Lâu đài Zedelghem,
14 – vii – 1931.
Sixsmith,
Mọi ngợi ca dành cho Rufus Thiêng Liêng, Vị Thánh Bảo Hộ của Những Nhạc Sĩ Cơ Hàn, Ngợi ca Tối cao, Amen. Lệnh chuyển tiền của anh đã đến nơi an toàn sáng nay – tôi kể với chủ nhà anh là ông chú lẩm cẩm lỡ quên ngày sinh nhật tôi. Phu nhân Crommelynck xác nhận rằng một ngân hàng ở Bruges sẽ đổi tiền. Sẽ viết một bài thánh ca ngắn vinh danh anh và trả tiền lại cho anh ngay khi có thể. Có khi sớm hơn anh tưởng đấy. Băng giá về triển vọng cuộc đời tôi đang tan chảy. Sau nỗ lực hợp tác đầy nhục nhã với Ayrs lần đầu, tôi quay về phòng trong tâm trạng khốn khổ thảm hại. Chiều hôm đó tôi đã viết thư than nghèo kể khổ với anh – nhân tiện, hãy đốt lá thư ấy đi, nếu anh chưa làm vậy – cảm thấy r. lo lắng về tương lai. Đội mưa cuốc bộ đến bưu điện của làng trong chiếc áo choàng và ủng cao su, tự hỏi, thực sự, mình sẽ ở đâu giờ này tháng sau. Bà Willems gõ cồng báo ăn tối không lâu sau khi tôi quay về, nhưng khi tôi đi xuống phòng ăn, Ayrs đã đợi sẵn, một mình. “Là cậu đấy à, Frobisher?” lão hỏi, với giọng cộc cằn quen thuộc ở những lão già đang cố tỏ vẻ nhẹ nhàng. “A, Frobisher, thật mừng vì chúng ta có thể nói chuyện riêng với nhau. Nghe đây, tôi đã khó khăn với cậu sáng nay. Bệnh tình của tôi khiến tôi trở nên… thẳng tính hơn thường lệ, và đôi khi thật không phải. Tôi xin lỗi. Hãy cho lão già khó tính này một cơ hội khác vào ngày mai, cậu nghĩ thế nào?”
Phải chăng vợ lão đã nói với lão bà ta nhận thấy tôi trong tình cảnh thế nào? Phải chăng Lucille đã nhắc đến chiếc vali soạn được một nửa của tôi? Tôi chờ đến khi chắc chắn giọng của mình không còn mùi nhẹ nhõm nữa, rồi nói với lão, một cách hào hiệp, rằng chẳng có gì sai khi lão nói lên quan điểm của mình.
“Tôi đã quá cực đoan về lời đề nghị của cậu, Frobisher ạ. Thật chẳng dễ dàng gì để trích ra âm nhạc từ cái đầu của tôi, nhưng sự hợp tác của chúng ta có cơ hội tốt chẳng kém bất kì thứ gì. Tố chất nhạc sĩ và tính cách của cậu dường như vượt quá những gì mà công việc này yêu cầu. Bà nhà nói với tôi rằng cậu còn thử sáng tác nữa phải không? Rõ ràng, âm nhạc là khí oxy cho cả hai chúng ta. Với một quyết tâm đúng đắn, chúng ta sẽ xoay xở cùng nhau cho đến khi tìm được phương pháp phù hợp.” Đúng lúc này, phu nhân Crommelynck gõ cửa, hé nhìn vào, cảm nhận không khí của căn phòng trong nháy mắt, theo kiểu mà một số phụ nữ thường làm, rồi hỏi có phải sắp có tiệc uống mừng hay không. Ayrs quay sang tôi. “Điều đó còn tùy thuộc vào Frobisher đây. Cậu nói sao? Cậu sẽ ở lại đây trong vài tuần, với tương lai kéo dài thành vài tháng, nếu mọi việc tốt đẹp chứ? Có thể lâu hơn, ai mà biết được? Nhưng cậu phải chấp nhận một khoản lương nhỏ.”
Để cho sự nhẹ nhõm của tôi thể hiện ra thành sự mãn nguyện, nói với ông ta rằng tôi rất lấy làm vinh hạnh, và chấp nhận ngay lời đề nghị về lương.
