– Những lá thư từ Zedelghem –

- Những lá thư từ Zedelghem -

Khách sạn Royal, Bruges.
6 – xi – 1931.

Sixsmith,

Ly dị. Mọi chuyện r. phức tạp nhưng Ayrs và tôi đã kết thúc chỉ trong một ngày. Mới sáng hôm qua chúng tôi còn làm việc cho phần hai bản nhạc thiên nga tham vọng của lão. Lão thông báo một cách tiếp cận mới cho tác phẩm của chúng tôi. “Frobisher, hôm nay tôi muốn cậu nghĩ ra vài chủ đề cho phần nhạc Severo của tôi. Một cái gì đó như là đêm trước chiến tranh, cung Mi thứ. Khi nào cậu có được thứ gì đó hợp nhãn rồi, tôi sẽ phát triển tiềm năng của nó lên. Hiểu chưa?”

Tôi đã hiểu. Nhưng không thích điều đó, không một chút nào. Công trình nghiên cứu khoa học thì có đồng tác giả, đúng, và một nhà soạn nhạc có thể hợp tác với một nhạc sĩ trình độ cao để khám phá những biên giới có thể thử nghiệm – như Elgar và W. H. Reed – nhưng một tác phẩm giao hưởng có đồng tác giả? Một ý tưởng r. đáng hoài nghi, tôi nói luôn với V.A. như thế chẳng ngại ngần. Lão tặc lưỡi. “Tôi có nói ‘đồng sáng tác’ đâu, chàng trai. Cậu thu thập những nguyên liệu thô, tôi tinh chế nó đến khi nào thấy phù hợp.” Điều này khó mà khiến tôi an tâm. Lão mắng mỏ: “Tất cả những Vĩ nhân đều để người học việc làm thay. Nếu không thì làm sao một người như Bach có thể đẻ ra hàng đống bài mới mỗi tuần như thế?”

Lần cuối cùng tôi xem lịch thì chúng ta đang ở thế kỷ hai mươi đấy, tôi đáp trả. Khán giả trả tiền để nghe nhà soạn nhạc mà tên tuổi được ghi trên tờ giới thiệu chương trình. Họ không trả tiền cho Vyvyan Ayrs chỉ để được nghe Robert Frobisher. V.A. nổi đóa. “Họ sẽ không ‘tìm nghe’ cậu! Họ sẽ tìm nghe tôi! Cậu không lắng nghe, Frobisher ạ. Cậu làm những việc thô sơ, tôi phối nhạc, tôi sắp xếp, tôiđánh bóng.”

“Công việc thô sơ như ‘Thiên thần xứ Mons’ của tôi, bị cướp trắng trợn cho bản Adagio trong tượng đài vinh quang cuối cùng của Ayrs ư? Muốn mặc cái áo nào cho thói đạo nhạc cũng được, nó vẫn là đạo nhạc mà thôi.” “Đạo nhạc?” Ayrs thấp giọng nhưng các đốt ngón tay trên cây gậy của lão đã trắng bệch. “Lúc trước – khi cậu còn biết ơn sự dạy dỗ của tôi – cậu đã gọi tôi là một trong những nhà soạn nhạc châu Âu đương thời vĩ đại nhất. Đồng nghĩa với toàn thế giới. Tại sao một nghệ sĩ như thế lại đi ‘đạo’ bất kỳ thứ gì từ một kẻ sao chép mà, để tôi nhắc cho cậu nhớ, còn chưa lấy được bằng cử nhân ở học kỳ cuối? Cậu chưa đủ ham muốn đâu, chàng trai ạ, đó là rắc rối của cậu. Cậu là Mendelssohn học đòi làm Mozart thôi.”

Tiền cược vọt lên như lạm phát ở Đức, nhưng tôi tuyệt đối không thể hạ mình trước sức ép: – tôi đào sâu. “Tôi sẽ cho ông biết vì sao ông cần ăn cắp nhạc! Vì ông đã vô sinh với âm nhạc rồi!” Những khoảnh khắc tuyệt nhất trong “Todtenvogel” là của tôi, tôi nói với lão. Tôi không đến Bỉ để làm chân sai vặt cho lão.

