66

66

Megan Sixsmith ngồi trên một băng ghế thấp trong Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại Buenas Yerbas, nhìn chăm chú vào một bức họa chân dung khổng lồ vẽ gương mặt một bà già trông như gấu, ngẫm nghĩ về những đường nét xám và đen trên nền vải trắng. Là bức tranh vẽ người duy nhất trong một căn phòng đầy tranh của Pollocks, de Koonings và Miros, bức chân dung gây sửng sốt một cách lặng lẽ. “Hãy nhìn,” bà ta nói, “vào tương lai cô. Khuôn mặt cô một ngày nào đó cũng sẽ giống ta,” Megan nghĩ ngợi. Thời gian đã đan lớp da của bà ta thành những mạng nhện nhăn nheo. Cơ thịt chỗ thì chùng xuống, chỗ lại căng ra, mi mắt sụp xuống. Sợi chuỗi ngọc trai của bà ta hẳn thuộc loại thứ phẩm, còn mái tóc thì rối bù, hậu quả của một buổi chiều đi gom lũ cháu về. Nhưng bà ta thấy những điều mà mình không thấy.

Một cô gái trạc tuổi ngồi xuống cạnh cô. Cô ta cần được tắm rửa, thay quần áo. “Megan Sixsmith?”

Megan liếc nhìn sang bên. “Luisa Rey?”

Cô gật đầu về phía bức tranh chân dung. “Từ trước đến giờ tôi vẫn luôn thích bà ấy. Bố tôi đã gặp bà, ý tôi là ngoài đời thực ấy. Bà là một người sống sót sau thảm họa diệt chủng, đã đến định cư ở BY. Mở một nhà trọ ở Little Lisbon. Bà là chủ nhà của họa sĩ, trước khi ông ta nổi tiếng.”

Lòng can đảm mọc lên ở bất kỳ đâu, Megan Sixsmith nghĩ ngợi, như cỏ dại.

“Joe Napier nói cô mới bay đến đây hôm nay từ Honolulu.”

“Ông ấy có ở đây không?”

“Người ở sau lưng tôi, mặc áo jean, đang giả vờ xem tranh của Warhol đấy. Ông ấy đang canh chừng cho chúng ta. Tôi e rằng nỗi lo sợ của ông ta là rất có căn cứ.”

“Vâng. Tôi cần biết cô chính là người mà cô đang tự nhận.”

“Tôi rất vui khi nghe điều đó. Cô có ý tưởng gì không?” Bí ẩn đầu tiên về Luisa Rey

“Chú tôi thích nhất bộ phim nào của Hitchcock?” Cô gái tự xưng là Luisa nghĩ ngợi một lúc, rồi mỉm cười. “Chúng tôi có nói về Hitchcock trong thang máy – tôi đoán là ông ấy đã viết thư kể cho cô chuyện này – nhưng tôi không nhớ ông có nói tên bộ phim yêu thích hay không. Ông thích đoạn không lời trong Vertigo, khi Cary Grant theo gót người phụ nữ bí ẩn đến bến tàu với cảnh nền là San Francisco. Ông cũng thích xem Charade – tôi biết đấy không phải là phim của Hitchcock, nhưng nó làm ông thấy buồn cười, vì cô gọi Audrey Hepburn là đầu bong bóng.”

Megan ngả người ra ghế. “Phải, bác tôi nhắc đến cô trong một tấm thiệp do ông gửi từ khách sạn sân bay. Nó rất căng thẳng, và đáng lo, đầy những đoạn như ‘Nếu có chuyện gì xảy ra với chú’ – nhưng đó không phải là thư tuyệt mệnh. Không gì có thể khiến bác Rufus làm điều mà cảnh sát nói. Tôi biết chắc như vậy.” Hãy hỏi cô ấy, và cố đừng run rẩy nữa, vì Chúa. “Cô Rey – cô có nghĩ rằng bác tôi đã bị ám sát không?”

Luisa Rey đáp, “Tôi được biết ông đã bị hại. Tôi rất tiếc.”

Sự quả quyết của cô nhà báo xóa tan ngờ vực. Vậy là không phải mình đang bị điên. “Tôi biết về công việc bác ấy làm cho Seaboard và Bộ Quốc phòng. Tình hình là tôi chưa từng xem toàn bộ bản báo cáo, nhưng tôi đã kiểm tra số liệu của nó khi tôi thăm bác Rusfus hồi tháng Sáu. Chúng tôi hiệu đính tài liệu cho nhau.”

“Bộ Quốc phòng à? Ý cô không phải là Bộ Năng lượng sao?”

“Quốc phòng. Một sản phẩm phụ của lò phản ứng HYDRA-Zero chính là uranium dùng để sản xuất vũ khí. Chất lượng tối ưu, nhiều vô kể.” Megan để cho Luisa Rey tiếp thu những ẩn ý mới này. “Cô cần gì?”

“Công trình của ông cô. Bản báo cáo, chỉ có bản báo cáo, mới có thể đánh bại Seaboard trước công chúng và pháp luật. Và, nhân tiện, cứu mạng tôi.”

Tin người lạ này hay đứng dậy bỏ đi?

