Vấn đề lương thực – Phản đối dầu hỏa – Phó-mát là anh bạn đồng hành cực kì khó chịu – Bà chủ bỏ nhà ra khách sạn – Tiếp tục dự phòng cho trường hợp lật thuyền – Tôi xếp đồ đạc – Jord và Hari xếp đồ – Hành vi của Mon-mo-ran-xi – Ai là người đánh thức.
Sau đó chúng tôi bàn đến vấn đề lương thực, thực phẩm. Jord có ý kiến:
– Hãy bắt đầu từ bữa sáng (thằng cha này cái gì cũng có vẻ bài bản). Thế này nhá, với bữa sáng bọn ta phải có chảo…- Hari nói rằng thứ đó cồng kềnh nhưng hai chúng tôi chặn ngay không cho hắn nói thêm những ý kiến khá xuẩn nữa và Jord tiếp tuc: – … ấm để đun nước, bình pha trà và đèn cồn.
– Nhưng không mang một giọt dầu hỏa nào cả – Jord nói với một vẻ đầy ngụ ý, Hari và tôi tán thành tắp lự.
Một lần chúng tôi đã mang theo dầu hỏa trong cuộc hành trình nhưng đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Suốt một tuần chúng tôi như phải sống trong quầy bán dầu. Đó là thứ chất lỏng có thể thẩm thấu và loang đi không sót chỗ nào, tôi không biết còn có thứ gì hơn được dầu hỏa nữa hay không. Bọn tôi để dầu ở đằng mũi nhưng nó loang ra đến tận bánh lái, thấm vào tất cả mọi thứ đồ đạc trên đường chu du của chất lỏng quái ác đó, loang xuống nước sông, đổi sắc màu cảnh vật và đầu độc bầu khí quyển. Lúc thì gió dầu đến từ phía tây, lúc từ hướng đông, gió bắc cũng mang mùi dầu hỏa, giá có cả các loại gió thổi đến từ Nam Cực băng hay Sa Mạc héo tôi chắc cũng phải đượm thứ mùi chết tiệt này!
Chúng tôi phải hít thở mùi của nó mãi đến nỗi có cảm giác rằng dầu hỏa đã kéo màn che cả mặt trời lúc hoàng hôn và làm mờ ánh trăng đêm. Đến Marlo cả bọn tìm cách thoát thân: con thuyền được buộc lại ở mố cầu, người thì chạy bộ lẻn sang phía kia của thành phố nhưng chẳng hiểu từ đâu thứ mùi hôi mà bọn tôi đặc biệt nhạy cảm này cứ bám theo mãi ngay cả khi chúng tôi đã mệt nhoài phải trốn ra ngồi ở khu nghĩa địa hoang vắng!
Sau khi kết thúc chuyến đi lần đó chúng tôi đã hẹn nhau tới gốc sồi già linh thiêng vào lúc nửa đêm để cùng thề nguyền một lời thề đáng sợ: sẽ không bao giờ đem dầu hỏa xuống thuyền cho dù chỉ để trị mấy con bọ chó.
Vậy nên lần đi này chúng tôi quyết không đụng gì tới dầu hỏa mà dùng cồn biến tính để đun nấu. Thứ này cũng vào loại khó ngửi nhưng đành chấp nhận việc xơi bánh nướng bánh rán có thêm mùi cồn mà hình như nhà y cho răng một liều lượng nhỏ cồn biến tính vào trong người cũng có lợi cho sức khỏe.
Về các thành phần khác cấu thành bữa sáng Jord đề nghị mang trứng và xúc xích, những thứ chế biến dễ dàng, thit nguội, chè, bánh mì với bơ và mứt –nhưng không một gam phó mát nào – Phó mát cũng như dầu hỏa đều tỏa mùi đặc trưng khủng khiếp. Nếu có mặt thứ tội nợ đó trên thuyền thì nó sẽ là ông chủ, sẽ ra tay khủng bố và chinh phục mọi thứ khác thành thần dân và bắt tất cả chư hầu phải mang theo thứ mùi đặc trưng của nó.