Con rồng già thở ra khói. Mười nhịp im lặng quãng 6/8. Lão dụi tắt điếu thuốc. “Thói hờn mát của cậu không đáng phải được xử lý nghiêm túc. Kỳ thực nó đáng khiến cho cậu bị đuổi cổ, nhưng như thế là hành động nông nổi. Thay vì vậy, tôi muốn cậu suy nghĩ. Hãy nghĩ đến danh dự.” Ayrs trải từng từ ra. “Danh dự là tất cả. Danh dự của tôi, trừ thời trai trẻ bồng bột khiến tôi mắc bệnh giang mai, thì còn lâu cậu mới đụng đến được. Còn danh dự của cậu, người bạn bị tước quyền thừa kế, bài bạc, phá sản của tôi, thì đã hết hạn rồi. Hãy rời khỏi Zedelghem bất cứ khi nào cậu muốn. Nhưng hãy nhớ. Ra đi mà không có sự chấp thuận của tôi thì toàn xã hội âm nhạc ở phía tây dãy Urals, phía đông Lisbon, phía bắc Naples và phía nam Helsinki sẽ biết một kẻ vô lại tên là Robert Frobisher ăn nằm với vợ của lão Vyvyan Ayrs mù, người vợ yêu dấu của lão, phải, Mevrouw Crommelynck bị bỏ bùa mê. Bà ta sẽ không phủ nhận chuyện đó. Hãy tưởng tượng xì căng đan này! Sau tất cả những gì Ayrs đã làm cho Frobisher,… ái chà, không ông chủ giàu có nào, không ông chủ nghèo mạt rệp nào, không nhà tổ chức lễ hội nào, không hội đồng quản trị nào, không phụ huynh của Lucy Cừu non Bé bỏng muốn học piano nào, còn muốn dính líu gì đến cậu nữa.”

Vậy là V.A. đã biết. Từ nhiều tuần nay, có thể là nhiều tháng rồi. Bị chặn hết đường. Làm trầm trọng thêm sự bất lực của mình khi gọi Ayrs bằng những cái tên r. thô tục. “Ôi, những lời nịnh hót!” lão mỉa mai. “Nữa đi, nhà soạn nhạc đại tài!” Ngăn mình không nện thi thể mang bệnh giang mai cho chết sớm bằng cây kèn bassoon. Nhưng không ngăn mình rít lên rằng nếu Ayrs làm một ông chồng tốt bằng một nửa khi sắm vai kẻ bóc lột và ăn cắp ý tưởng người khác thì vợ lão có thể sẽ không than phiền nhiều đến thế. Nhắc đến mới nhớ, tôi nói thêm, chiến dịch bôi nhọ danh dự tôi sẽ có độ tin cậy bao nhiêu khi xã hội châu Âu biết được trong cuộc sống riêng tư, Jocasta Crommelynck là loại đàn bà như thế nào?

Chẳng mảy may làm lão suy suyển. “Ngươi ngốc lắm, Frobisher ạ. Vô số cuộc vụng trộm của Jocasta đều rất kín đáo, luôn luôn như thế. Bất kỳ tầng lớp trên nào trong xã hội cũng đầy rẫy những chuyện phi đạo đức, ngươi nghĩ họ còn cách nào khác để giữ quyền lực của mình? Thanh danh là ông vua của thế giới công cộng, không phải riêng tư. Nó bị hạ bệ bởi những hành động công khai. Bị tước quyền thừa kế. Bỏ trốn khỏi những khách sạn nổi tiếng. Không trả được những khoản tiền thiếu của các chủ nợ thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ tìm đến khi hết đường xoay xở. Jocasta đã được ta đồng ý khi bà ta quyến rũ ngươi, đồ ba hoa hợm hĩnh. Ta lệnh cho ngươi phải hoàn tất ‘Todtenvogel’. Ngươi cứ tưởng mình đào hoa lắm, nhưng giữa Jocasta và ta có những tình cảm mà ngươi còn lâu mới hình dung được. Bà ta sẽ bỏ ngươi ngay khi ngươi đe dọa chúng ta. Ngươi sẽ thấy. Không, hãy đi đi và quay lại vào ngày mai khi đã làm xong bài tập. Chúng ta sẽ giả vờ như cơn làm mình làm mẩy của ngươi chưa bao giờ xảy ra.”

Chỉ còn cách phục tùng. Cần phải suy nghĩ.