Một hàng rồng rắn học sinh xúm lại quanh bức chân dung người đàn bà. Megan thì thầm, nhỏ hơn giọng thuyết trình của người phụ trách bảo tàng, “Bác Rufus cất toàn bộ tài liệu học thuật, dữ liệu, ghi chú, bản nháp, vân vân trên Starfish – chiếc du thuyền của bác ấy– để tham khảo về sau. Đến tuần sau chúng tôi mới cử hành tang lễ, việc chứng thực di chúc sẽ chưa bắt đầu cho đến lúc đó, vì vậy nơi cất giấu này chắc là vẫn chưa bị sờ đến. Tôi dám cá là bác cất một bản báo cáo trên thuyền. Người của Seaboard hẳn đã lục soát chiếc thuyền, nhưng bác ấy có nguyên tắc là không nhắc đến Starfish ở nơi làm việc…”

“Bây giờ chiếc Starfish đang neo ở đâu?”

Bản Đồ Mây

Bản Đồ Mây

Score 8
Status: Completed Author:

Bản Đồ Mây, tác phẩm đạt được giá trị về giải trí lẫn trí tuệ

Nếu đại dương được tạo thành từ vô số giọt nước thì nhân loại được cấu thành từ muôn vàn số phận lẻ loi. Sự hóa khí của mỗi giọt nước để kết tinh thành những đám mây cũng giống như tiến trình văn minh của loài người chạm tay tới những giấc mơ.

Lịch sử nhân loại là lịch sử của những giấc mơ tan vỡ để quay lại điểm xuất phát ban đầu, trong vòng tròn của thăng trầm luẩn quẩn.

Với ý tưởng ấy, David Mitchell đã dệt tấm bản đồ xuyên thời gian, xuyên lục địa bằng sáu câu chuyện khác nhau kéo dài hơn 5 thế kỷ tại 3 lục địa, bắt đầu từ Nam Thái Bình Dương thế kỷ XIX cho tới thời hậu tận thế ở Hawaii. Sáu câu chuyện, kết dính bằng một sợi dây mỏng manh gần như không thấy rõ, được sinh ra từ những va chạm tình cờ của các nhân vật đang lạc trong mê cung – cuộc đời của chính họ. Cuốn sách dựa theo kết cấu của bản nhạc mà Frobisher, nhân vật trong câu chuyện thứ hai viết nên: bản Lục tấu Vân Đồ soạn cho sáu loại nhạc cụ biểu diễn một cách chồng lấn: piano, clarinet, allo, sáo, kèn oboe và violin. Sáu thang âm, màu sắc riêng tương ứng với sáu cuộc đời ở các thời đại và địa điểm khác nhau.

Mỗi câu chuyện đều bỏ dở để chuyển sang câu chuyện khác cho đến chuyện cuối cùng được kể trọn vẹn rồi bắt đầu đi ngược lại các câu chuyện trước, để những con người xa lạ “đọc” được nhau. Đó là cách David Mitchell nối sáu câu chuyện thành vòng tròn. Đó chính là nguồn cảm hứng người đời trước truyền lại cho đời sau, dù giấc mơ đời họ có dở dang hay đến đích thì tinh thần họ để lại là vĩnh cửu.

Trong sự đan cài tưởng chừng rối rắm, Mitchell vẫn là tay lái vững vàng, lường trước mọi khả năng cũng như định vị được vai trò của các nhân vật. Tất cả những hình ảnh ông xây dựng đều mang hàm ý cao, từ cái bớt hình ngôi sao chổi trên cơ thể các nhân vật ẩn ý về sự đầu thai cho đến hành động mang tính nhân quả đời trước gieo. Bối cảnh xã hội của câu chuyện sau luôn được xây dựng dựa trên tiềm năng sẵn có của câu chuyện trước. Mỗi nhân vật xuất hiện, từ chính đến phụ, không phải để trang điểm cho bối cảnh. Họ ở đó như một mắt xích mà thiếu họ, mọi thứ sẽ khác đi, sẽ dẫn đến một kết cục rất khác. Họ, chỉ nhỏ bé như những giọt nước trong đại dương, nhưng đại dương cần những giọt nước.

Bản đồ mây còn đặt ra vô số câu hỏi về giá trị sống, về trách nhiệm của mỗi người trong chuỗi tiến hóa nhân loại, về tính thiện và ác, sự phân biệt chủng tộc, ngưỡng tâm linh của người phương Đông, khát vọng về sự khải huyền, về sức mạnh và sự hủy diệt của nền văn minh, về cái giá phải trả khi con người hiến mình cho khoa học.

...

Tác phẩm đã lọt vào shorlist của giải Man Booker năm 2004, đồng thời được Tom Tykwer, Lana Wachowski, Lilly Wachowski chuyển thể thành phim vào năm 2012.

Về tác giả David Mitchell, anh Là một trong những tiểu thuyết gia người Anh được yêu thích nhất hiện nay, với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, khả năng khắc họa tài tình tính cách nhân vật. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Ghostwritten được xuất bản năm 1999, ngay lập tức David Mitchell được xem như tiểu thuyết gia triển vọng và được trao giải Betty Trask. Hai tác phẩm tiếp theo number9dream và Cloud Atlas đều được vào shortlist của giải Man Booker. Cuốn sách có tên Black Swan Green cũng được TIME bình chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm 2006.

_Nguồn giới thiệu: Tạp chí Phái Đẹp ELLE

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset