Lễ mừng Chúa nhật không được cử hành trên tàu Prophetess, sáng nay Henry & tôi quyết định thực hiện một buổi đọc kinh nhỏ trong buồng của ông ta theo phong cách “nhà thờ nhỏ” của giáo đoàn ở Vịnh Đại Dương, “vắt” qua giờ gác tàu buổi sáng & trước buổi trưa để những người anh em gác ở mạn phải & mạn trái tàu có thể tham gia. Thật tiết khi viết ra điều này, chẳng có ai ở cả hai ca đủ can đảm làm phật ý thuyền phó bằng cách tham gia, nhưng chúng tôi sẽ kiên trì nỗ lực không nản chí. Rafael đứng ở cột tàu & cắt ngang lời cầu nguyện của chúng tôi với một tiếng hét run rẩy “Đất liền! Đến rồi i i !”
Chúng tôi kết thúc sớm buổi cầu nguyện & gồng mình trước tầng tầng lớp lớp bụi sóng để ngắm đất liền hiện ra từ đường chân trời nghiêng ngả. “Raiatea đấy,” Roderick bảo chúng tôi, “thuộc quần đảo Society.” (Một lần nữa tàu Prophetess lại cắt qua lộ trình của chiếc Endeavour. Thuyền trưởng Cook đã đích thân đặt tên cho quần đảo này.) Tôi hỏi liệu chúng tôi có được lên bờ không. Roderick khẳng định, “Thuyền trưởng muốn ghé thăm tòa công sứ.” Quần đảo Society hiện ra to dần & sau ba tuần chỉ có màu đại dương xám xịt & xanh chói chang, mắt chúng tôi hân hoan trước những hình thù núi non rêu phong, lấp lánh những thác nước, tô điểm với khu rừng nổi bật. Prophetess tiến qua mực nước mười lăm sải, nhưng nước ở đây trong đến nỗi có thể nhìn thấy những rặng san hô óng ánh ngũ sắc. Tôi đang tính toán với Henry cách nào để thuyết phục được thuyền trưởng Molyneux cho chúng tôi lên bờ, thì ông ta xuất hiện từ phòng trên boong, bộ râu quai nón được tỉa tót cẩn thận & chùm tóc trên trán bôi dầu láng bóng. Không những không phớt lờ chúng tôi như thường lệ, ông ta còn tiến đến chỗ chúng tôi với một nụ cười thân thiện hết cỡ. “Ông Ewing, Bác sĩ Goose, hai ông có muốn tháp tùng thuyền phó & tôi lên đảo sáng nay không? Có một khu định cư của những người theo hội Giám lý trên vịnh ở bờ biển phía bắc, họ đặt tên nó là ‘Nazareth’. Những quý ông có đầu óc tò mò có thể thấy nơi này thú vị đấy.” Henry nhiệt thành nhận lời, & tôi không thể giấu được sự hài lòng, dù tôi nghi ngờ động cơ của lão gấu già này. “Xong,” thuyền trưởng tuyên bố.
Một giờ sau, chiếc Prophetess cập bến Vịnh Bethlehem, một vịnh nhỏ cát đen ẩn mình trước gió mậu dịch nhờ đoạn uốn cong của Mũi Nazareth. Trên bờ là một dải những ngôi nhà lợp rơm thô sơ dựng trên những cây “cột” gần mặt nước, là nơi ở của (tôi đã đoán đúng) những thổ dân đã được rửa tội. Phía trên những ngôi nhà này là độ chục ngôi nhà gỗ được xây dựng bằng những đôi tay văn minh & cao hơn nữa, dưới đỉnh đồi, là một nhà thờ kiêu hãnh được đánh dấu bằng một cây thập giá trắng. Những chiếc xuồng lớn được hạ thủy để chúng tôi sử dụng. Bốn người chèo là Guernsey, Bentnail & một đôi rắn sọc dài. Lão Boerhaave đội mũ & mặc chiếc áo chẽn thích hợp với một cuộc họp mặt ở Manhattan hơn là một chuyến đi vượt sóng. Chúng tôi di chuyển trên biển không gặp sự cố nào ngoài việc bị ướt sũng, nhưng phái viên duy nhất từ những người khai hoang đón tiếp chúng tôi là một chú chó Polynesia thở hồng hộc dưới hoa nhài vàng & hoa loa kèn đỏ. Những túp lều nằm dọc bờ biển & “Phố Chính” quanh co dẫn lên nhà thờ, tất thảy tịnh không một bóng người. “Hai mươi người, hai mươi súng hỏa mai,” lão Boerhaave nói, “và nơi này sẽ thuộc về chúng ta trước giờ ăn tối. Đáng cân nhắc đấy, phải không sếp?” Thuyền trưởng Molyneux bảo thợ chèo chuyền đợi trong mát trong lúc chúng tôi “yết kiến Hoàng đế trong giang sơn của lão”. Sự nghi ngờ của tôi về thái độ lịch sự giả tạo mới của thuyền trưởng được xác nhận khi lão thấy một cửa hàng cửa đóng then cài bèn văng ra một câu thóa mạ. “Có khi nào,” lão người Hà Lan đoán, “bọn mọi đã bỏ đạo & biến các mục sư thành món pudding rồi không?”
Một tiếng chuông vang lên từ tháp chuông nhà thờ & thuyền trưởng vỗ lên trán. “Đ.m. mắt với chả mũi, ta nghĩ gì thế nhỉ? Hôm nay là Chúa nhật mà, tất nhiên lũ lợn này đang kêu eng éc trong cái nhà thờ ọp ẹp ấy rồi!” Chúng tôi chậm rãi đi lên ngọn đồi dốc ngoằn ngoèo, cả nhóm bị chậm lại vì bệnh gút của thuyền trưởng Molyneux. (Tôi cảm thấy mệt hụt hơi khi gắng sức. Nhớ lại sự sung mãn của mình trên đảo Chatham, tôi lo không biết sức khỏe mình đã bị con kí sinh trùng hủy hoại đến mức nào rồi.) Chúng tôi đến nhà nguyện của Nazareth đúng lúc giáo đoàn vừa bước ra.
Thuyền trưởng giở mũ ra, lớn tiếng, “Xin chào! Jonathon Molyneux, thuyền trưởng tàu Prophetess.” Ông ta vung mũ chỉ ra chiếc tàu đậu ngoài vịnh. Các cư dân Nazarene chẳng mấy hào hứng, cánh đàn ông gật đầu với chúng tôi vẻ cảnh giác, các bà vợ & con gái thì giấu mặt sau chiếc quạt. Tiếng gọi lớn “Tìm Linh mục Horrox!” vang vọng khắp hang hốc của nhà thờ khi những giáo dân bản xứ giờ đây đổ xô ra để nhìn những người khách mới đến. Tôi đếm có đến sáu mươi người đàn ông & đàn bà, trong đó một phần ba là người da trắng, diện đồ vía đi lễ (Phải đặt rồi chờ hai tuần mới có, từ cửa hàng quần áo gần nhất). Những người da đen nhìn chúng tôi với vẻ tò mò thuần túy. Phụ nữ bản xứ ăn mặc khá tử tế nhưng một số người bị bệnh bướu cổ. Các cậu bé bảo vệ cho những cô chủ da trắng khỏi ánh nắng thiêu đốt bằng loại ô làm từ lá cọ e thẹn mỉm cười. “Đội quân” hưởng đặc quyền của Polynesia mặc áo choàng vai màu nâu rất đỏm dáng, trên có thêu một cây thập giá trắng, như một dạng đồng phục.
Lúc bấy giờ một người đàn ông ăn mặc đúng kiểu người của nhà thờ lao ra để đáp lại tiếng gọi. “Tôi,” vị giáo trưởng tuyên bố, “là Giles Horrox, linh mục của Vịnh Bethlehem & đại diện của Hiệp hội Truyền giáo London ở Raiatea. Mời các ngài trình bày công việc, xin hãy nói nhanh chóng vắn tắt cho.”