J. hẳn đã đóng một vai trò lớn trong việc điều tra lai lịch gần đây của tôi. Hendrick không biết tiếng Anh, còn V.A. thì không thể tự tìm kiếm thông tin được. Hẳn là bà ta thích những kẻ mờ ám – lý giải tại sao bà ta lấy Ayrs. E. đứng ở đâu trong toàn bộ chuyện này tôi không thể đoán được, vì hôm qua là thứ Tư nên nàng đi học ở Bruges rồi. Eva không thể biết về chuyện vụng trộm của tôi với mẹ nàng mà vẫn thể hiện những dấu hiệu tình cảm với tôi như vậy. Chắc không?

Buổi chiều dành thời gian đi băng qua những cánh đồng hoang vắng trong tâm trạng phẫn nộ cô đơn. Tránh một trận mưa đá bằng cách nấp ở vòm cổng của một nhà nguyện từng bị dội bom. Nghĩ về E., nghĩ về E., nghĩ về E. Chỉ có hai điều rõ ràng: – treo cổ trên cột cờ Zedelghem nghe có lý hơn là để cho lão chủ nhà sâu bọ của nó ăn cắp tài năng của tôi thêm một ngày nữa; và không bao giờ được gặp lại E. là điều không thể tưởng tượng nổi. “Tất cả đều sẽ kết thúc trong nước mắt, Frobisher à!” Phải, có thể, những lần chạy trốn đều kết thúc trong nước mắt, nhưng tôi yêu nàng, tôi thực sự yêu nàng, như vậy đấy.

Trở về lâu đài trước khi trời tối, ăn món thịt nguội lạnh trong nhà bếp của bà Willem. Hay tin J. và sự mơn trớn chết người của bà ta đang ở Brussels để lo chuyện kinh doanh địa ốc và sẽ không trở về đêm hôm đó. Hendrick nói với tôi rằng V.A. đã lui về phòng từ sớm với chiếc radio kèm lời dặn dò không được quấy rầy. Hoàn hảo. Ngâm mình trong bồn tắm thật lâu rồi viết những dòng gam trầm hòa quyện. Những cuộc khủng hoảng thường khiến tôi trốn chạy vào âm nhạc, nơi không thứ gì có thể làm hại tôi. Tôi cũng lui về phòng sớm, khóa cửa, rồi thu dọn vali.

Sáng nay tỉnh dậy lúc bốn giờ. Bên ngoài sương mù lạnh cóng. Muốn đến chào V.A. lần cuối. Chân chỉ đi tất, tôi nhẹ nhàng bước trên hành lang lạnh lẽo đến cửa phòng Ayrs. Run rẩy, mở nhẹ cửa, cố hết sức để không tạo ra tiếng động dù nhỏ nhất – Hendrick ngủ ở phòng cạnh bên. Đèn đã tắt, nhưng trong ánh sáng vàng cam của lò sưởi tôi thấy Ayrs, nằm duỗi thẳng như xác ướp trong Bảo tàng Anh. Căn phòng bốc mùi thuốc đắng. Rón rén đi đến tủ hồ sơ cạnh giường lão. Các ngăn kéo rất cứng, khi tôi giật mở ra, một lọ ether trên đầu tủ bị ngã – may mà chụp kịp. Khẩu súng Luger phô trương của V.A. nằm lù lù một đống trong lớp da dê, gói lại trong một chiếc áo lưới, cạnh một đĩa đạn. Chúng kêu lanh canh. Hộp sọ mỏng manh của Ayrs cách đấy chỉ vài centimet, nhưng lão không thức dậy. Lão thở khò khè như một chiếc đàn thùng cũ kỹ ọp ẹp. Cảm thấy thôi thúc phải ăn cắp một nắm đạn, nên tôi làm luôn.