“Thế thì, Jocasta, hãy bảo bà Willems tìm chai Pinot Roughe 1908 nào!” Chúng tôi nâng ly vì Thần rượu Bacchus và Nàng thơ, rồi uống cạn thứ rượu vang đậm đặc như máu kỳ lân. Hầm rượu của Ayrs, có đâu chừng sáu trăm chai, là một trong những hầm rượu hoàn mỹ nhất ở Bỉ, và xứng đáng để nói lạc đề về nó một chút. Nó đã sống sót qua chiến tranh mà không rơi vào tay các tướng Phổ dùng Zedelghem làm chốt chỉ huy, tất cả là nhờ một bức tường giả mà ông thân sinh của Hendrick đã xây trên lối vào trước khi cả gia đình bỏ trốn đến Gothenburg. Thư viện, và nhiều gia sản cồng kềnh khác, cũng đã trải qua cuộc chiến ở dưới chiếc hầm ấy (trước đây là hầm mộ của một tu viện), được niêm phong trong nhiều thùng. Người Phổ lục soát tòa nhà trước khi đình chiến, nhưng không hề phát hiện ra hầm rượu.
Một thói quen thường nhật đang dần hình thành. Trước chín giờ mỗi buổi sáng, Ayrs và tôi đã có mặt trong phòng âm nhạc, những hôm mà các chứng bệnh và cơn đau cho phép lão đến. Tôi ngồi bên đàn dương cầm, Ayrs trên trường kỷ, hút thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ rẻ tiền, và chúng tôi chọn một trong ba cách làm việc. “Duyệt lại” – lão bảo tôi chơi lại tác phẩm của buổi sáng hôm trước. Tôi ngâm, hát hoặc đàn, tùy vào loại nhạc cụ, còn Ayrs điều chỉnh bản ký âm. “Tái tạo” là khi tôi phải xem lại những bản ký âm, sổ ghi chép và các bản soạn nhạc cũ, một số được viết trước khi tôi ra đời, để xác định một đoạn văn hoặc đoạn độc tấu mà Ayrs nhớ mang máng và muốn làm sống lại. “Sáng tác” là cách đòi hỏi nhiều công sức nhất. Tôi ngồi bên đàn dương cầm và cố gắng đuổi kịp dòng chảy của “Móc đôi, Si-Sol; nốt tròn, La giáng – giữ bốn nhịp, không, sáu – đan móc! Fa thăng – rồi… Si! Tar-tatty-tatty-tarrr!” (Ít ra bây giờ sư phụ đã chịu gọi tên các nốt nhạc rồi.) Hoặc, nếu lão cảm thấy bay bổng hơn, thì có thể là, “Thế này nhé, Frobisher, kèn clarinet là ái thiếp, đàn viola là cây thủy tùng ở nghĩa trang, đàn clavico là mặt trăng, thế… hãy để gió đông thổi hợp âm La thứ đó, từ trường canh thứ 16 trở đi.”
Như một người hầu tận tụy (dù anh có thể đảm bảo, tôi giỏi hơn mong đợi), công việc của tôi đạt được 9/10 kỳ vọng. Đôi khi Ayrs lại bảo tôi đưa ra một nhận định nghệ thuật, chẳng hạn như, “Cậu nghĩ hợp âm này có được không, Frobisher?” hoặc “Đoạn này có hài hòa với tổng thể không?” Nếu tôi nói không, Ayrs hỏi tôi đề nghị thay thế bằng cái gì, và một hoặc hai lần lão thậm chí sử dụng những thay đổi của tôi. Khá tỉnh táo. Hậu thế sẽ nghiên cứu thứ âm nhạc này.