Thuyền trưởng Molyneux lúc này thêm vào lời giới thiệu ông Boerhaave “thuộc Hội Thánh Cải cách Hà Lan,” Bác sĩ Henry Goose, “Bác sĩ của giới quý tộc London & nguyên thuộc Hội truyền giáo Fiji,” & ông Adam Ewing, “Công chứng viên Thư từ & Luật pháp Hoa Kỳ”. (Lúc này tôi đã hiểu rõ trò chơi mờ ám này rồi!) “Tên của Linh mục Horrox & Vịnh Bethlehem được những tín đồ ở Nam Thái Bình Dương chúng tôi nhắc đến với lòng thành kính. Chúng tôi đã hi vọng được mừng lễ Chúa nhật trước bệ thờ của ông,” thuyền trưởng đưa ánh mắt buồn bã nhìn nhà thờ, “nhưng, than ôi, gió ngược chiều đã trì hoãn chuyến đi của chúng tôi. Ít nhất, tôi hi vọng chiếc dĩa quyên tiền của ông vẫn chưa đậy?”
Linh mục Horrox dò xét thuyền trưởng của chúng tôi. “Ông chỉ huy một chiếc tàu ngoan đạo chứ, thưa ông?”
Thuyền trưởng Molyneux liếc mắt đi nơi khác, vờ ra vẻ khiêm tốn. “Không ngoan đạo hay vững vàng bằng Nhà thờ của ông, nhưng đúng vậy, ông Boerhaave & tôi làm tất cả những gì có thể cho những linh hồn thuộc sự chăm sóc của chúng tôi. Đây là một cuộc chiến không ngừng nghỉ, tôi rất tiếc phải nói. Hở ra một chút là cánh thủy thủ lại ngựa quen đường cũ.”
“Ôi, nhưng ông thuyền trưởng ơi,” một quý bà mặc áo cổ ren lên tiếng, “ở Nazareth chúng tôi cũng có người tái phạm đấy! Ông sẽ thông cảm cho sự thận trọng của nhà tôi. Kinh nghiệm dạy chúng tôi rằng hầu hết những chiếc tàu giương cái gọi là cờ Cơ đốc đều chẳng đem lại gì cho chúng tôi ngoài bệnh tật & những gã nghiện ngập. Chúng tôi cứ phải cho là có tội trước khi chứng minh được sự vô tội.”
Thuyền trưởng lại cúi đầu. “Thưa bà, tôi không thể thông cảm bởi đâu có sự xúc phạm nào trong những lời ấy.”
“Thành kiến của bà về ‘Những chiến binh thô lỗ của biển cả’ là dễ hiểu, thưa bà Horrox,” lão Boerhaave tham gia vào cuộc nói chuyện, “nhưng tôi sẽ không chấp nhận một giọt rượu nào trên tàu Prophetess của chúng tôi, bất chấp bọn họ có hò la phản đối! & ô, họ kêu gào đấy, nhưng tôi gào lại, ‘Loại rượu mạnh duy nhất các người cần là chính là Thánh Linh!’ & tôi cứ thế gào lên to hơn & dai hơn họ thôi!”
Trò chơi chữ đã phát huy tác dụng. Linh mục Horrox giới thiệu hai con gái & ba con trai, tất cả đều chào đời ở đây tại Nazareth. (Các bé gái có thể mới trở về từ trường nữ sinh, còn các bé trai thì có làn da rám nắng như thổ dân dưới lớp cổ áo hồ cứng.) Tuy rất kinh tởm khi bị cài bẫy vào trò lừa bịp của thuyền trưởng, nhưng tôi vẫn tò mò muốn biết thêm về chính trị thần quyền của hòn đảo này & cứ để cho tình thế đưa đi đâu thì đi. Không lâu sau đó phái đoàn chúng tôi tiến đến nhà linh mục Horrox, một dinh thự không hề thua kém bất kỳ lãnh sự nào ở miền nam bán cầu. Nó có một phòng tiếp khách rộng, có cửa sổ kính & nội thất bằng gỗ uất kim hương, một nhà vệ sinh, hai túp lều cho người hầu & một phòng ăn nơi lúc này chúng tôi đang được phục vụ rau tươi & thịt lợn mềm. Chiếc bàn có bốn chân, mỗi chân cắm vào một đĩa nước. Bà Horrox giải thích, “Để ngừa kiến, một mối tai ương của Bethlehem. Phải thường xuyên đổ những xác kiến chết chìm, nếu không chúng sẽ xây hẳn một con đường bằng chính chúng ấy.”