Có một lần một trong số các anh bạn tôi mua ở Li-vơc-pun mấy cục phó mát. Đó là loại phó mát rất cực kì, tươi rói và ẩm ướt, mùi mạnh tới hai trăm sức ngựa. Tôi cam đoan rằng nó có thể tác động vào khứu giác của mọi sinh vật trong vòng bán kính ba dặm Anh và có thể quật ngã một nữ khách ngoại quốc chưa biết nó bao giờ từ khoảng cách hai mươi mét ( xin các bạn đừng cho là bịa, các bạn đã thừa biết rằng ở một số đất nước có những loại quả mà người này thì nâng niu hôn hít trên tay nhưng người khác có thể chóng mặt lăn quay ra đất khi đứng gần!). Lần đó tôi cũng đang ở Li-vớc-pun, vì có công chuyện phải nán lại vài ngày nên anh bạn hỏi tôi xem có sẵn lòng mang giùm chỗ phó mát đó về Luân-đôn hộ anh ta hay không.
– Rất sẵn sàng, bồ ạ – Tôi đáp – Rất sẵn sàng!
Người ta đưa gói hàng đến và tôi xếp nó lên xe. Đó là một thứ phương tiên vận tải xác xơ cổ lỗ, chịu trách nhiệm lôi nó đi là một sinh vật mộng du chân thọt, đã rụng hết răng mà tay chủ xe trong lúc vui chuyện với tôi vẫn gọi là con nghẽo.
Tôi đặt gói phó mát ở phía trên và con vật bắt đầu đi nước kiệu nhỏ, có thể coi đó là phương tiện đi nhanh nhất nếu so sánh với những chiếc xe lu chạy hơi nước và mọi chuyện diễn ra êm ả cho đến khi chúng tôi qua một khúc quanh. Lúc đó gió thổi mùi phó mát về phía con vật mộng du làm nó xuất thần bừng tỉnh. Quá khiếp sợ con vật phi lồng lên với tốc độ ba dặm một giờ, gió vẫn tiếp tục thổi theo hướng đó nên chưa kịp đến cuối phố, thì cụ chiến mã bất đắc dĩ đã chạy đến nước cuồng, vượt qua tất cả các phế nhân thiếu cẳng và các quí bà voi còi phục phịch đang hốt hoảng.
Bác tài phải nhờ sự trợ giúp của hai người phu khuân vác để dừng chiếc xe ở nhà ga nhưng chắc chắn việc đó cũng sẽ quá sức của họ, nếu một người không nhanh trí nghĩ ra cách nhét chiếc khăn mùi xoa vào mũi con ngựa đang phát điên, còn người kia thì bật quẹt đốt mấy mẩu giấy hơ đi hơ lại trước mõm con vật khốn khổ. Tôi mua vé tàu hỏa rồi nghênh ngangh khoan khoái đi dọc theo đường ke trong khi mọi hành khách dạt sang hai bên để tránh đường. Chuyến tàu đã chặt ních nên tôi phải len vào một ngăn đã có bảy hành khách khác, một khách gia đáng kính nào đó định giơ tay ngăn cản nhưng dù sao thì tôi cũng vào được bên trong và đặt gói hàng mang hộ anh bạn lên giá lưới để đồ. Với nụ cười hết sức khả ái tôi tiến đến ngồi chung đi-văng với họ và phát biểu rằng hôm nay thời tiết thật là ấm áp.
Mấy phút trôi qua rồi một quí khách bỗng dưng cựa quậy.
– Ngăn này sao ngạt quá nhỉ – Ông ta nói.
– Có thứ gì nặng mùi thế nhỉ – người ngồi bên nói theo.
Họ bắt đầu khịt mũi đánh hơi và tìm ra ngay nguyên nhân nên cùng lặng lẽ đứng lên bước sang ngăn khác. Sau đó một quí bà phục phịch đứng lên nói rằng nhà tàu thật không biết xấu hổ khi hành hạ một phụ nhân đáng kính, bà ta đi ra và kéo lê theo mình bảy chiếc gói với một chiếc vali. Bốn hành khách còn lại nán thêm một chút cho đến khi người đàn ông ngồi trong góc – trông trang nghiêm và ảm đạm như một viên chức của ngành mai táng – nói rằng có mùi gì làm ông ta nghĩ tới các tử thi, thế là ba người cùng đứng lên đi ra cửa vội vàng đến nỗi cụng trán vào nhau.
Tôi cười nụ với người đàn ông ngăm đen còn lại và nói rằng rõ ràng ngăn tàu này giành riêng cho tôi với ông ta, vị này cũng cười hết sức nhã nhặn đáp lại tôi và nói người đời thường hay thích thổi con nhặng lên thành con ma mút. Tuy nhiên khi tàu chuyển bánh vẻ mặt ông ta cũng chợt như mang nặng khổ đau, nên khi tàu tới ga Kru tôi mời ông ta ra ngoài uống gì đó cho mát họng. Con người can đảm này tán thành và chúng tôi cùng đi tới quầy ba, ở đây chúng tôi phải khua khoắng cây ô và gọi đến mười lăm phút mới có một nhân vật nữ đến gần hỏi chúng tôi muốn uống gì.
– Ngài muốn uống gì? – Tôi quay sang hỏi ông bạn cùng buồng.
– Xin chị cho tôi nửa cu-ron rượu mạnh nguyên chất – Ông ta nói.
Quí ngài này làm một tợp cạn hết cốc rượu rồi lập tức chuồn sang ngăn khác.
Từ Kru trở đi ngăn toa được giành riêng cho tôi vẫy vùng thoải mái dù rằng con tàu chặt như nêm cối. Ở ga tiếp theo hành khách nhìn thấy có toa vắng liền xô nhau chạy đến “Maria, lại đây! Chỗ này còn trống!” – “Lại đây Tôm ơ !” Họ gọi nhau í ới, chen chúc, xô đẩy với đủ loại gói lớn gói nhỏ và người đầu tiên đã mở bật cánh cửa. Anh ta định bước vào nhưng chợt nhủn gối ngã ngửa ra những người đứng sau, vài hành khách nhanh chân đã vào được trong ngăn, tôi chưa kịp chào hỏi thì chẳng ai bảo ai bỗng nhiên họ lục đục kéo nhau chạy xô ra ngoài như bị ma đuổi.
Xuống ga U-xơ-ton tôi mang phó mát về nhà anh bạn. Chị vợ anh ta bước qua ngưỡng cửa phòng khách bỗng dừng chân đánh hơi rồi hỏi:
– Có chuyện gì vậy? Anh đừng dấu tôi cái gì đấy nhé.
Tôi đáp :
– Phó mát đấy mà. Tôm mua nó Li-vớc-pun và nhờ tôi mang về cho chị. Tôi nói thêm với chị ta rằng tôi chẳng liên quan gì đến chuyện này, mong chị ta hiểu rằng tôi chỉ mang hộ chồng chị ta mà thôi. Bà chủ bảo rằng chị ta cũng nghĩ vậy nhưng khi Tôm về đến nhà thì sẽ có chuyện phải quấy với anh ta.
Anh bạn tôi còn nán lại ở Li-vớc-pun thêm ít thời gian nữa so với dự kiến nên ba ngày sau chị vợ anh ta tìm đến chỗ tôi.
Chị chàng chất vấn :
– Tôm nói thế nào với anh về chuyện gói phó mát nhỉ?
Tôi bảo anh ta yêu cầu để nó trong phòng lạnh và đừng để ai đụng vào món khoái khẩu đó của mình.
Chị ta la lên :
– Chả ma nào dám nghĩ đến việc đụng vào cái gói ấy. Tôm có ngửi nó không nhỉ?
Tôi đáp rằng chắc chắn đức phu quân của chị ta đã ngửi (không phải một lần) và đức ngài xem chừng rất mãn nguyện.