Đến một giờ trưa, Ayrs đã đuối sức. Hendrick đưa lão xuống phòng ăn, nơi phu nhân Crommelynck ăn trưa cùng chúng tôi, và E. đáng sợ, nếu nàng về nhà vào dịp cuối tuần hoặc giữa kỳ nghỉ lễ. Ayrs ngủ trưa trong cái nóng buổi chiều. Tôi tiếp tục lục lọi thư viện để tìm kiếm những thứ hay ho, sáng tác trong phòng âm nhạc, đọc bản thảo trong vườn (huệ tây, vương miện hoàng đế, mãn đình hồng, tất cả nở bung rực rỡ), len lỏi qua những con ngõ nhỏ ở Neerbeke bằng xe đạp, hay rong chơi trên những cánh đồng. Giờ đây tôi là bạn thân với những chú chó trong làng. Chúng phi theo sau tôi như lũ chuột chạy theo anh chàng thổi sáo Pied Piper. Người địa phương chào đáp lại khi tôi nói “Goede morgen” (Chào buổi sáng) và “Goede middag” (Chào buổi chiều) – giờ đây ai cũng biết tôi là khách ở dài hạn tại “kasteel” (lâu đài). Sau buổi ăn tối, ba người chúng tôi có thể nghe đài nếu có một chương trình phát sóng vào giờ đó, còn không thì nghe những đoạn ghi âm bằng máy hát (hiệu His Master’s Voice, đặt trong hộp bằng gỗ sồi), thường là những tác phẩm lớn của Ayrs do Sir Thomas Beecham chỉ huy dàn nhạc. Khi có khách, chúng tôi sẽ trò chuyện hoặc thưởng thức nhạc trong căn phòng nhỏ. Những đêm còn lại, Ayrs thích tôi đọc thơ cho lão nghe, đặc biệt là của Keats[16], nhà thơ lão yêu thích.
Lão thì thầm những câu thơ trong lúc tôi ngâm, như giọng của lão đang dựa vào giọng của tôi. Vào giờ ăn sáng, lão nhờ tôi đọc báo Thời đại. Dù Ayrs đã già nua ốm yếu, mắt mũi kèm nhèm, nhưng lão có thể tham gia vào những buổi tranh luận xã hội ở trường đại học, dù tôi nhận thấy lão hiếm khi đưa ra được giải pháp nào cho những chế độ mà lão chê bai. “Tư tưởng tự do à? Sự khúm núm của nhà giàu thì có!”; “Chủ nghĩa xã hội ư? Em trai của chế độ chuyên quyền sắp đổ nát mà nó muốn kế thừa”; “Người bảo thủ? Những kẻ nói dối liều mạng, lấy học thuyết tư tưởng tự do làm trò dối lừa hay ho nhất.” Thế lão ta muốn hình thái nhà nước nào? “Chẳng có cái nào cả! Nhà nước càng tổ chức tốt bao nhiêu thì nhân dân càng đần độn bấy nhiêu.”
Dù rất nóng nảy, nhưng Ayrs là một trong số hiếm hoi nhân vật ở châu Âu mà tôi muốn có ảnh hưởng đến sự sáng tạo của mình. Về mặt âm nhạc, lão là một Janus hai đầu[17]. Một Ayrs ngoái nhìn cơn hấp hối của Chủ nghĩa Lãng mạn, Ayrs còn lại thì nhìn tới tương lai. Đây là Ayrs mà tôi nhìn theo. Quan sát cách lão dùng đối âm và phối các sắc điệu với nhau đã định hình lại ngôn ngữ âm nhạc của tôi theo những cách thật kỳ diệu. Khoảng thời gian ngắn ngủi ở Zedelghem đã dạy cho tôi nhiều hơn ba năm trên ngai vàng của Mackerras Khốn kiếp cùng Ban nhạc Thủ dâm Vui vẻ của lão.
Bằng hữu của Ayrs và phu nhân Crommelynck thường xuyên đến thăm. Trung bình một tuần chúng tôi có thể đón khách đến hai hoặc ba đêm. Những nghệ sĩ độc tấu trở về từ Brussels, Berlin, Amsterdam hoặc những nơi xa hơn; người quen từ thuở thiếu thời ở Florida hay Paris; và vợ chồng người bạn thâm niên Morty Dhondt. Dhondt sở hữu xưởng kim cương ở cả Bruges lẫn Antwerp, nói chuyện bằng ngôn ngữ khó hiểu nhưng biết nhiều thứ tiếng, ưa nghĩ ra nhiều câu chơi chữ phức tạp, đa ngôn ngữ, cần phải giải thích rất dài dòng, tài trợ cho các lễ hội và chơi những trận cầu siêu hình với Ayrs. Phu nhân Dhondt giống như phu nhân Crommelynck nhưng hơn gấp mười lần – kỳ thực, đây là một sinh vật đáng sợ đứng đầu Hội Cưỡi Ngựa Bỉ, tự lái chiếc Dhondt Bugatti, và nâng niu một chú chó Bắc Kinh nùi bông thoa phấn tên là Wei-wei. Anh chắc chắn sẽ còn gặp lại bà ta trong những lá thư sau. Bà con họ hàng không có nhiều: Ayrs là con một, còn gia tộc Crommelynck một thời lừng lẫy chứng tỏ biệt tài chọn sai khi chọn phe mà ủng hộ vào những thời khắc quyết định trong suốt cuộc chiến. Khi Ayrs và vợ quay về từ Scandinavia, những người trong họ tộc không chết trong lúc làm nhiệm vụ thì phần lớn đều trở nên bần cùng và ốm đau. Một số khác thì qua đời sau khi bỏ trốn ra nước ngoài. Bà giáo cũ của phu nhân Crommelynck và một số cô dì già yếu khác thỉnh thoảng có ghé thăm, nhưng họ thường ngồi lặng lẽ trong góc nhà như những giá móc nón cũ kỹ.
Tuần trước nhà chỉ huy dàn nhạc Tadeusz Augustowski, một vệ thần vĩ đại của Ayrs ở quê hương Cracow, bất ngờ ghé qua vào Ngày thứ hai của cơn đau nửa đầu. Phu nhân Crommelynck không có ở nhà, thế là bà Willems tìm đến tôi đầy căng thẳng, năn nỉ tôi tiếp đón vị khách lừng danh. Tôi không thể gây thất vọng. Tiếng Pháp của Augustowski cũng khá cỡ tiếng Pháp của tôi, và chúng tôi đã dành ra cả buổi chiều câu cá và tranh luận về những người sáng tác theo hệ mười hai âm. Ông ta nghĩ họ là những kẻ bất tài, còn tôi thì không nghĩ vậy. Ông ta kể cho tôi nghe những câu chuyện chiến tranh bằng nhạc, và một truyện cười tục không thể tả có kèm theo cử chỉ bằng tay, vì vậy phải đợi đến khi chúng ta gặp lại nhau tôi mới kể anh nghe được. Tôi câu được một con cá hồi dài ba tấc còn Augustowski thì vớ được một con cá đác khổng lồ. Chúng tôi trở về nhà lúc trời chạng vạng, Ayrs đã thức và ông bạn người Ba Lan nói với lão rằng lão thật may mắn khi có tôi làm việc cùng. Ayrs làu bàu một câu gì đó nghe như, “Phải rồi.” Quả là lời khen rộng rãi đấy, Ayrs. Bà Willems thì không hào hứng lắm với chiến lợi phẩm có vảy của chúng tôi, nhưng vẫn mổ ruột chúng, nấu với muối và bơ, rồi chúng tan chảy dưới chiếc nĩa dùng để ăn cá. Augustowski đưa danh thiếp cho tôi khi ra đi vào sáng hôm sau. Ông ta có một căn hộ ở Langham Court mỗi khi đến London, và mời tôi đến ở cùng vào mùa lễ hội năm sau. Ò ó o o o!
Lâu đài Zedelghem không phải là mê cung của dòng họ Usher[18] như thoạt nhìn. Đúng là cánh phía tây, lúc nào cũng kín như bưng và phủ đầy bụi, tương phản với vẻ hiện đại của phía đông, đang ở trong tình trạng thê thảm, và chẳng bao lâu nữa sẽ cần được tháo dỡ mà thôi. Đã khám phá các phòng trong đó vào một buổi chiều ẩm ướt. Ẩm thấp thảm hại; vôi vữa rơi rồi vương lủng lẳng trong mạng nhện; phân chuột, phân dơi chất thành đống trên những phiến đá mòn; những mặt huy hiệu đắp thạch cao phía trên các lò sưởi đóng bụi thời gian. Bên ngoài cũng tương tự – những bức tường gạch cần được trét vữa, mái ngói thủng lỗ chỗ, gạch viền rơi xuống đất chất thành đống, nước mưa chảy thành dòng giữa lớp sa thạch xửa xưa. Gia tộc Crommelynck làm ăn phát đạt nhờ đầu tư ở Congo, nhưng không một người con trai nào còn sống sau chiến tranh, và những lính Đức “ở trọ” tại Zedelghem đã móc ruột có chọn lọc bất cứ món gì đáng hôi của.
Ngược lại, cánh phía đông là một tổ ấm nhỏ tiện nghi, dù xà nhà bằng gỗ kêu kẽo kẹt như con tàu mỗi khi có gió lớn. Có một hệ thống sưởi trung tâm mưa nắng thất thường và đường điện thô sơ giật bất kỳ ai chạm vào các công tắc điện. Ông thân sinh của phu nhân Crommelynck thật biết nhìn xa trông rộng khi dạy cho con gái kinh doanh địa ốc, giờ đây bà đang cho các nông dân xung quanh thuê lại đất đai và làm cho những mảnh đất ấy sinh lời, theo như thông tin tôi thu thập được. Một thành tựu không thể khịt mũi xem thường trong thời đại ngày nay.
Eva vẫn là một cô nàng đỏng đảnh, khó ưa hệt như những đứa em gái của tôi, nhưng có trí thông minh không thua kém thái độ kiêu kỳ của mình. Ngoài con ngựa cưng Nefertiti, thú vui của nàng còn gồm động tác chu môi và tỏ vẻ tử vì đạo. Nàng thích làm cho những người hầu yếu đuối phải bật khóc, rồi vung tay múa chân đi vào và leo lẻo, “Bà ta lại khóc lóc nữa rồi, mẹ ơi, mẹ không dạy dỗ bà ta đàng hoàng được hay sao?” Nàng đã xác định tôi không phải là kẻ dễ bắt nạt, và khai mào một cuộc chiến dài hơi: “Bố ơi, Frobisher ở nhà chúng ta bao lâu?”; “Bố à, bố trả cho Frobisher bằng với trả cho Hendrick không?”; “Ô, con chỉ hỏi thăm thôi mẹ à, chứ con đâu có biết chuyện ăn ở của Frobisher là chuyện tế nhị.” Nàng khua khoắng chọc tức tôi, tôi rất ghét phải trả miếng, nhưng là thế đấy. Lại chạm trán lần nữa – “đối đầu” thì đúng hơn – vào thứ Bảy. Tôi lấy quyển sách Ayrs coi như Kinh Thánh, Zarathustra đã nói như thế, đem đến cây cầu đá trên hồ dẫn đến đảo liễu. Một buổi chiều nóng như thiêu đốt; ngồi trong bóng râm mà mồ hôi đổ như tắm. Sau mười trang tôi có cảm giác như Nietzsche đang đọc tôi, chứ không phải tôi đọc ông ta, thế là tôi đưa mắt ngắm những người chèo thuyền và một con sa giông trong lúc dàn nhạc tưởng tượng đang chơi bài Air and Dance của Fred Delius. Một bản mượt mà ngọt quá mức, nhưng tiếng sáo uể oải trong đó khá thành công.
Rồi tôi thấy mình đang nằm trong một cái mương rất sâu đến nỗi bầu trời chỉ còn là một dải ở tít trên cao, chiếu sáng chói lòa. Những kẻ độc ác dạng chân khổng lồ bước qua trên mương, những con chuột nâu răng nhọn hoắt ngửi ra những con người thuộc giai cấp lao động rồi xẻ thịt họ. Bước đi, cố gắng làm ra vẻ bình thản và ngăn mình không bỏ chạy vì hoảng sợ, thì gặp phải Eva. Tôi hỏi, “Cô đang làm cái quái gì ở dưới này?”
Eva trả lời đầy giận dữ! “Ce lac appartient à ma famille depuis cinq siècles! Vous êtes ici depuis combien de temps exactement? Bien trois semaines! Alors vous voyez, je vais où bon me semble!” (Hồ này thuộc về gia đình tôi năm thế kỷ nay rồi! Chính xác thì anh đã ở đây được bao lâu chứ? Ba tuần là cùng chứ gì! Anh xem, tôi muốn đi đâu thì đi!) Cơn giận của Eva thật khủng khiếp, như một cú đá vào mặt kẻ viết thư khiêm tốn của anh đây. Cũng phải thôi, tôi vừa buộc cô nàng tội xâm nhập bất hợp pháp vào tư dinh của mẹ nàng. Tỉnh hẳn, tôi luống cuống, xin lỗi rối rít, giải thích rằng tôi đã nói trong lúc mơ ngủ.
Quên bẵng cái hồ. Rơi thẳng xuống như một thằng ngốc chết giẫm! Ướt như chuột! May mắn là nước chỉ cao tới rốn, và Chúa đã cứu Nietzsche quý giá của Ayrs khỏi cảnh uống nước hồ cùng tôi. Khi Eva thôi không cười nữa, tôi nói tôi rất mãn nguyện khi thấy nàng làm được một điều khác ngoài chuyện bĩu môi. Tóc của anh dính đầy bèo rồi kìa, nàng đáp, bằng tiếng Anh. Buộc phải chiếu cố khen ngợi kĩ năng ngoại ngữ của nàng. Nàng vặc lại, “Chả cần tốn nhiều công sức để gây ấn tượng với người Anh.” Bỏ đi. Chả nghĩ ra được câu trả lời khiêu khích nào mãi đến về sau, nên cô nàng thắng ván này.
Bây giờ, hãy chú ý khi tôi nói đến chuyện sách vở và tiền bạc. Trong lúc ngó nghiêng những quyển sách đặt trong hốc phòng mình, tôi bắt gặp một phần quyển sách bị xé rời, và tôi muốn anh tìm giùm tôi một quyển hoàn chỉnh. Nó bắt đầu ở trang 99, bìa đã mất, gáy sách lỏng chỉ. Từ những gì tôi có thể đọc được, đó là một nhật ký đã biên tập về hải trình từ Sydney đến California của một công chứng viên từ San Francisco tên là Adam Ewing. Có nhắc đến cơn sốt đào vàng, nên tôi đoán là khoảng năm 1849 hoặc 1850 gì đấy. Quyển nhật ký được xuất bản sau khi tác giả đã qua đời, bởi con trai của Ewing (?). Ewing nhắc tôi nhớ đến Thuyền trưởng Delano vênh váo trong tiểu
thuyết Benito Cereno của Melville[19], mù quáng trước tất cả những kẻ âm mưu – ông ta không hề nhận ra ông bác sĩ Henry Goose (sic) đáng tin cậy kia là một con ma cà rồng hút máu, đang làm trầm trọng thêm căn bệnh tự tưởng tượng ra để đầu độc ông ta, từ từ, để cuỗm tiền. Có gì đó dối trá về tính chân thực của quyển nhật ký – có vẻ như cấu trúc quá gọn gàng cho một quyển nhật ký chân thực, ngôn ngữ nghe không có vẻ thật lắm – nhưng ai lại rỗi hơi bịa ra một quyển nhật ký như thế, và tại sao?
Bực mình nhất là câu chuyện bị dừng dang dở sau khoảng bốn mươi trang, nơi gáy sách bị rách mất. Tìm phần còn lại khắp trên dưới thư viện. Không gặp may. Chẳng có lợi ích gì khi lôi kéo sự chú ý của Ayrs hay phu nhân Crommelynck đến gia tài thư viện chưa được phân loại của họ, vì thế tôi đang mắc kẹt không đường thoát. Anh có thể hỏi Otto Jansch trên Phố Caithness xem hắn có biết gì về Adam Ewing không? Một quyển sách đọc dang dở là một chuyện tình dở dang.
Xem đính kèm danh mục những tác phẩm lâu đời nhất mà tôi có thể tìm thấy trong thư viện của lâu đài Zedelghem. Như anh thấy, một số tác phẩm ra đời r. sớm, đầu thế kỷ 17, vì vậy hãy gửi cho tôi giá tốt nhất của Jansch càng sớm càng tốt nhé, và hãy làm cho tên hà tiện ấy sốt ruột bằng cách tiết lộ rằng có vài nhà buôn Paris quan tâm rồi đấy.
Thân mến,
R.F.
===== =====
[16] John Keats (1795-1821): nhà thơ lãng mạn nổi tiếng người Anh
[17] Trong thần loại La Mã, Janus là vị thần giữ cửa, vị thần của bắt đầu và kết thúc. Janus thường được khắc họa là hình người có hai đầu, nhìn về hai hướng đối diện nhau.
[18] Ngôi nhà trong truyện ngắn kinh dị “Sự sụp đổ của ngôi nhà dòng họ Usher” của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe.
[19] Benito Cereno là một tiểu thuyết ngắn của Herman Melville, trong đó nhân vật thuyền trưởng đối mặt với một cuộc nổi dậy của nô lệ trên một chuyến tàu buôn Tây Ban Nha. Melville là nhà văn người Mỹ, nổi tiếng với tiểu thuyết Moby-Dick (1851).