Một mạch máu xanh đập trên trái khế của Arys, tôi cưỡng lại cơn thôi thúc mãnh liệt khó lý giải muốn rạch toạc nó ra bằng con dao nhíp của mình. Thật dại dột. Cảnh này không quen thuộc, xa lạ chưa từng trải thì đúng hơn. Giết người, một trải nghiệm đến với rất ít người sống ngoài thời chiến. Giết người có âm sắc gì? Đừng lo, tôi không phải đang viết lời thú tội giết người cho anh đâu. Viết tiếp bản lục tấu trong lúc trốn chui trốn nhủi thật quá rắc rối, mà chấm dứt sự nghiệp với hình ảnh nhảy loi choi khi mặc đồ lót dính đất thì không đáng mặt anh hào cho lắm. Tệ hơn nữa là, giết bố của Eva một cách lạnh lùng có thể dập tắt những tình cảm nàng dành cho tôi. V.A. vẫn ngủ say như chết, chẳng hay biết gì về tất cả những chuyện này, thế là tôi nhét khẩu súng của lão vào túi. Tôi đã ăn cắp đạn rồi, vì thế lấy luôn khẩu Luger cũng là điều hợp lý. Khẩu súng nặng đến khó hiểu. Nó phát ra một nốt trầm trên đùi tôi: nó đã giết người, chắc chắn rồi; cậu bé Luger này đã bước ra giang hồ. Mà tại sao tôi lại lấy nó theo? Không thể nói cho anh biết. Nhưng thử đặt họng súng lên màng tai, anh sẽ nghe thấy cuộc sống theo một cách khác.

Chuyến dừng chân cuối cùng là căn phòng trống của Eva. Nằm lên giường nàng, vuốt ve quần áo nàng, anh biết khi chia tay tôi trở nên sướt mướt thế nào mà. Để lại lá thư ngắn nhất trong đời trên bàn trang điểm của nàng; “Hoàng hậu xứ Bruges. Vọng lâu của nàng, thời gian của nàng.” Trở về phòng. Chia tay trìu mến chiếc giường có bốn cọc, kéo cánh cửa sổ trượt cứng đầu lên rồi thực hiện chuyến bỏ trốn của mình trên mái nhà băng giá. Gọi là chuyến bỏ trốn cũng gần chính xác – một mảnh ngói rơi xuống vỡ vụn trên lối đi trải sỏi bên dưới. Nằm im cảnh giác, chờ nghe tiếng hét và tiếng còi báo động cất lên, nhưng chẳng ai nghe thấy. Xuống đến mặt đất nhờ cây thủy tùng ngoan ngoãn, rồi băng qua khu vườn dược thảo băng giá, sao cho hàng cây cảnh ngăn giữa tôi và dãy phòng người hầu. Vòng qua phía trước nhà rồi đi xuống con đường Tu sĩ. Gió đông thổi thẳng từ thảo nguyên, rất biết ơn chiếc áo da cừu của Arys. Nghe những cây bạch dương bị đau khớp, những con cú muỗi trong cánh rừng hóa thạch, một con chó điên. Chân chạm lên lớp sỏi đá lạnh băng, mạch hai bên thái dương đập mạnh, có chút buồn thương nữa, cho bản thân, cho năm vừa qua. Đi qua khu nhà trọ cũ, lên đường trở về Bruges. Đã hi vọng có thể đi nhờ trên một chiếc xe tải chở sữa hoặc xe ngựa, nhưng chẳng có chiếc nào xung quanh. Những ngôi sao đang tắt dần trên nền trời trước buổi bình minh băng giá. Vài ngọn nến trong nhà gỗ leo lét, nhác thấy một khuôn mặt giận dữ trong lò rèn, nhưng con đường tiến về phương bắc chỉ dành riêng cho một mình tôi.

Tôi đã nghĩ như thế, nhưng có tiếng một chiếc xe đang đuổi theo. Không định lẩn trốn, vì vậy tôi dừng lại để đối mặt với nó. Đèn pha chói mắt, chiếc xe chậm lại, động cơ dừng hẳn, và một giọng nói quen thuộc rít lên với tôi: “Thế mới giờ này mà cậu lẳng lặng đi đâu đấy?”

Phu nhân Dhondt, không phải ai khác, quấn trong một chiếc áo choàng da hải cẩu đen. Có phải nhà Ayrs đã phái bà ta ra đây để bắt giữ tên nô lệ chạy trốn? Lúng túng, tôi nói dối như một thằng ngốc,

“À, có một vụ tai nạn!” Nguyền rủa bản thân vì lời nói dối đường cùng này, vì rõ ràng tôi đang rất sung sức, một mình, đi bộ, tay xách vali và vai đeo túi. “Ôi vận mệnh!” phu nhân Dhondt đáp, với một sự thích thú nghĩa hiệp, điền vào chỗ trống cho tôi. “Bạn hay người nhà?”

Tôi nhìn thấy bè cứu sinh của mình. “Bạn.”