– Anh nghĩ thế nào – chi ta thăm d ò- Liệu Tôm có nổi cạu nếu tôi bảo người quét sân đem nó đi chôn ở đâu đó?
Tôi đáp rằng sau một sự kiện như vậy chắc rằng chị ta sẽ chẳng bao giờ được nhìn thấy Tôm nhe cái răng khểnh ra cười nữa.
Chị chàng bỗng nẩy sáng kiến:
– Hay anh mang gói phó mát về bảo quản hộ nhé ? Tôi sẽ bảo họ mang ngay tới chỗ anh.
– Thưa quí nương – tôi đáp lời – Cá nhân tôi cũng khoái mùi phó mát đó và chuyến đi từ Li-vớc –pun về đây cùng với thứ hàng Tôm gửi thật tuyệt vời khoan khoái, tôi sẽ nhớ đến lúc xuống mồ. Nhưng trong cái thế giới chật hẹp này tôi bắt buộc phải để tâm đến những người xung quanh. Quí nương ạ, tôi đang ở cùng dưới một mái nhà với một bà góa và đứa bé mà bà ta gọi là đứa con mồ côi. Bà chủ nhà tôi có đức tính kiên quyết như một vị tướng, nhất là khi mặt bà ta mang màu quả cà chua, khi nghĩ rằng có ai đó chơi trò kém tắm với mẹ con mình. Quả thực tôi không thể chọc giận một nhân vật như vậy đâu, thưa quí nương!
– Thôi vậy – vợ bạn tôi nói – rõ là tôi không còn cách nào khác ngoài việc đưa mấy đứa trẻ đến trọ ở khách sạn chừng nào món phó-mát đó chưa ăn hết. Tôi không thể sống thêm một phút nào trong cùng một ngôi nhà với cái thứ quỉ tha ma bắt đó nữa.
Chị ta đã giữ lời, để ngôi nhà lại nhờ một chị coi hộ trả lương công nhật, người đàn bà này khi được hỏi có thể chịu nổi mùi trong ngôi nhà đó không đã đáp: “Mùi gì cơ, tôi thấy không khí ở đây có mùi thơm nhè nhẹ của dưa bở chín, dễ chịu lắm !!”
Yên tâm vì sẽ không phải lo lắng tới một vụ kiện tụng do sức khỏe bị xâm hại của người mình thuê mướn, mấy mẹ con lập tức chuyển đến ở trong khách sạn.
Tiền thuê phòng khách sạn sẽ bằng mười lăm ghi-nê và anh bạn tôi sau khi làm con tính tổng hợp thấy rằng giá một phun phó – mát sẽ lên tới tám xi-linh và sáu xu. Hắn bảo mặc dù rất thích chén phó-mát nhưng với giá đó thì cơ túi của hắn chắc chắn bị viêm nên đành rứt ruột đem thứ mình khoái khẩu đi thanh lý. Hắn thẳng tay quăng gói phó-mát xuống kênh đào nhưng lại phải lội xuống vớt lên vì đám phu thuyền và xà-lan phản đối dữ dội.Trong một đêm tối trời anh ta lén đem ra quăng ở mộ địa nhưng viên cảnh sát hình sự khu vực đó đã làm om lên và định buộc Tôm tội đào mồ người khác…
Cuối cùng thì anh bạn chịu nhiều khốn khổ của tôi cũng thoát nợ bằng việc đem gói hàng đến một thị trấn ven biển chôn xuống dưới bờ cát. Chẳng bao lâu sau khu thị trấn bỗng dưng trở nên nổi tiếng vì có người phát hiện không khí biển ở đó có khả năng chữa bệnh cực kì. Sau đó hàng mấy năm đám dân chúng bị ho lao thối phổi vẫn còn kéo nghìn nghịt đến thị trấn đó để dưỡng bệnh!!
Vậy nên mặc dù cũng khoái món phó-mát chẳng kém gì chàng Tôm tội nghiệp nhưng tôi vẫn đành phải thở dài chấp nhận việc Jord không cho mang theo là đúng.
