Chủ nhật, ngày 12 tháng 1 –

Chủ nhật, ngày 12 tháng 1 –

Lòng thôi thúc được bắt đầu ở cái kết bội phản thật mãnh liệt, nhưng người viết nhật ký này sẽ vẫn trung thành với những gì diễn ra. Vào ngày đầu năm, cơn đau đầu bộc phát dữ dội đến nỗi tôi phải uống thuốc của Goose hàng giờ. Tôi không thể đứng tựa vào trục tàu, vì vậy tôi nằm trên giường trong buồng mình, nôn vào một chiếc túi, dù ruột trống rỗng & run rẩy vì cơn sốt nóng lạnh. Bệnh tình của tôi không thể che giấu trước thủy thủ đoàn được nữa & buồng của tôi bị cách ly. Goose đã nói với thuyền trưởng Molyneux rằng ký sinh trùng trong người tôi có thể lây lan, vì vậy ông ta trở thành hình mẫu của lòng can đảm quên mình. (Tội đồng lõa của thuyền trưởng Molyneux & Boerhaave trong hành động bất lương theo sau đó không thể được chứng minh hay phản bác. Boerhaave quả có cầu cho tôi gặp xui xẻo, nhưng tôi buộc phải thừa nhận rằng lão ít có khả năng tham gia vào tội ác mô tả dưới đây.)

Tôi nhớ mình tỉnh lại trong cơn sốt. Goose cách đó chỉ vài centimet. Giọng ông ta hạ thấp thành một lời thì thầm trìu mến, “Ewing thân mến, con sâu của ông đang quằn quại giãy chết & thải ra những giọt độc tố cuối cùng! Ông phải uống thuốc xổ này để tống hết những chất vôi hóa của nó. Thuốc sẽ làm cho ông ngủ, nhưng khi ông tỉnh dậy, con sâu đã hành hạ ông sẽ bị tống ra ngoài! Đoạn kết nỗi thống khổ của ông đang nằm trong tầm tay. Hãy mở miệng ra, lần cuối cùng, từ từ thôi, anh bạn yêu quý… đây, nó hơi đắng & mùi rất khó ngửi, là nhựa thơm đấy, nhưng hãy nuốt đi, vì Tilda & Jackson…”

Một cái ly chạm vào môi tôi & bàn tay Goose đung đưa đầu tôi. Tôi cố gắng cám ơn ông ta. Liều thuốc giải có vị giống như nước đáy tàu & hạnh nhân. Goose nâng đầu tôi lên, & vuốt trái khế của tôi cho đến khi tôi nuốt hết chất lỏng. Thời gian trôi qua, tôi không biết bao lâu. Tiếng răng rắc của xương tôi & gỗ tàu hòa thành một.

Có người gõ cửa. Ánh sáng làm dịu sự tối tăm trong buồng tôi & tôi nghe tiếng Goose từ hành lang. “Vâng, khỏe hơn rất, rất nhiều rồi, ông Green ạ! Đúng, điều tồi tệ nhất đã qua. Tôi đã rất lo, tôi phải thừa nhận như thế, nhưng da dẻ ông Ewing đã hồng hào trở lại & mạch đã mạnh hơn. Chỉ một giờ ư? Tuyệt vời. Không, không, ông ta ngủ rồi. Hãy nói với thuyền trưởng chúng tôi sẽ lên bờ tối nay – nếu ông ấy có thể nhắn người lo liệu chỗ nghỉ, tôi biết ông nhạc phụ của ông Ewing sẽ ghi nhớ lòng tốt này.”

Khuôn mặt Goose hiện ra trở lại trong tầm nhìn của tôi. “Adam?”

Lại một tiếng gõ cửa nữa. Goose thốt ra một câu văng tục & bỏ đi. Tôi không còn cử động đầu được nữa, nhưng nghe tiếng Autua yêu cầu “Tôi gặp ông Ewing!” Goose đuổi hắn đi, nhưng gã thổ dân cứng đầu không chịu bị gạt đi dễ dàng thế. “Không! Ông Green nói ông ấy khỏe hơn! Ông Ewing cứu mạng tôi! Ông ấy là nghĩa vụ của tôi!” Sau đó Goose nói với Autua như sau: – rằng tôi nghĩ Autua là một kẻ mang dịch bệnh & âm mưu lợi dụng bệnh tình hiện tại của tôi để cướp từng chiếc cúc áo trên chiếc áo chẽn của tôi. Rằng tôi đã van nài Goose, ông ta nói như thế, “Đừng để thằng mọi ấy lại gần tôi!” nói thêm rằng tôi đã rất ân hận vì cứu mạng kẻ vô dụng như hắn. Nói xong, Goose đóng sầm cửa & khóa buồng tôi lại.

Tại sao Goose lại nói dối như thế? Tại sao y nhất quyết không để cho ai gặp tôi? Câu trả lời tháo chốt cánh cửa lừa dối & một sự thật kinh hoàng đá chân bước vào. Kỳ thực, tên bác sĩ này là kẻ đầu độc & tôi là con mồi của y. Kể từ khi bắt đầu quá trình “điều trị” cho tôi, tay bác sĩ đã giết tôi từ từ bằng “thuốc” của y.

Con giun trong người tôi? Một điều giả tưởng, do quyền lực phán bệnh của bác sĩ đưa ra! Goose, một bác sĩ? Không, một kẻ lừa đảo lang thang giết người!

Tôi gắng gượng ngồi dậy, nhưng chất lỏng quỷ quyệt mà kẻ thủ ác vừa cho tôi uống đã làm tê liệt tay chân tôi đến nỗi tôi không thể cử động được. Tôi cố gắng gào lên kêu cứu, nhưng phổi tôi không phồng lên được. Tôi nghe tiếng bước chân của Autua trở về hướng cầu thang giữa & cầu nguyện Chúa hãy dẫn đường cho cậu ta quay lại, nhưng ý chí của Người không như thế. Goose trèo lên giường tôi. Y nhìn vào mắt tôi. Nhìn thấy nỗi sợ của tôi, con ác quỷ tháo mặt nạ ra.

“Mày nói gì, hở Ewing? Làm sao tao hiểu được nếu mày nhễu nhão & chảy nước miếng như thế?” Tôi trút ra một tiếng rên yếu ớt. “Để tao đoán xem mày định nói gì với tao nhé – “Ôi, Henry, chúng ta là bạn mà, Henry, sao ông có thể làm điều này với tôi?” (Y nhái giọng khàn khàn hấp hối của tôi.) Tao nói có đúng không?” Goose cắt chiếc chìa khóa từ cổ tôi & vừa tìm cách mở tráp vừa nói. “Các bác sĩ phẫu thuật là một tổ chức anh em thống nhất, Adam ạ. Với bọn tao, con người không phải là những sinh linh thiêng liêng được tạo ra trong hình ảnh của Tạo hóa, không, con người là những miếng thịt nối lại với nhau; thịt có da, lại bệnh hoạn, phải, nhưng vẫn là thịt sẵn sàng cho xiên & que.” Y nhái giọng tôi, rất giống. ““Nhưng tại sao lại là tôi, Henry, chúng ta không phải bạn bè sao?” Ái chà, Adam à, bạn thì cũng làm bằng thịt mà thôi. Chuyện này cực kỳ đơn giản. Tao cần tiền & trong cái tráp của mày, tao nghe nói, là cả một gia sản, vì vậy tao đã giết mày để lấy nó. Bí mật nằm ở đâu? “Nhưng Henry, điều này thật độc ác!” Nhưng Adam à, thế giới này là độc ác mà. Người Maori săn người Moriori, người da trắng săn những anh em họ màu da sậm hơn, bọ chét săn trên chuột, mèo săn chuột, người Cơ đốc săn những kẻ không theo đạo, thuyền phó săn những thủy thủ trẻ, Tử thần săn Sự sống. ‘Kẻ yếu làm mồi cho kẻ mạnh ăn thịt’ mà.”

Goose kiểm tra cảm nhận của mắt tôi & hôn lên môi tôi. “Đến lượt mày bị ăn rồi, Adam yêu dấu à. Mày cũng không cả tin hơn bất kỳ khách hàng nào khác của tao đâu.” Nắp tráp mở ra. Goose đếm các quyển sách bỏ túi của tôi, cười khẩy, tìm thấy viên ngọc lục bảo từ von Weiss & xem xét nó bằng thị kính. Y không ấn tượng lắm. Kẻ thủ ác mở gói tài liệu liên quan đến gia sản Busby ra & xé mở các phong bì dán kín để tìm kiếm ngân phiếu. Tôi nghe y đếm số tiền ít ỏi của tôi. Y gõ lên cái tráp để tìm xem có ngăn bí mật không, nhưng chẳng tìm thấy gì, vì chẳng có gì. Cuối cùng, y cắt đứt cúc áo từ chiếc áo chẽn của tôi.