Tôi khen ngợi ngôi nhà. “Linh mục Horrox,” bà chủ nhà nói với vẻ tự hào, “từng học nghề mộc tại quận Gloucester. Phần lớn nhà cửa ở Nazareth là do một tay ông ấy xây cả đấy. Đầu óc dân ngoại giáo dễ ấn tượng trước sự phô bày vật liệu mà, ông thấy đấy. Nó nghĩ:‘Những ngôi nhà Cơ đốc mới sạch sẽ làm sao! Túp lều của chúng ta thật bẩn thỉu quá! Ông thần da trắng thật tốt bụng biết bao! Thần thánh của chúng ta thật kém cỏi!’ Bằng cách này, chúng ta lại có thêm một người cải đạo đến với Chúa.”
“Giá mà tôi được sống lại cuộc đời mình lần nữa,” lão Boerhaave nêu ý kiến, không một chút ngượng ngùng, “tôi sẽ chọn con đường vị tha nhân của hội truyền giáo. Thưa Linh mục, chúng tôi nhìn thấy ở đây một giáo phận được thiết lập quy củ có gốc rễ cắm sâu, nhưng làm thế nào ông bắt đầu công việc cải đạo trên một bãi biển u mê nơi không một tín đồ Cơ đốc nào từng đặt chân đến?”
Linh mục Horrox nhìn vượt lên khỏi người đặt câu hỏi đến một giảng đường của tương lai. “Sự bền bỉ, thưa ông, lòng thương & luật lệ. Mười lăm năm trước, sự đón tiếp dành cho chúng tôi trên vịnh này không thân thiện như các ông đã nhận được đâu, thưa ông. Ông có thấy hòn đảo hình cái đe ở phía tây đấy không? Người da đen gọi nó là Borabora, nhưng ‘Sparta’ mới là tên gọi phù hợp hơn, các chiến binh trên đó rất hiếu chiến! Trên bãi biển của Vịnh Bethlehem, chúng tôi đã chiến đấu & một vài người đã ngã xuống. Nếu súng của chúng tôi không thắng trong những trận diễn ra ở tuần đầu tiên thì, Hội truyền giáo Raiatea sẽ vẫn chỉ mãi là một giấc mơ mà thôi. Nhưng ý Chúa đã mong muốn chúng tôi soi sáng ngọn đèn của Người ở đây & giữ cho nó cháy mãi. Sau nửa năm chúng tôi đã có thể đưa vợ con từ Tahiti đến đây. Tôi lấy làm tiếc về những người bản xứ đã thiệt mạng, nhưng khi những thổ dân thấy Chúa bảo vệ cho bộ tộc của họ thì, ô hay, ngay cả những chiến binh Sparta cũng van nài chúng tôi gửi linh mục đến chỗ họ.”
Bà Horrox tiếp lời. “Khi bệnh đậu mùa vung lưỡi hái tử thần, những cư dân Polynesia cần được giúp đỡ, cả tinh thần & vật chất. Lòng thương của chúng tôi lúc đó đã đem những kẻ ngoại đạo đến trước lọ nước thánh. Bây giờ đến lượt Thánh luật giữ cho bầy con chiên chúng tôi khỏi Cám dỗ & đám thủy thủ cướp bóc. Thợ săn cá voi đặc biệt căm ghét chúng tôi vì đã dạy dỗ đàn bà phụ nữ phải giữ đoan trang & tiết hạnh. Những người đàn ông của chúng tôi phải luôn chuẩn bị vũ khí sẵn sàng.”
“Nhưng nếu tàu chìm,” thuyền trưởng của chúng tôi nhận xét, “tôi đảm bảo rằng chính những tay săn cá voi đó sẽ cầu xin Số mệnh đẩy chúng lên những bờ biển nơi các ‘hội truyền giáo bị nguyền rủa’ đã đem sách Phúc âm đến, có phải không?”
Mọi người thảy đều tán thành với vẻ phẫn nộ.
Bà Horrox trả lời thắc mắc của tôi về việc thực thi tôn ti trật tự ở hội truyền giáo đơn độc này. “Hội đồng Nhà thờ – gồm chồng tôi & ba vị cao niên thông thái – thông qua những luật lệ mà chúng tôi cho là cần thiết với sự dẫn dắt từ Chúa. Các Cận vệ của Chúa, là một số người bản xứ chứng tỏ họ là những người phục vụ trung thành của Nhà thờ, thực thi các luật này để đổi lấy tín dụng ở cửa hàng của chồng tôi. Sự thận trọng là tối quan trọng, nếu không giờ này tuần sau…” Bà Horrox nhún vai như thể những bóng ma bội giáo nhảy điệu hula trên bia mộ bà.
Bữa ăn kết thúc, chúng tôi quây quần ở phòng khách, nơi một cậu bé bản xứ phục vụ món trà lạnh trong những chiếc cốc bằng quả bầu khô xinh xắn. Thuyền trưởng Molyneux hỏi, “Thưa linh mục, làm thế nào để đảm bảo ngân quỹ cho một Hội truyền giáo tích cực như của ông?”
Linh mục Horrox cảm nhận gió đổi chiều & chăm chú quan sát thuyền trưởng lần nữa. “Bột hoàng tinh & dầu dừa thanh toán cho mọi khoản chi, thuyền trưởng ạ. Người da đen làm việc tại đồn điền của chúng tôi để trang trải tiền trường lớp, học Kinh thánh & nhà thờ. Tuần sau, nếu thuận ý Chúa, chúng tôi sẽ có một vụ cùi dừa khô bội thu.”
Tôi hỏi các thổ dân có làm việc một cách tự nguyện hay không.
“Tất nhiên!” bà Horrox thốt lên. “Nếu họ lười biếng, họ biết các Cận vệ của Chúa sẽ trừng phạt họ.”
Tôi muốn hỏi về những hình thức xử phạt này, nhưng thuyền trưởng Molyneux chớp lấy cuộc nói chuyện. “Hiệp hội truyền giáo của ông gửi những món hàng dễ hỏng này lên tàu về London qua ngả Mũi Sừng à?”
“Ông đoán đúng rồi đấy, thuyền trưởng.”
“Thưa linh mục Horrox, ông có bao giờ suy nghĩ đến việc vị trí thế tục của hội truyền giáo này – & đồng thời vị trí tâm linh của nó – sẽ như thế nào, nếu ông có một thị trường đáng tin cậy nằm gần quần đảo Society hơn?”
Linh mục bảo cậu bé người hầu rời khỏi phòng. “Tôi đã cân nhắc câu hỏi này từ lâu, nhưng ở đâu mới được? Các thị trường ở xứ Mễ rất nhỏ & dễ gặp trộm cướp, Cape Town là một cuộc hôn nhân giữa sở thuế & người Nam Phi tham lam. Vùng biển phía nam Trung Hoa thì nhan nhản cướp biển tàn độc, vô nhân đạo. Người Hà Lan ở Batavia toàn dân hút máu người. Không hề có ý xúc phạm, thưa ông Boerhaave.”
Thuyền trưởng chỉ sang tôi. “Ông Ewing là cư dân của…” lão dừng lại để vén lên lời đề nghị của mình “… San Francisco, California. Ông sẽ biết đến sự tăng trưởng của nó từ một thị trấn bé nhỏ chỉ có bảy trăm người thành một đô thị với… một phần tư triệu người? Không thống kê dân số nào có thể đếm xuể! Thánh thần, người Chile, dân Mễ, đám Âu châu, người ngoại quốc thuộc đủ màu da đang ồ ạt kéo đến. Một quả trứng, ông Ewing này, xin vui lòng cho chúng tôi biết người ta đang trả bao nhiêu tiền cho một quả trứng ở San Francisco?”
“Một đô la, theo thư bà nhà tôi viết.”
“Một Mỹ kim cho một quả trứng thông thường.” (Nụ cười của thuyền trưởng Molyneux giống như nụ cười của con cá sấu xác ướp mà tôi từng thấy treo trong một cửa hiệu đồ khô ở Louisiana.) “Chắc chắn, điều này khiến một người nhạy bén như ông phải dừng lại để suy nghĩ?”
Bà Horrox không hề ngốc nghếch. “Người ta sẽ sớm khai thác hết vàng ở đó thôi.”
“Vâng, thưa bà, nhưng thành phố khao khát ấy luôn ồn ào, giàu có – cách đây chỉ ba tuần đi bằng thuyền hai buồm như chiếc Prophetess của tôi – nó sẽ trường tồn & vận mệnh của nó đã rõ như pha lê. San Francisco sẽ trở thành London, thành Rotterdam, & thành New York của Thái Bình Dương.”
Chủ nhà của chúng tôi xỉa răng bằng một chiếc xương cá ngừ. “Thưa ông Ewing, ông có tin là hàng hóa trồng ở đồn điền của chúng tôi có thể bán được giá tốt ở thành phố của ông” (thật kỳ lạ khi nghe nhắc đến tên quê hương chúng ta như thế!) “cả vào thời điểm này & sau cơn sốt vàng không?”
Sự trung thực của tôi là lá bài mà thuyền trưởng Molyneux đã lật ra với thủ đoạn quỷ quyệt, nhưng tôi sẽ không nói dối để làm lão phật ý hay để tiếp tay cho lão. “Tôi tin.”
Giles Horrox tháo cổ áo nhà thờ ra. “Ông có muốn đi với tôi đến phòng làm việc không, Jonathon? Tôi khá tự hào về mái trần của căn phòng đấy. Chính tay tôi thiết kế nó để chống chọi lại những cơn bão đáng sợ.”
“Vậy ư, Giles?” thuyền trưởng Molyneux đáp. “Hãy dẫn đường.”
Dù tên tuổi của bác sĩ Henry Goose chưa hề được biết đến ở Nazareth mãi cho đến sáng nay, song một khi các bà vợ của Bethlehem biết được một vị bác sĩ phẫu thuật người Anh nổi tiếng đang ở trên bờ, họ nhớ lại tất tần tật mọi bệnh tật & chen nhau tìm đến nhà linh mục. (Thật lạ lùng khi hiện diện xung quanh là phái đẹp sau quá nhiều ngày bị nhốt chung với đám đàn ông thô lỗ!) Sự hào hiệp khiến ông bạn tôi không thể từ chối bất kỳ một người khách nào, vì vậy phòng tiếp khách của bà Horrox đã được trưng dụng làm phòng khám bệnh & vây lại bằng màn che vải lanh kín đáo. Lão Boerhaave quay trở về tàu Prophetess để chỉ huy việc dọn chỗ chứa thêm hàng trong kho.
Tôi chào nhà Horrox để đi khám phá Vịnh Bethlehem, nhưng bãi biển nóng không chịu nổi & bầy ruồi muỗi quá độc hại buộc tôi phải lần ngược dấu chân mình để trở lại “Phố Chính” về phía nhà thờ, nơi vừa phát ra tiếng thánh ca. Tôi định dự lễ chiều. Không một bóng người, không một con chó, thậm chí không một người bản xứ nào, phá vỡ sự tĩnh lặng của lễ Chúa nhật. Tôi đưa mắt nhìn vào nhà thờ tối lờ mờ, & khói bên trong quá dày khiến tôi nhầm tưởng tòa nhà đang bốc cháy! Tiếng hát đã tắt & thay thế bằng những tràng tiếng ho. Năm mươi tấm lưng đen trùi trũi quay về phía tôi & tôi nhận ra không khí tràn ngập khói, không phải hỏa hoạn hay nhang mà là thuốc lá mới vấn! Vì tất cả những người bên trong đều đang hút ống tẩu.
Một người da trắng đang đứng trên bục giảng, oang oang thuyết giáo bằng giọng lơ lớ, “tiếng Anh giọng Thái Bình Dương”. Sự phô trương tín ngưỡng vô thể thống này không khiến tôi khó chịu cho đến khi nội dung bài “giáo huấn” trở nên rõ ràng. Tôi trích dẫn lại đây: “Và sau đó, là vầy, Thánh Peter, phải rồi, người đó hay là ông Jesus được gọi là Thánh Tẩu Peter Đáng Yêu, người đó đến từ Rome và dạy những người Do Thái mũi khoằm ở Palestine cái gì là cái gì với Già Thuốc Lá, và đó chính là thứ tôi đang dạy các bạn lúc này đây, thấy chưa.” Đến đây, hắn dừng lại để hướng dẫn cho một người. “Không phải, Bé Hắc Ín à, ông làm trật lất rồi, nhìn này, ông nhồi thuốc lá vào phía béo phình ấy, đúng rồi, cái đấy đấy, thấy chưa, ôi, Ch– ơi hắt xì! tôi đã bảo ông bao nhiêu lần rồi, đây là gốc, đây là cái bát! Làm giống như Cá Bùn ngồi cạnh ông đấy, không, để tôi chỉ cho ông!”
Một người da trắng tái nhợt đang gù lưng tựa vào một chiếc tủ (sau đó tôi mới biết trong đó chứa hàng trăm quyển Kinh thánh in ở Polynesia – tôi phải hỏi xin một quyển làm kỷ niệm trước khi lên đường) quan sát buổi lễ ngập khói. Tôi thì thầm giới thiệu mình với anh ta để không làm những kẻ hút thuốc bị mất tập trung khỏi bài thuyết giáo. Chàng thanh niên giới thiệu mình là Wagstaff & giải thích người đứng trên bục giảng là “Hiệu trưởng Trường Hút thuốc Nazareth”.
Tôi thú nhận, tôi không biết có trường như thế.
“Một ý tưởng của Cha Upward, ở Hội truyền giáo Tahiti. Ông phải hiểu, thưa ông, người Polynesia điển hình làm cho ngành công nghiệp này èo uột vì hắn chẳng có lý do gì để dùng tiền. Hắn sẽ nói, “Nếu tôi đói, tôi tự đi hái cái gì đó, hay bắt cái gì đó. Nếu tôi lạnh, tôi bảo đàn bà, ‘Đan dệt đi!’ Những kẻ rảnh rỗi ấy mà & hai ta đều biết Ác quỷ tìm được việc gì cho chúng, ông Ewing ạ. Nhưng bằng cách tạo ra ở những kẻ lười biếng một cơn thèm nhẹ với loại lá vô hại này, chúng ta cho hắn động cơ để kiếm tiền, để hắn có thể mua thuốc lá – không phải rượu nhé, chỉ thuốc lá thôi – từ điểm giao dịch của Hội truyền giáo. Thật là thiên tài, phải không?”
Làm sao tôi có thể không đồng ý?
Ánh sáng tắt dần. Tôi nghe tiếng trẻ con, tiếng chim lạ lùng trên cao, tiếng sóng vỗ vào vịnh biển. Henry đang làu bàu cài khuy măng set. Bà Horrox, người dành cho Henry & tôi sự tiếp đãi nồng hậu tối nay, vừa phái người hầu đến báo tin bữa tối đã sẵn sàng.