– Sẽ không có buổi uống trà vào lúc năm giờ chiều – Jord nói tiếp (nghe câu này mặt tên Hari trở nên rất khó coi) – nhưng vào bảy giờ sẽ là một bữa đại tiệc đủ đầy, no nê, phè phỡn – bữa chiều, bữa tối và khẩu phần trà sẽ dồn vào cùng lúc.
Hari tươi mặt lên ngay. Jord đưa vào danh mục món bánh nướng nhân thịt, nhân mứt, thịt rán, cà chua, quả và rau. Để làm mát cổ họng chúng tôi quyết định mang theo một thứ nước quánh cực kì đặc biệt do Hari tự pha chế, sau sẽ thêm nước vào và có thể coi là nước chanh, một lượng trà khá lớn và một chai bố uýt-sờ-ki để đề phòng trrường hợp có tên nào đó rơi tõm xuống sông hoặc bị lật thuyền (theo ý kiến của Jord)
Sao cái thằng cha Jord này suốt ngày chỉ nghĩ đến việc bị lật thuyền nhỉ? Làm một chuyến du lịch trên sông mà hắn chỉ toàn nói gở, phỉ phui! Tuy nhiên rượu thì chả có tên nào phản đối.
Cả bọn quyết định không mang theo bia lẫn rượu vang. Sẽ là cái lầm to khi mang những thứ đó đi du lịch trên sông. Tợp vào bạn sẽ trở nên nặng đầu, ngái ngủ. Một cốc bia không là vấn đề gì khi sau đó đi bát phố ngó nghiêng mấy cô nàng, nhưng hãy liệu hồn khi mặt trời rọi trên đầu và những việc giành cho trâu bò đang chờ đợi bạn.
Chiều hôm đó ba tên cùng hội chỉ chia tay sau khi danh mục các việc cần làm đã được ghi chép rất chi tiết, đầy đủ và dài dòng văn tự như bản sớ của Táo Quân vào dịp cuối năm. Ngày hôm sau (đó là ngày thứ sáu) bọn này dùng để tập kết các loại binh lương tại một địa điểm, khi chiều đến lại cùng nhau đóng gói. Quần áo xếp vào trong một chiếc hòm da to bự, lương thực thực phẩm và dụng cụ chế biến cho vào hai chiếc giành tổ bố. Chúng tôi đẩy chiếc bàn lại bên cửa sổ để một đống các thứ cần đóng gói ở giữa phòng rồi xúm quanh bàn luận. Tôi nói rằng tôi sẽ chịu trách nhiệm đóng gói.
Tôi thường tự hào về khả năng đóng gói của mình. Gói, mở đồ đạc là một trong những công việc rõ ràng là tôi có kiến thức kha khá so với bất kì ai (chính tôi đôi khi cũng thấy kinh ngạc là trên thế gian này sao lại có nhiều loại công việc cần tri thức đến như vậy). Tôi cho hai tên kia biết điều tôi nghĩ và bảo rằng tốt hơn là bọn chúng cứ để mình tôi làm là hơn. Hari và Jord sẵn sàng nhường cho tôi nhưng với vẻ nghi ngờ ra mặt, tên Jord nằm ngả ra ghế bành châm tẩu thuốc, còn Hari khụy một chân tựa lưng vào bàn cũng phì phèo khói thuốc.
Thực lòng mà nói, hành vi của hai tên này làm tôi thấy phật lòng. Ý của tôi là sẽ chỉ dẫn cách làm và sai phái bọn chúng như các trợ thủ đắc lực, tôi thỉnh thoảng sẽ chỉ phải nhắc nhở “Ê, sao lại thế!”, “Đặt cái đó vào đây cơ mà, thôi để tao..”, “ Xem đây này, dễ như trở bàn tay!” để bọn chúng rồi đây có thể cũng trở nên khéo tay. Vậy nên tôi rất bình với bọn lười thối thây này, tính tôi rất dễ cáu kỉnh khi mình thì làm cật lực còn bọn chúng lại ườn ra như vậy.
Đã có lần tôi ở chung nhà với một tên bạn, thằng cha thực có tài làm tôi phải nổi điên. Hắn có thể duỗi cẳng nằm trên đi-văng dõi mắt theo tôi hàng giờ dù tôi có ở vào góc nào trong căn hộ. Hắn bảo bản tính hắn rất đỗi quan tâm thông cảm khi có người nào đang hối hả bận rộn, theo hắn hình như chỉ có những phút như vậy cuộc sống mới có ý nghĩa, mới không phải là một giấc mộng mị vẩn vơ, chỉ có ngáp với dụi mắt. Cuộc đời khi đó như có cơ hội để lập nên kì tích, nhất là không phải ngày nào hắn cũng có dịp để đươc nhìn một người đang lao động thực sự như tôi.
Nhưng tôi dứt khoát không thuộc vào giống đó. Tôi không thể ngồi yên khoanh tay nhìn người khác làm đổ mồ hôi. Khi đó tôi dứt khoát phải đứng dậy tham gia vào việc chỉ dẫn, ra những mệnh lệnh cần thiết (tay có thể đút trong túi cho đúng phong thái của người chỉ huy), tôi bẩm sinh đã là người hoạt động, không thể làm thế nào khác đi được.
Vậy nên mặc xác bọn chúng tôi cứ im lặng xếp đặt đồ đạc. Việc này hóa ra cần nhiều thời gian hơn tôi nghĩ nhưng dẫu sao tôi cũng kết thúc xong với chiếc hòm da to bự và ngồi lên nó để kéo phéc-ma-tuya.
– Thế còn giày thì sao ? Cậu không định để giày vào trong đó à? – Hari hỏi.
Tôi ngoái lại và phát hiện rằng mình đã quên mất những chiếc giày. Chuyện này làm tên Hari rất khoái. Hắn im như một xác chết trong quan tài, dứt khoát không chịu mở miệng cho đến khi tôi đóng hòm, kéo xong dây khóa. Còn tên Hari thì cười với cái kiểu cười rất ngu của hắn nghĩa là buông ra từng tiếng như con gà cục tác, rất khó chịu khi lọt vào màng nhĩ người khác. Bọn chúng đôi khi làm tôi nổi cạu đến phát điên lên.
Tôi mở khóa hòm, đặt các đôi giày vào. Khi tôi đã đóng trở lại thì chợt thót người với ý nghĩ không biết đã xếp bàn chải răng của tôi vào hay chưa? Không hiểu sao tôi chưa bao giờ vững tin rằng mình đã xếp bàn chải răng vào rồi.
Bàn chải răng là thứ cực kì quan trọng, nó bám theo hành hạ tôi suốt trong các cuộc hành trình. Đêm đang ngủ tôi bỗng nằm mơ quên bàn chải liền bừng tỉnh, đầu mặt ướt đẫm mồ hôi vội lật giường xem nó có ở đấy không rồi hối hả đi tìm. Sáng dậy tôi nhớ ngay đến việc cất nó đến nỗi quên rằng mình chưa đánh răng thế là lại phải mở túi xách bới tìm mà bao giờ nó cũng cố tình chỉ ló mặt ra khi tôi đã dỡ hết tất cả mọi thứ. Khi xếp đồ trở lại nó cũng hay giở trò lẩn tránh nên không ít lần tôi đành phải quấn vào khăn mùi xoa nhét vào túi rồi vội vàng chạy xuống cầu thang ra ga cho kịp giờ.
Tất nhiên lần này không thoát được chuyện phải moi tất cả các thứ trong hòm da ra và cũng tất nhiên không thấy nó đâu cả. Điên người lên, tôi quăng giũ mọi thứ ra sàn thành một đống hỗn độn như trái đất vào thuở sơ khai, đến vài chục lần tôi nhìn thấy cặp bàn chải của Jord và Hari nhưng chiếc của tôi như thể đã đục lỗ chui xuống đất, cuối cùng hóa ra nó nằm im không chút ho he trong chiếc giày tổ bố của tên Hari!
Khi tôi kết thúc việc tìm bàn chải và xếp đồ trở lại Jord hỏi liệu tôi có quên không xếp xà phòng không nhỉ. Tôi đáp là tôi nhổ toẹt vào việc có hay không có cục xà phòng trong hòm da, lấy hết sức sập nắp và kéo khóa nhưng hóa ra tôi đã bỏ túi thuốc lào thuốc lá của mình vào trong đó rồi nên không còn cách nào khác là làm lại từ đầu. Việc xếp mọi thứ vào xắc da kết thúc mỹ mãn vào lúc mười giờ năm phút, bắt đầu chuyển sang việc xếp tải cho hai chiếc làn bự. Hari nói rằng cần khởi hành vào lúc mười hai giờ nên tốt hơn là hắn với Jord đảm nhiệm việc này. Tôi tán thành, ngồi vào ghế nghỉ còn hai tên bắt tay vào việc.
Bọn chúng rất hăm hở, rõ ràng là muốn cho tôi thấy chúng làm ăn hay ho ra sao. Tôi chưa vội phát lời bình luận, chỉ quan sát thôi. Giả thử khi tên Jord phạm tội phải bị treo cổ, thì trên thế gian này Hari sẽ được nhận danh hiệu kẻ đóng gói cẩu thả nhất nên tôi nhìn vào một đống các loại ấm chén, đĩa, thìa, bánh nướng, bánh dẻo… đợi xem thứ nào sẽ phải chịu tội đồ đầu tiên.
Sự việc đã diễn ra. Khởi đầu là chiếc chén bị đánh vỡ nhưng tôi cho là chúng cố ý làm vỡ để gây sự chú ý của tôi khi chúng biểu diễn kĩ năng. Sau đó Hari đặt lọ mứt dâu tây lên cà chua làm nó biến thành cháo bột, hai tên đành phải dùng thìa múc thứ cháo đó ra khỏi làn.
Đến lượt Jord, hắn dẵm lên cục bơ. Tôi vẫn ngậm miệng ăn tiền, chỉ tiến lại gần ngồi ghé xuống mép bàn quan sát. Hành động của tôi làm bọn chúng nổi cạu hơn bất cứ lời chỉ trích nào, tôi cảm thấy được hiệu ứng đó. Chúng bắt đầu cãi vã, dẫm đạp lên đồ đạc, thục đẩy mỗi thứ đi một góc để rồi đến lúc xếp chúng vào làn thì không sao tìm thấy; Chúng xếp bánh nướng xuống đáy làn, bên trên là những thứ nặng nên bánh nướng biến thành bánh bèo.
Hai tên vãi ra nhà toàn bộ gói muối, còn cục bơ thì sao!… Đời tôi chưa bao giờ được thấy hai con người phải bấn bíu với một cục bơ giá có hai xi-ling năm xu như vậy. Sau khi Jord bóc nó ra khỏi đế giày, hai tên cố tọng vào chiếc ấm thiếc. Nó không chịu chui vào mà phần đã lọt vào nhất định không chịu chui ra. Dẫu sao rồi nó cũng không cưỡng được việc phải tách li chiếc ấm thiếc để lên nằm tạm trên ghế. Đợi khi Hari vô tình đặt mông lên chiếc ghế, cục bơ bám chặt vào hắn và hai thằng hậu đậu chạy lồng lên khắp phòng để truy tìm cục bơ ma quái.
– Chúa ơi, tao để nó lên chiếc ghế này mà – Jord nói, chỉ tay vào chiếc ghế trống không.
– Chính tao cũng nhìn thấy mày đặt nó lên đấy một phút trước đây – Hari khẳng định.
Hai bậc thầy về đóng gói sờ mò hết các xó xỉnh rồi tụ vào giữa phòng bấn xúc xích với nhau.
– Tao chưa gặp chuyện lạ lùng như thế này bao gìơ – Jord nói.
– Quái quỉ thật đấy! – Phát biểu của Hari.
Jord vòng ra sau lưng Hari và chợt nhìn thấy cục bơ
– Thế ra nó ở đây suốt từ nãy đến giờ – Hắn cáu kỉnh.
– Đâu cơ ? – Hari quay một trăm tám mươi độ để tìm can phạm.
– Mày hãy đứng im như tượng gỗ để tao xem nào! – Jord vừa thét vừa xoay theo, chỉ sợ nó lại biến đi lần nữa.
Hai quí nhân bóc được cục bơ ra khỏi mông cho vào chiếc bình pha trà.
Tất nhiên là con Mon-mo-ran-xi luôn luôn ở vào trung tâm của những sự kiện nóng bỏng nhất. Thói hiếu thắng và bắng nhắng của con cún này là ở chỗ nó luôn luôn cố gắng đón nhận những bước chân đụng vào lưng càng nhiều càng tốt, và sau đó là những câu chửi thề của các ông chủ hai chân. Nếu như nó tìm được cách có mặt ở những chỗ bất ngờ nhất đối với bọn chúng tôi, làm cho đám hai chân nổi khùng lên, tống đạp nó không tiếc sức thì cu cậu hết sức mãn nguyện, thấy ngày hôm đó thật là đẹp trời, đáng sống!
Nó ngồi chễm chệ trên thứ đồ đến lượt phải xếp vào hòm và chọn vị trí cực kì chính xác, sao cho mỗi lần Jord hoặc Hari quài tay ra sau thì thế nào cũng chạm vào cái mũi ướt của nó. Nó thò cẳng vào mứt, gây chiến với đám đĩa thìa, giả vờ cho những quả chanh là lũ chuột cần phải truy đuổi, nó chui vào trong làn tiêu diệt được ba tên chuột giả tưởng trứơc khi Hari kịp tặng cho một cú tiu bằng đáy chảo.
Tay Hari đồ rằng tôi xùy suỵt xúi giục tên cún mất dạy này. Tôi không hề xùy suỵt, tướng quân Mon-mo-ran-xi xưa nay tác chiến có cần ai thổi kèn hiệu đâu, tất cả những trò tinh quái khốn kiếp của nó đã mang sẵn từ trong máu khi nó còn chưa mở mắt.
Việc đóng gói hoàn thành vào hồi mười hai giờ năm mươi phút. Hari ngồi lên chiếc rương lớn và nói rằng thiệt hại không đáng kể. Jord cũng bình luận rằng nếu thứ gì có thể vỡ thì đã vỡ rồi và cảm thấy yên tâm. Hắn nói thêm rằng bây giờ dù trời sập thì hắn cũng phải ngủ đã. Tôi và Jord cũng cùng quan điểm.
Hari phải ngủ lại chỗ bọn tôi nên cả bọn kéo vào phòng ngủ. Chúng tôi rút thăm và giường tôi phải chứa thêm tên Hari.
– Cậu thích ngủ xoay về hướng nào ?
Tôi đáp việc chính là có cái giường, còn xoay hướng nào mà chả được. Hắn nhận xét rằng quan điểm không được thông minh cho lắm.
Jord bỗng hỏi: – Mấy giờ thì báo thức hở các tướng?
– Bảy giờ – Hari đáp.
Tôi nói :- Không, sáu giờ, vì tớ còn định viết vài bức thư.
Sau một hồi cãi cọ cả bọn thống nhất lấy số trung bình cộng là sáu giờ rưỡi.
– Đánh thức bọn này vào lúc sáu rưỡi nhá, Jord – Chúng tôi bảo hắn.
Jord không hề đáp lời, bọn tôi phát hiện ra rằng hắn đã ngủ từ đời tám hoánh nào rồi. Chúng tôi đành múc sẵn một chậu nước để ở đầu giường để sáng mai có thứ vã lên mặt thằng cha này mới hòng lôi cổ hắn dậy đúng giờ.