Sóng to gió lớn kéo dài do ảnh hưởng của cơn gió hôm qua. Lúc bình minh, sóng biển trông như những rặng núi có đỉnh bằng vàng khi ánh mặt trời quét ngang bên dưới những đám mây màu tía. Tôi dốc hết sức lực để đi đến phòng ăn tập thể, nơi ông Sykes & ông Green đã nhận lời mời của Henry & tôi đến bữa ăn Giáng sinh riêng. Finbar nấu bữa ăn tối ít độc hại hơn thường lệ, một món “hổ lốn” (thịt bò muối, bắp cải, khoai & hành tây) vì thế tôi có thể nuốt gần hết, cho đến sau đó. Món bánh mận chẳng có miếng mận nào. Thuyền trưởng Molyneux gửi lời đến ông Green rằng khẩu phần rượu của cánh thủy thủ được tăng gấp đôi vì thế đến giờ gác buổi chiều các thủy thủ đã liêu xiêu hết cả. Một trận chè chén thả ga thường thấy. Một lượng bia nhẹ trút cho con khỉ cổ bạc bất hạnh, con vật kết thúc màn kịch câm bét nhè của nó bằng cách nhảy xuống biển. Tôi lùi về buồng của Henry & cùng nhau chúng tôi đọc chương hai sách Matthew. Bữa tối gây thiệt hại lớn đến hệ tiêu hóa của tôi & buộc tôi phải đi nhà vệ sinh liên tục.
Trong lần đi cuối, Rafael đang đợi ở ngoài. Tôi xin lỗi vì đã để cậu ấy đợi lâu, nhưng chàng trai nói, không, cậu ấy cố tình chờ được gặp tôi. Cậu thú nhận đang gặp rắc rối, & hỏi tôi câu này: “Chúa đón nhận ta, đúng không, nếu ta hối lỗi… dù cho ta đã làm gì, ngài sẽ không đẩy ta xuống… ông biết đấy…” đến đây chàng trai học việc lúng búng “… địa ngục?”
Tôi thừa nhận điều đó là đúng, đầu óc tôi bận tâm cho hệ tiêu hóa hơn là giáo điều & tôi thốt ra rằng Rafael khó có thể gây ra tội lỗi gì trong mấy năm cuộc đời của cậu. Chiếc đèn bão đung đưa & tôi thấy nỗi khổ đau làm méo mó khuôn mặt người thanh niên can đảm. Lấy làm tiếc vì sự vô ý của mình, tôi khẳng định rằng lòng nhân từ của Đấng Toàn Năng kỳ thực là vô hạn, rằng niềm vui sẽ ở trên thiên đường cho kẻ có tội biết hối cải, hơn chín mươi & chín người không biết ăn năn.Tôi hỏi Rafael muốn thú nhận với tôi như một người bạn, hay một người đồng cảnh ngộ mồ côi, hay một người lạ? Tôi nói với cậu rằng tôi đã nhận thấy gần đây cậu rất suy sụp & trách móc về việc cậu bé vui tươi từng bước lên tàu ở Sydney, hào hứng được nhìn thế giới rộng lớn nay đã thay đổi quá nhiều. Tuy nhiên, trước khi cậu nghĩ ra câu trả lời, một cơn đau bụng tấn công khiến tôi phải quay về phòng vệ sinh. Khi tôi đi ra, Rafael đã không còn ở đó nữa. Tôi không mấy bận tâm. Cậu bé biết có thể tìm tôi ở đâu.
=====
=====
Sau đó –
Bảy tiếng chuông của ca gác sáng vừa điểm. Con giun khiến đầu tôi đau như búa bổ, giống như một quả lắc vừa đập mạnh vào sọ tôi vậy. (Loài kiến có bị đau đầu không? Tôi sẽ vui mừng biến thành con kiến để được giải phóng khỏi nỗi thống khổ này.) Làm thế nào Henry & những người khác ngủ được trong tiếng om sòm chửi bới & văng tục này tôi không biết, nhưng tôi cực kỳ ganh tị với họ.
Tôi nốc một ít thuốc diệt giun, nhưng nó không còn đem lại sự thoải mái nữa. Nó chỉ giúp tôi cảm thấy bình thường một nửa. Sau đó tôi đi một vòng quanh boong tàu, nhưng ngôi sao David đã bị mây dày che phủ. Vài kẻ tỉnh táo hét gào từ trên cột buồm (trong số đó có Autua) & ông Green ở bánh lái trấn an tôi rằng không phải tất cả thủy thủ đoàn đều “quắc cần câu”. Những chiếc chai rỗng lăn từ mạn này qua mạn kia của tàu theo nhịp lắc lư. Tôi giẫm phải Rafael đang nằm cuộn tròn bất động quanh cái tời, bàn tay cong quắp nắm chặt chiếc thùng thiếc trống rỗng. Bộ ngực trần trẻ trung dính chất bẩn tung tóe. Việc cậu ta tìm an ủi trong rượu thay vì một đạo hữu khiến tôi cảm thấy nặng lòng.
“Suy nghĩ tội lỗi khiến ông ngủ không yên à, ông Ewing?” một giọng thô lỗ vang lên bên vai tôi & tôi nhìn xuống. Đó là Boerhaave. Tôi trấn an lão người Hà Lan rằng tuy lương tâm tôi vô cùng yên ổn, tôi ngờ rằng lão ta không thể khẳng định được điều tương tự. Boerhaave nhổ nước bọt xuống biển, mỉm cười. Nếu lão mọc ra sừng & răng nanh tôi cũng sẽ không ngạc nhiên. Lão vác Rafael lên vai, phát vào mông chàng trai học việc & khiêng gánh nặng ngủ li bì như chết này đến khoang phía sau, để giữ an toàn cho cậu bé, tôi tin như vậy.