“Bruno đã cảnh báo ông Ayrs đừng mua xe Cowley chính vì lý do này đấy, cậu biết chứ! Không thể tin cậy được khi có chuyện khẩn. Jocasta ngốc nghếch, sao bà ta không gọi điện cho tôi nhỉ? Lên xe đi! Một con ngựa Ả Rập của tôi mới sinh hai con ngựa con tuyệt vời mới một giờ trước và cả ba đều đang khỏe vô cùng! Tôi đang trên đường về nhà nhưng phấn khích quá đến nỗi không thể chợp mắt, vì vậy tôi sẽ chở cậu đến Ostende nếu cậu lỡ chuyến ở Bruges. Tôi rất thích đường phố vào giờ này. Thế bạn cậu bị tai nạn gì? Cài dây an toàn vào đi, Robert. Đừng bao giờ lo sợ điều xấu nhất cho đến khi nào đã có đủ thông tin.”

Đến Bruges lúc trời vừa sáng nhờ công dụng của vài lời nói dối đơn giản. Chọn khách sạn sang trọng ở đối diện nhà thờ St Wenceslas vì bên ngoài trông nó giống như cái giá chặn sách và họ trồng cây linh sam mini trong những chậu hoa. Phòng tôi nhìn xuống một kênh đào yên tĩnh ở phía tây. Giờ tôi đã viết xong lá thư này, sẽ chợp mắt một chút để đợi đến giờ đi đến tháp chuông mà E. có thể ở đó. Nếu không, sẽ lượn lờ ở con hẻm gần trường học của nàng để lén dõi theo nàng. Nếu nàng không xuất hiện ở đó, có thể phải cần đến nhà van de Velde. Nếu danh dự của tôi đã bị hủy hoại, thì sẽ giả dạng thành thợ quét ống khói. Nếu tôi bị phát hiện, sẽ viết một lá thư dài. Nếu lá thư dài bị giữ lại, một lá thư khác sẽ đợi ở bàn trang điểm của nàng. Tôi là người rất kiên quyết.

Thân ái,
R.F.

Tái bút: Cám ơn vì lá thư đầy lo lắng đề ngày 5 tháng 11, nhưng cần gì phải cục tác ầm ĩ như gà mẹ mất con thế? Vâng, tất nhiên là tôi ổn – ngoại trừ hậu quả của những chuyện trắc trở với V.A. như đã kể. Nói thật là tôi còn hơn cả ổn ấy chứ. Tâm trí tôi có thể làm bất kỳ công việc sáng tạo nào mà nó nhận thức được. Biên soạn tác phẩm xuất sắc nhất trong cuộc đời tôi, trong cuộc đời của tất cả mọi người. Có tiền trong ví và có nhiều hơn trong Ngân hàng Bỉ Đệ Nhất. Nhắc mới nhớ. Nếu Otto Jansch không chịu cái giá ba mươi guinea cho hai quyển của Münthe thì bảo hắn lột da mẹ mình rồi lăn bà ta qua muối đi. Để xem lão người Nga trên phố Greek sẽ nhả ra cái gì.

Tái tái bút: Một phát hiện may mắn cuối cùng. Khi còn ở Zedelghem, trong lúc thu dọn hành lý, kiểm tra xem có cái gì lăn xuống dưới giường không. Tìm thấy ½ quyển sách bị xé đôi kê dưới chân giường, do một người khách từng ở trước đấy, để chiếc giường khỏi nghiêng. Tay cảnh sát Phổ, có thể, hoặc là Debussy, ai mà biết được? Chẳng nghĩ gì đến nó mãi cho đến một phút sau, khi đọc được tựa đề trên gáy sách. Rất vất vả, nhưng tôi đã nhấc được chiếc giường lên để lấy ra những trang đóng gáy. Chắc chắn rồi: – “Nhật ký Thái Bình Dương của Adam Ewing.” Từ trang bị ngắt quãng đến hết quyển 1. Anh có tin nổi không? Nhét ½ quyển sách vào vali. Sẽ đọc xong sớm thôi. Ewing vui vẻ sắp chết không bao giờ thấy những hình thù không thể mô tả chờ đợi ở góc rẽ của lịch sử.

Bản Đồ Mây

Bản Đồ Mây

Score 8
Status: Completed Author:

Bản Đồ Mây, tác phẩm đạt được giá trị về giải trí lẫn trí tuệ

Nếu đại dương được tạo thành từ vô số giọt nước thì nhân loại được cấu thành từ muôn vàn số phận lẻ loi. Sự hóa khí của mỗi giọt nước để kết tinh thành những đám mây cũng giống như tiến trình văn minh của loài người chạm tay tới những giấc mơ.

Lịch sử nhân loại là lịch sử của những giấc mơ tan vỡ để quay lại điểm xuất phát ban đầu, trong vòng tròn của thăng trầm luẩn quẩn.

Với ý tưởng ấy, David Mitchell đã dệt tấm bản đồ xuyên thời gian, xuyên lục địa bằng sáu câu chuyện khác nhau kéo dài hơn 5 thế kỷ tại 3 lục địa, bắt đầu từ Nam Thái Bình Dương thế kỷ XIX cho tới thời hậu tận thế ở Hawaii. Sáu câu chuyện, kết dính bằng một sợi dây mỏng manh gần như không thấy rõ, được sinh ra từ những va chạm tình cờ của các nhân vật đang lạc trong mê cung – cuộc đời của chính họ. Cuốn sách dựa theo kết cấu của bản nhạc mà Frobisher, nhân vật trong câu chuyện thứ hai viết nên: bản Lục tấu Vân Đồ soạn cho sáu loại nhạc cụ biểu diễn một cách chồng lấn: piano, clarinet, allo, sáo, kèn oboe và violin. Sáu thang âm, màu sắc riêng tương ứng với sáu cuộc đời ở các thời đại và địa điểm khác nhau.

Mỗi câu chuyện đều bỏ dở để chuyển sang câu chuyện khác cho đến chuyện cuối cùng được kể trọn vẹn rồi bắt đầu đi ngược lại các câu chuyện trước, để những con người xa lạ “đọc” được nhau. Đó là cách David Mitchell nối sáu câu chuyện thành vòng tròn. Đó chính là nguồn cảm hứng người đời trước truyền lại cho đời sau, dù giấc mơ đời họ có dở dang hay đến đích thì tinh thần họ để lại là vĩnh cửu.

Trong sự đan cài tưởng chừng rối rắm, Mitchell vẫn là tay lái vững vàng, lường trước mọi khả năng cũng như định vị được vai trò của các nhân vật. Tất cả những hình ảnh ông xây dựng đều mang hàm ý cao, từ cái bớt hình ngôi sao chổi trên cơ thể các nhân vật ẩn ý về sự đầu thai cho đến hành động mang tính nhân quả đời trước gieo. Bối cảnh xã hội của câu chuyện sau luôn được xây dựng dựa trên tiềm năng sẵn có của câu chuyện trước. Mỗi nhân vật xuất hiện, từ chính đến phụ, không phải để trang điểm cho bối cảnh. Họ ở đó như một mắt xích mà thiếu họ, mọi thứ sẽ khác đi, sẽ dẫn đến một kết cục rất khác. Họ, chỉ nhỏ bé như những giọt nước trong đại dương, nhưng đại dương cần những giọt nước.

Bản đồ mây còn đặt ra vô số câu hỏi về giá trị sống, về trách nhiệm của mỗi người trong chuỗi tiến hóa nhân loại, về tính thiện và ác, sự phân biệt chủng tộc, ngưỡng tâm linh của người phương Đông, khát vọng về sự khải huyền, về sức mạnh và sự hủy diệt của nền văn minh, về cái giá phải trả khi con người hiến mình cho khoa học.

...

Tác phẩm đã lọt vào shorlist của giải Man Booker năm 2004, đồng thời được Tom Tykwer, Lana Wachowski, Lilly Wachowski chuyển thể thành phim vào năm 2012.

Về tác giả David Mitchell, anh Là một trong những tiểu thuyết gia người Anh được yêu thích nhất hiện nay, với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, khả năng khắc họa tài tình tính cách nhân vật. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Ghostwritten được xuất bản năm 1999, ngay lập tức David Mitchell được xem như tiểu thuyết gia triển vọng và được trao giải Betty Trask. Hai tác phẩm tiếp theo number9dream và Cloud Atlas đều được vào shortlist của giải Man Booker. Cuốn sách có tên Black Swan Green cũng được TIME bình chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm 2006.

_Nguồn giới thiệu: Tạp chí Phái Đẹp ELLE

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset