Lâu đài Zedelghem,
28 – vii – 1931.
Sixsmith,
Có lý do để ăn mừng chút ít. Hai ngày trước, Ayrs và tôi đã hoàn tất cuộc hợp tác đầu tiên, một đoạn giao hưởng thơ ngắn, “Der Todtenvogel”. Khi tôi moi ra bản này, nó chỉ là một sự sắp xếp tẻ nhạt từ một bài quốc ca cổ của các dân tộc Giéc-manh, khô khốc theo góc nhìn của Ayrs. Phiên bản mới của chúng tôi là một con vật kích thích trí tò mò. Nó vay mượn những cộng hưởng từ bản Ring của Wagner[20], rồi nghiền rã chủ đề vào một cơn ác mộng Stravinsky[21] được canh phòng bằng các hồn ma Sibelius[22]. Kinh dị, khoái trá, ước gì anh có thể nghe được. Kết thúc bằng một đoạn độc tấu sáo, không phải một màn thổi sáo tiêu diêu, mà là tiếng chim báo tử, nguyền rủa những kẻ ra đời đầu tiên và cuối cùng.
Augustowski lại ghé thăm trên đường về từ Paris hôm qua. Ông ấy đọc bản ký âm và không ngớt lời ca tụng nó như thợ máy tàu hỏa xúc than vào lò vậy. Mà khen là phải thôi! Đó là bảo giao hưởng thơ hoàn mỹ nhất mà tôi biết được viết ra từ sau chiến tranh; và nói cho anh biết nhé, Sixsmith, không ít ý tưởng xuất sắc nhất trong số đó là của tôi. Cứ cho rằng một thư ký phải cam chịu từ bỏ đóng góp của mình vào quyền tác giả, nhưng giữ kín miệng của người khác thật chẳng dễ chút nào. Nhưng điều tốt nhất chưa dừng lại ở đó – Augustowski muốn công bố tác phẩm này dưới chính cây gậy chỉ huy của ông ta tại lễ hội Cracow diễn ra sau ba tuần nữa!
Thức dậy lúc vừa hừng đông ngày hôm qua, dành cả ngày chép lại một bản sạch đẹp. Chợt nhận ra nó không còn quá ngắn nữa. Tay bắt đầu mỏi và các khuông nhạc in chặt lên mi mắt, nhưng đến trước giờ ăn tối thì cũng làm xong. Chúng tôi bốn người uống năm chai rượu vang để ăn mừng. Tráng miệng với món rượu nho xạ ngon nhất từ trước đến nay.
Giờ đây tôi đã là cậu bé vàng của Zedelghem. Đã r. lâu rồi tôi mới là cậu bé vàng của một ai đó và tôi khá là thích điều này. Jocasta đề nghị tôi dọn ra khỏi phòng dành cho khách sang một phòng to hơn ở tầng hai, không có người dùng, trang hoàng theo ý thích của tôi với bất kỳ thứ gì bắt mắt lấy ở những phòng khác trong Zedelghem. Ayrs ủng hộ việc đổi phòng, nên tôi nhận lời. Thật thích thú khi Tiểu thư Đỏng đảnh mất bình tĩnh và lu loa lên, “Ôi, sao mẹ không viết tên anh ta vào di chúc luôn cho rồi? Sao không cho anh ta ½ dinh thự luôn đi?”
Nàng đứng dậy rời bàn không thèm xin phép. Ayrs làu bàu, “Ý tưởng hay đầu tiên của con bé trong mười bảy năm qua!” đủ to để nàng nghe thấy. “Ít nhất Frobisher đã lao động để đổi lại được những thứ đó!”
Chủ nhà không nhận lời xin lỗi của tôi, họ nói Eva phải xin lỗi tôi mới phải, nàng phải bỏ quan điểm xưa rích rằng vũ trụ xoay quanh bản thân mình. Nghe mà mát lòng mát dạ. Cũng nói thêm: Eva và hai mươi bạn học sắp sửa đi Thụy Sĩ để học tại một trường dòng trong vài tháng. Càng mát dạ hơn! Giống như chiếc răng sâu tự rụng. Phòng mới của tôi rộng đủ cho một sân cầu lông đôi; có một chiếc giường bốn cột, tôi phải giũ các tấm màn treo trên giường cho sạch mối mọt từ năm ngoái; tường kiểu Cordova tuổi đời hàng mấy thế kỷ tróc thành mảng như vảy rồng, nhưng vẫn hấp dẫn theo cách riêng; quả cầu phù thủy màu xanh; tủ quần áo dát gỗ óc chó nổi vân; sáu chiếc ghế bành và một bàn viết hai ngăn kéo bằng gỗ sung dâu nơi tôi ngồi viết lá thư này. Hoa kim ngân dệt ren trong ánh sáng rạng rỡ. Phía nam nhìn ra vườn cây cảnh xấu xí. Ở phía tây, những con bò nhai cỏ trên cánh đồng và tháp chuông nhà thờ vươn cao hơn khu rừng phía trên. Chuông nhà thờ chính là đồng hồ của tôi. (Kỳ thực, Zedelghem hãnh diện là có nhiều đồng hồ cổ mà chuông đổ cái thì sớm, cái thì muộn, như một Bruges thu nhỏ vậy.) Nói tóm lại, to hơn một chút so với phòng của chúng ta ở Ngõ Whyman, ít to hơn một chút so với phòng tại Savoy hoặc Imperial, nhưng rất rộng rãi và an toàn. Trừ khi tôi làm chuyện gì vụng về hoặc hớ hênh.
Ý tôi là chuyện liên quan đến phu nhân Jocasta Crommelynck. Họa tôi có mù mắt mới không thấy, Sixsmith ạ, rằng bà ta bắt đầu tán tỉnh tôi,một cách rất khéo léo. Sự mơ hồ trong lời nói, ánh mắt và cái vuốt tay của bà ta quá lộ liễu, không thể là tình cờ được. Xem anh nghĩ thế nào. Chiều hôm qua, tôi đang nghiên cứu những tác phẩm hiếm hoi sáng tác lúc trẻ của Balakirev trong phòng thì Crommelynck gõ cửa. Bà ta mặc chiếc áo khoác cưỡi ngựa, tóc vấn cao để lộ cần cổ mời mọc. “Ông nhà tôi muốn tặng anh một món quà,” bà ta nói, đi vào phòng khi tôi nhường đường. “Đây. Để đánh dấu sự kiện hoàn tất ‘Todtenvogel’. Anh biết không, Robert,” lưỡi bà ta nấn ná ở chữ T trong từ “Robert”, “Vyvyan rất hạnh phúc khi được sáng tác trở lại. Đã nhiều năm rồi ông ấy không hoạt bát như thế này. Đây chỉ là một món quà nhỏ. Mặc vào đi.” Bà ta đưa cho tôi một chiếc áo chẽn thanh lịch, một chiếc áo lụa phong cách Ottoman, họa tiết rất ấn tượng đến nỗi sẽ không sợ bị lỗi mốt, dù cũng chẳng phải là hợp mốt. “Tôi mua nó lúc chúng tôi đi hưởng tuần trăng mật ở Cairo, khi ông ấy bằng tuổi anh bây giờ. Ông ấy sẽ không mặc nó nữa đâu.”
Nói rằng tôi cảm thấy rất vinh dự, nhưng phản đối rằng tôi không thể nhận một chiếc áo có giá trị tinh thần như thế. “Đó chính là lý do mà chúng tôi muốn anh mặc nó. Kỷ niệm của chúng tôi nằm trong từng đường tơ mũi chỉ. Mặc lên đi.” Tuân theo lời yêu cầu, và bà ta vuốt nó, lấy lý do (?) làm phẳng những chỗ bị phồng. “Đến soi gương xem!” Tuân lời. Người đàn bà ấy đứng ở phía sau, cách tôi chỉ vài centimet. “Đẹp thế này mà để cho mọt làm ổ thì phí quá, phải không nào?” Vâng, tôi đồng ý. Nụ cười bà ta như con dao hai lưỡi. Nếu chúng tôi đang ở trong một tiểu thuyết kiểu tả rõ đến từng hơi thở của Emily, thì đôi tay của kẻ quyến rũ sẽ lần quanh thân người anh chàng ngây thơ, nhưng Jocasta khôn khéo hơn. “Anh có thân hình giống hệt như thân hình của Vyvyan ở tuổi anh. Lạ quá, nhỉ?” Vâng, tôi đồng ý lần nữa. Những móng tay của bà ta gỡ ra một sợi tóc của tôi vướng vào chiếc áo chẽn.
Không khước từ cũng không khích lệ bà ta. Những việc này không cần phải vội. Phu nhân Crommelynck bỏ đi không nói một lời.
Vào giờ ăn trưa, Hendrick báo tin nhà của Bác sĩ Egret ở Beerbeke bị trộm viếng. May mà không ai bị thương, nhưng cảnh sát đã ra thông báo yêu cầu mọi người đề cao cảnh giác với dân gypsy và những kẻ vô lại. Nhà cửa cần được khóa chặt vào ban đêm. Jocasta rùng mình rồi nói bà ta mừng vì tôi ở Zedelghem để bảo vệ bà ta. Thừa nhận tôi có thể tự coi là võ sĩ quyền anh ở Eton, nhưng không biết có thể chống lại cả một băng du đãng hay không? Có lẽ tôi sẽ giữ khăn cho Hendrick trong lúc hắn nện cho chúng nhừ tử? Ayrs không bình luận gì, nhưng tối hôm đó lão mở khăn ăn lấy ra một khẩu súng lục Luger. Jocasta rầy rà Ayrs vì khoe súng ở bàn ăn tối, nhưng lão mặc kệ. “Khi chúng tôi trở về từ Gothenburg, tôi tìm thấy khẩu súng này giấu dưới tấm ván sàn lỏng trong phòng ngủ chính, có cả đạn bên trong,” lão giải thích. “Đại úy Phổ hoặc là bỏ chạy trong lúc vội vã hoặc là đã bị thủ tiêu. Hắn giấu nó ở đó có lẽ để phòng vệ trước quân nổi dậy, hoặc những khách không mời. Tôi đặt nó cạnh giường ngủ với lý do tương tự.”
Hỏi tôi có thể cầm thử nó không, vì trước giờ tôi chỉ mới chạm vào súng săn mà thôi. “Tất nhiên,” Ayrs đáp và đưa khẩu súng cho tôi. Lông tóc tôi dựng đứng lên hết. Anh bạn bằng sắt nhỏ gọn ấy đã giết người ít nhất một lần, tôi dám đặt cược hết tiền thừa kế của mình cho chuyện này, nếu vẫn còn đồng nào. “Nên cậu thấy đấy,” Ayrs có giọng cười rất quỷ quyệt, “tôi có thể là một lão già mù què quặt, nhưng tôi vẫn còn một, hai chiếc răng sót lại để cắn. Một thằng mù với một khẩu súng và r. ít thứ gì còn lại để mất. Hãy tưởng tượng chuyện tồi tệ mà tôi có thể làm!” Không biết có phải là tôi tưởng tượng ra sự đe dọa trong giọng nói của lão hay không nữa.
Có tin tuyệt vời từ Jansch, nhưng chớ nói với hắn là tôi nói thế nhé. Sẽ gửi ba quyển được nhắc đến cho anh từ Bruges vào lần sau khi tôi đến đó – nhân viên bưu tá ở Neerbeke này có thói tọc mạch khiến tôi không an tâm. Cứ thận trọng như thông thường. Chuyển tiền của tôi đến Ngân hàng Đệ Nhất của Bỉ, Chi nhánh chính, Bruges – Dhondt chỉ cần búng ngón tay một phát là giám đốc ở đấy mở ngay cho tôi một tài khoản. Chỉ có duy nhất một Robert Frobisher trong danh sách khách hàng mà thôi, tôi chắc chắn là như vậy.
Tin tốt nhất từ trước đến nay: đã quay lại sáng tác nhạc cho riêng mình.
Thân mến,
R.F.
===== =====
[20] Nhà soạn nhạc người Đức Richard Wagner (1813 – 1883)
[21] Igor Fyodorovich Stravinsky (1882 –1971) – nhà soạn nhạc sinh ra ở Nga.
[22] Jean Sibelius (1865-1957) – Nhà soạn nhạc người Phần Lan.