Không, nghe Tiểu Tam Tử nói, đó là một tên ăn mày con môi đỏ răng trắng, tướng mạo của hắn trông rất gọn gàng nhưng không hiểu sao lại làm ăn mày?” Giang Nam nghe thế thì vừa kinh vừa mừng, thầm nhủ: “Chắc chắn là Kim Thế Di! Ha ha, Kim Thế Di mà đến đây, lão hòa thượng nhà ngươi nếu không biết tiến thì chắc chắn sẽ xui xẻo!” Hách Hạo Xương thấy không phải là bang chủ của Cái Bang thì yên lòng, đang định lên tiếng thì chợt thấy Tàng Linh thượng nhân biến sắc, tựa như có vẻ hơi khiếp sợ, Tàng Linh thượng nhân vốn là cao thủ thuộc hàng đệ nhất của Mật Tông Tây Tạng, năm nay hơn bảy mươi tuổi, nhưng nhìn ông ta chỉ như năm mươi tuổi, nếu luận về vai vế thì ngang hàng với sư phụ của Hách Hạo Xương.
Hách Hạo Xương mời ông ta đến đây để làm chỗ dựa, thấy ông ta tựa như có vẻ khiếp sợ, không khỏi ngạc nhiên, thầm nhủ: “Chả lẽ Tàng Linh thượng nhân sợ tên ăn mày này?”
Đó chính là: “Thần long thấy đầu không thấy đuôi, có gì ảo diệu nào ai biết.”