Goose nói chuyện với tôi trong cơn mê sảng của tôi, như một người nói chuyện với một món đồ vật gây bất mãn. “Thật tình, tao thất vọng lắm. Tao từng biết những thợ lao động Ireland còn có nhiều tiền hơn thế này. Tài sản của mày còn không đủ trả tiền thạch tín & thuốc phiện của tao nữa. Nếu bà Horrox không quyên góp mấy sợi chuỗi ngọc trai đen cho mục đích cao cả của tao thì con ngỗng nghèo tội nghiệp của Goose sẽ bị làm thịt & vào nồi! Thôi, đến giờ chia tay rồi. Mày sẽ chầu trời trong vòng một giờ nữa & với tao, sẽ là một con đường rộng mở.”

Điều tiếp theo tôi còn nhớ là bị chìm xuống nước biển chói lòa đến đau mắt. Có phải Boerhaave đã tìm thấy xác tôi & ném tôi xuống biển để giữ im lặng & tránh các thủ tục phiền hà với lãnh sự Hoa Kỳ không? Đầu óc tôi vẫn còn hoạt động & vẫn có thể lên tiếng cho số phận của mình. Thuận tình để cho chết đuối, hay nỗ lực bơi? Chết đuối là phương án ít rắc rối nhất, vì vậy tôi tìm đến ý nghĩ trước khi chết & dừng lại ở Tilda, vẫy chào chiếc tàu Belle-Hoxie từ bến tàu Silvaplana nhiều tháng trước, bên cạnh là Jackson hét to, “Bố ơi! Nhớ đem về cho con một cái chân kangaroo nhé!”

Ý nghĩ về việc sẽ không bao giờ được gặp họ nữa thật đau đớn, tôi cố bơi & nhận ra mình không phải ở trên biển mà đang cuộn tròn trên khoang tàu, nôn thốc nôn tháo & run lập cập vì sốt, đau, chuột rút, châm chích. Autua đang giữ người tôi (cậu ta đã ép tôi uống hết một xô nước biển để “thải” chất độc ra). Tôi nôn & nôn không ngừng. Boerhaave đẩy đám đông những công nhân bốc dỡ & thủy thủ sang hai bên, càu nhàu, “Tao bảo với mày rồi mà, thằng mọi, ông người Mỹ này không phải là chuyện của mày! & nếu mệnh lệnh trực tiếp không làm mày khuất phục thì…” Dù ánh nắng khiến tôi hoa mắt, nhưng tôi vẫy thấy lão thuyền phó đá một cú thô bạo vào xương sườn Autua & giơ chân định bồi thêm cú nữa. Autua chụp lấy ống chân của lão Hà Lan cáu kỉnh bằng bàn tay rắn chắc trong khi nhẹ nhàng đặt đầu tôi xuống sàn tàu rồi đứng thẳng dậy, vẫn nắm chân của kẻ vừa tấn công mình, quật ngã Boerhaave. Lão người Hà Lan đập đầu xuống sàn tàu, rống lên ầm ĩ. Autua lúc này nắm luôn chân kia & ném lão thuyền phó qua thành tàu như một bao bắp cải.

Liệu các thủy thủ quá sợ sệt, sửng sốt hay vui mừng đến nỗi không gây bất kỳ cản trở nào, tôi sẽ không bao giờ biết được, nhưng Autua đã vác tôi xuống ván cầu ở mạn cảng mà không hề hấn gì. Lý trí của tôi mách bảo rằng Boerhaave không thể ở trên Thiên đường hoặc Autua không thể ở Địa ngục, vì vậy chúng tôi hẳn phải đang ở Honolulu. Từ bến cảng chúng tôi đi vào một con phố lớn náo nhiệt với vô vàn ngôn ngữ, màu da, tín ngưỡng & mùi vị. Tôi bắt gặp một người Tàu ngồi nghỉ dưới một con rồng chạm trổ. Hai người đàn bà với những vệt thuốc vẽ & dáng dấp nói lên nguồn gốc tổ tiên lén nhìn tôi & làm dấu thánh giá. Tôi cố gắng nói với họ rằng mình chưa chết, nhưng họ đã đi rồi. Tôi cảm nhận nhịp tim Autua đập bên người mình, khích lệ tim tôi đập theo. Ba lần cậu ta hỏi những người lạ, “Bác sĩ ở đâu, anh bạn?” Ba lần cậu ta bị phớt lờ (một người trả lời, “Không có thuốc cho bọn da đen hôi hám đâu!”) cho đến khi một lão ngư dân già làu bàu chỉ đường đến một nhà thương. Tôi bất tỉnh một lúc, trước khi nghe thấy từ “Bệnh xá”. Vừa bước vào bầu không khí hôi thối của nơi này, nồng nặc mùi phân & chất thải, đã khiến tôi nôn thốc tháo, cho dù dạ dày trống không như một chiếc găng tay bị vứt. Tiếng vo ve của những chiếc chai màu xanh lơ lửng & một người điên kêu gào về chuyện Jesus nổi trên Biển Sargasso. Autua lầm bầm gì đó với mình bằng thổ ngữ. “Kiên nhẫn thêm nhé ông Ewing – nơi này có mùi chết chóc – tôi đưa ông đến chỗ các ma sơ.”

Làm thế nào chị em của Autua lại đi lạc thật xa khỏi Chatham là một câu đố tôi không thể giải nổi, nhưng tôi tin cậy phó thác mình cho sự chăm sóc của cậu ta. Cậu rời khỏi cái nhà xác đó & chẳng lâu sau các quán rượu, nhà cửa và kho xưởng thưa thớt dần cho đến khi chỉ còn lại đồn điền mía. Tôi biết mình nên hỏi, hay cảnh báo Autua về Goose, nhưng lúc này tôi vẫn chưa thể điều khiển được khả năng nói của mình. Cơn buồn ngủ lắc lư siết lấy tôi rồi nhả ra. Một ngọn đồi hiện ra & tên của nó khuấy lên lớp cặn trong trí nhớ: – Đầu Kim Cương. Con đường ở đây nhấp nhô đá, bụi bặm & nhiều ổ gà, hai bên là những vườn rau xơ xác. Bước chân của Autua chỉ bị ngắt quãng một lần duy nhất, để hứng nước suối mát lạnh bằng tay cho lên môi tôi, đến khi chúng tôi đến một hội truyền giáo Cơ đốc, nằm trên những cánh đồng cuối cùng. Một nữ tu sĩ định xùy chúng tôi đi bằng chổi, nhưng Autua yêu cầu bà ta, bằng tiếng Tây Ban Nha lõm bõm giống như tiếng Anh của cậu, cho người da trắng trên vai cậu một nơi trú ẩn. Cuối cùng, một ma sơ rõ ràng có biết Autua đi đến & thuyết phục những người khác rằng người dã man này đang có nghĩa cử nhân từ chứ không phải làm chuyện xấu xa.

Đến ngày thứ ba tôi đã có thể ngồi dậy, tự ăn, cám ơn các thiên thần hộ mạng & Autua người Moriori tự do cuối cùng trên thế gian này, vì đã cứu mạng tôi. Autua một mực cho rằng nếu tôi không ngăn cản để cậu khỏi bị ném xuống biển vì đi tàu lậu thì cậu đã không thể cứu tôi & vì vậy, theo một nghĩa nào đó, không phải Autua đã cứu mạng tôi mà là chính tôi. Cho dù vậy, chưa có y tá nào chăm sóc tôi ân cần bằng Autua phong trần sương gió cho những nhu cầu lặt vặt của tôi trong mười ngày qua. Sơ Veronique (người cầm chổi) trêu rằng anh bạn tôi nên được tấn phong & chỉ định làm giám đốc bệnh viện.

Không hề nhắc đến Henry Goose (hay kẻ đầu độc tự nhận mang cái tên đó) hay trận tắm nước biển mà Autua dành cho Boerhaave, thuyền trưởng Molyneux gửi vật dụng của tôi đến thông qua đại lý Bedford, chắc chắn lão làm thế vì dè chừng nhạc phụ tôi có thể gây khó dễ cho tiền đồ của lão khi trở thành thương gia làm ăn ở San Francisco. Mặt khác Molyneux giờ đây đang cố phủi mọi dính dấp đến kẻ sát nhân nay đã nổi tiếng, được biết đến với biệt danh “Goose Thạch tín”. Kẻ ác độc chưa bị Cảnh sát Cảng bắt giữ hay, tôi ngờ rằng, ngày đó sẽ không bao giờ đến. Ở xứ sở hỗn loạn không có luật lệ như Honolulu, nơi những chiếc tàu cắm đủ loại cờ & quốc tịch đến & đi mỗi ngày, một người có thể thay tên đổi họ & lai lịch trong khoảng thời gian giữa món khai vị & tráng miệng.

Tôi mệt đến kiệt sức & phải nghỉ ngơi. Hôm nay là sinh nhật ba mươi bốn tuổi của tôi.

Tôi mãi mang ơn Chúa vì mọi ơn huệ của người.

Bản Đồ Mây

Bản Đồ Mây

Score 8
Status: Completed Author:

Bản Đồ Mây, tác phẩm đạt được giá trị về giải trí lẫn trí tuệ

Nếu đại dương được tạo thành từ vô số giọt nước thì nhân loại được cấu thành từ muôn vàn số phận lẻ loi. Sự hóa khí của mỗi giọt nước để kết tinh thành những đám mây cũng giống như tiến trình văn minh của loài người chạm tay tới những giấc mơ.

Lịch sử nhân loại là lịch sử của những giấc mơ tan vỡ để quay lại điểm xuất phát ban đầu, trong vòng tròn của thăng trầm luẩn quẩn.

Với ý tưởng ấy, David Mitchell đã dệt tấm bản đồ xuyên thời gian, xuyên lục địa bằng sáu câu chuyện khác nhau kéo dài hơn 5 thế kỷ tại 3 lục địa, bắt đầu từ Nam Thái Bình Dương thế kỷ XIX cho tới thời hậu tận thế ở Hawaii. Sáu câu chuyện, kết dính bằng một sợi dây mỏng manh gần như không thấy rõ, được sinh ra từ những va chạm tình cờ của các nhân vật đang lạc trong mê cung – cuộc đời của chính họ. Cuốn sách dựa theo kết cấu của bản nhạc mà Frobisher, nhân vật trong câu chuyện thứ hai viết nên: bản Lục tấu Vân Đồ soạn cho sáu loại nhạc cụ biểu diễn một cách chồng lấn: piano, clarinet, allo, sáo, kèn oboe và violin. Sáu thang âm, màu sắc riêng tương ứng với sáu cuộc đời ở các thời đại và địa điểm khác nhau.

Mỗi câu chuyện đều bỏ dở để chuyển sang câu chuyện khác cho đến chuyện cuối cùng được kể trọn vẹn rồi bắt đầu đi ngược lại các câu chuyện trước, để những con người xa lạ “đọc” được nhau. Đó là cách David Mitchell nối sáu câu chuyện thành vòng tròn. Đó chính là nguồn cảm hứng người đời trước truyền lại cho đời sau, dù giấc mơ đời họ có dở dang hay đến đích thì tinh thần họ để lại là vĩnh cửu.

Trong sự đan cài tưởng chừng rối rắm, Mitchell vẫn là tay lái vững vàng, lường trước mọi khả năng cũng như định vị được vai trò của các nhân vật. Tất cả những hình ảnh ông xây dựng đều mang hàm ý cao, từ cái bớt hình ngôi sao chổi trên cơ thể các nhân vật ẩn ý về sự đầu thai cho đến hành động mang tính nhân quả đời trước gieo. Bối cảnh xã hội của câu chuyện sau luôn được xây dựng dựa trên tiềm năng sẵn có của câu chuyện trước. Mỗi nhân vật xuất hiện, từ chính đến phụ, không phải để trang điểm cho bối cảnh. Họ ở đó như một mắt xích mà thiếu họ, mọi thứ sẽ khác đi, sẽ dẫn đến một kết cục rất khác. Họ, chỉ nhỏ bé như những giọt nước trong đại dương, nhưng đại dương cần những giọt nước.

Bản đồ mây còn đặt ra vô số câu hỏi về giá trị sống, về trách nhiệm của mỗi người trong chuỗi tiến hóa nhân loại, về tính thiện và ác, sự phân biệt chủng tộc, ngưỡng tâm linh của người phương Đông, khát vọng về sự khải huyền, về sức mạnh và sự hủy diệt của nền văn minh, về cái giá phải trả khi con người hiến mình cho khoa học.

...

Tác phẩm đã lọt vào shorlist của giải Man Booker năm 2004, đồng thời được Tom Tykwer, Lana Wachowski, Lilly Wachowski chuyển thể thành phim vào năm 2012.

Về tác giả David Mitchell, anh Là một trong những tiểu thuyết gia người Anh được yêu thích nhất hiện nay, với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, khả năng khắc họa tài tình tính cách nhân vật. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Ghostwritten được xuất bản năm 1999, ngay lập tức David Mitchell được xem như tiểu thuyết gia triển vọng và được trao giải Betty Trask. Hai tác phẩm tiếp theo number9dream và Cloud Atlas đều được vào shortlist của giải Man Booker. Cuốn sách có tên Black Swan Green cũng được TIME bình chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm 2006.

_Nguồn giới thiệu: Tạp chí Phái Đẹp ELLE

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset