Phần VI – Sloosha’s Crossin’ & mọi chuyện về sau

Phần VI - Sloosha's Crossin' & mọi chuyện về sau

Con đường của Già Georgie và ta giao nhau quá nhiều lần đến không nhớ nổi, và sau khi ta chết, không biết còn chuyện gì mà tên ác quỷ răng nhọn đó không làm với ta… vì vậy hãy đưa cho ta một ít thịt cừu và ta sẽ kể cho các con nghe về lần gặp đầu tiên của chúng ta. Một lát dày mọng nước, không, không cần món bánh quế cháy khét…

Adam, anh trai ta, cùng Bố và ta đang trở về từ Hội chợ Honokaa qua những con đường sình lầy trên chiếc xe bò cà tàng, quần áo thì lấm lem nhàu nhĩ. Buổi tối sập xuống rất nhanh nên chúng ta dựng lều trên bờ nam của Sloosha’s Crossin’, vì sông Waipio đang sôi sục sau nhiều ngày mưa to và nước trào cuồn cuộn do triều dâng. Sloosha’s là mảnh đất lành dù rất lầy lội, chả có ai sống ở Thung Lũng Waipio ngoài triệu triệu con chim, vì thế chúng ta không ngụy trang cho túp lều và chiếc xe bò. Bố bảo ta đi tìm bùi nhùi và củi trong lúc ông và Adam dựng lều.

Hôm đó ta bị chột bụng do đã ăn cả một cái đùi chó ở Honokaa, lúc bấy giờ ta đang ngồi xổm trên một cái hố giữa đám cây thiết mộc thì có ánh mắt nhìn ta, ta cảm thấy rất rõ. “Ai đó?” ta hỏi, và đám dương xỉ xào xạc nuốt chửng lời ta.

Ô, mi đang ở một nơi thật tăm tối đấy cậu nhóc, bụi dương xỉ rì rầm.

“Xưng tên đi!” ta hét lên, dù không to lắm. “Ta có dao găm đó!”

Ngay phía trên đầu ta, có người thì thầm, Xưng tên đi, cậu nhóc, là Zachry Dũng cảm hay Zachry Hèn nhát nào? Ta ngước lên nhìn và chắc chắn đó là Già Georgie đang bắt chéo chân trên một cây thiết mộc mục ruỗng, một nụ cười ranh mãnh hiện lên trong đôi mắt háu đói của lão.

“Tôi không sợ ông đâu!” ta nói với lão, dù thật tình mà nói thì giọng ta chỉ như tiếng rắm vịt giữa trận cuồng phong. Ta thót ruột khi Già Georgie nhảy từ cành cây xuống và rồi chuyện gì xảy ra?

Lão biến mất trong nháy mắt, đúng vậy, ở phía sau ta. Chẳng có gì ở đấy… ngoài một con vịt hoang béo núc đang kiếm ăn, mời mọc ta túm lấy rồi xiên que! E hèm, ta tin chắc Zachry Dũng cảm đã hạ gục Già Geogie, đúng vậy, lão đã bỏ chạy để săn lùng những kẻ hèn nhát hơn ta. Ta muốn kể với Bố và Adam về chuyến đi kỳ lạ của mình nhưng câu chuyện bốc phét sẽ ngon lành hơn với món nhắm khoái khẩu, vì vậy ta vội vội vàng vàng đứng dậy, kéo quần lên rồi lom khom tiến đến đống lông vũ nung núc thịt đó… rồi ta chụp xuống.

Ngài Chim vuột qua kẽ tay ta rồi bỏ chạy nhưng ta không bỏ cuộc, còn lâu, ta đuổi theo nó lên thượng nguồn qua bụi rậm nhấp nhô gai góc, cành cây chết mục và nhiều thứ khác, gai nhọn cào vào mặt ta đau buốt, nhưng các con thấy đó, ta đang sốt sắng đuổi bắt nên chẳng nhận ra cây cối thưa dần hoặc nghe tiếng Thác Hiilawe gầm rú gần hơn, mãi đến khi ta chúi nhủi vào bãi đất trống cạnh hồ nước và hoa mắt trước một bầy ngựa. Không, không phải ngựa hoang, mà là những con ngựa mặc áo giáp da đính hạt kim loại và trên Đảo Lớn thì điều đó đồng nghĩa với duy nhất một điều, chính xác, bọn Kona.

Mười – mười hai tên thổ dân sơn phết khắp người đứng dậy nắm lấy cán roi da, gào tiếng thét chiến trận với ta! Ôi, lúc này ta chạy trở lại hẻm núi mà ta đã chạy lên, chính xác, kẻ đi săn thành kẻ bị săn. Tên Kona gần nhất đang đuổi theo sau ta, những tên khác nhảy lên lưng ngựa và cười vang thích thú với trò săn bắt này. Sợ hãi làm chân ta run rẩy nhưng nó cũng khiến trí óc ta mềm nhũn, nên ta phóng về chỗ Bố. Ta chỉ mới chín tuổi nên chỉ biết làm theo bản năng mà không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra.

Tuy nhiên ta đã không quay lại chỗ dựng lều, nếu không thì giờ này ta đâu còn ngồi đây để kể chuyện cho các con nghe. Ta vấp chân vào rễ cây – chắc là chân của Già Georgie – rồi lăn lông lốc xuống một cái hố có lá mục, nhờ đó mà ta được che chắn trước vó ngựa lao qua của bọn Kona. Ta nằm yên trong đó, nghe chúng hò hét lao qua, chỉ cách đó vài mét, băng qua hàng cây đó… thẳng đến Sloosha’s. Đến chỗ Bố và Adam.

Ta bò lết thận trọng và thật nhanh nhưng đã quá muộn, phải, đã quá muộn. Bọn Kona đang bao vây lều trại của chúng ta, chúng quất roi vun vút. Bố đang vung rìu tán loạn, còn anh ta thì cầm giáo, nhưng bọn Kona chỉ vờn họ. Ta nấp ở rìa bãi đất trống, sợ hãi rần rật trong máu khiến ta không thể đi tiếp. Vụt! Một làn roi, Bố và Adam ngã xuống và quằn quại như những con lươn trên cát. Tù trưởng Kona, một tên bặm trợn, xuống ngựa rồi dẫm qua bãi nước cạn đến chỗ Bố, quay lại mỉm cười với bọn anh em sơn vẽ của hắn, rút dao ra rồi cắt cổ họng Bố từ tai này qua tai kia.

Ta chưa thấy cái gì đỏ thẫm như dòng máu chảy ra của Bố. Tên tù trưởng liếm láp máu của Bố trên lưỡi dao.

Adam hoảng loạn tột độ, anh không còn gan dạ nổi nữa. Một tên sơn vẽ trói cổ tay cổ chân anh rồi ném anh cả của ta lên yên ngựa của hắn như một bao khoai sọ, những tên khác lục lọi lều của chúng ta để tìm đồ sắt và các vật dụng khác rồi đập phá những gì chúng không đem theo. Tên tù trưởng nhảy lên lưng ngựa rồi quay lại nhìn thẳng vào ta… đôi mắt đó là đôi mắt của Già Georgie. Zachry Hèn nhát, đôi mắt nói , mi được sinh ra là để dành cho ta, thấy chưa, chống lại ta ích gì?

Ta có chứng minh là lão sai không? Đứng lên và cắm lưỡi dao của ta vào cổ một tên Kona? Theo chúng về đến trại của chúng rồi tìm cách giải cứu Adam? Zachry Dũng cảm Chín tuổi đã trốn lên một cái cây để khóc sướt mướt và cầu nguyện Sonmi phù hộ để nó không bị bắt làm nô lệ. Phải, ta chỉ biết làm thế. Hỡi ôi, nếu ta được Sonmi đoái hoài thì ta sẽ lắc đầu đầy khinh bỉ rồi tự nghiền nát mình như một con bọ gậy.

Bố vẫn đang nằm bập bềnh trong chỗ nước cạn lúc ta lẻn về khi màn đêm đã buông xuốn; dòng sông bấy giờ đã dịu lại và thời tiết quang đãng hơn. Bố là người luôn chơi đùa, nựng nịu và yêu thương ta. Trơn như cá hang, nặng như bò, lạnh như đá, từng giọt từng giọt máu bị dòng sông hút cạn. Ta vẫn chưa hoàn hồn hay cảm nhận được gì rõ rệt, mọi thứ vẫn còn quá chấn động và kinh hoàng. Sloosha’s nằm cách Bãi Xương sáu – bảy dặm, nên ta xây một nấm mồ cho Bố ở nơi ông nằm. Ta không nhớ câu kinh nào của Trưởng lão ngoài câu Sonmi kính yêu,Người ở trong chúng con, hãy trả linh hồn được yêu thương này về Lòng mẹ, chúng con cầu xin Người. Nên ta đọc câu kinh này, lội qua sông Waipio, rồi cầm dao gập chạy băng qua cánh rừng đêm.

Một con cú mèo tí hon rít lên với ta, Đánh giỏi lắm, Zachry Dũng cảm! Ta hét lên bảo con chim câm miệng, nhưng nó rít lại, Không thì sao? Mi sẽ đánh ta như đã đánh bọn Kona à? Ôi, làm ơn làm phước chiếp cha chiếp chiếp đi! Trên dãy Kohala, bọn chó hoang tru lên, Zachryyy-yy-y Hèn Nháttt-tt-t. Cuối cùng là mặt trăng, bà nhướn mày lên, nhưng bà lão lạnh lùng đó chẳng nói gì, mà cũng chẳng cần bà lên tiếng, ta biết bà nghĩ gì về ta. Adam cũng đang nhìn lên mặt trăng đó, chỉ cách ta hai-ba-bốn dặm, nhưng ta chẳng thể làm gì để cứu anh ấy, anh có thể đã ở tận Honolulu. Ta òa lên khóc nức nở, chính xác, như một đứa bé hoảng sợ.

Sau khi đi được một dặm, ta đến Nhà Abel rồi gọi cửa. Con cả của Abel là Issak mở cửa cho ta vào và ta kể cho họ nghe chuyện gì đã xảy ra ở Sloosha’s Crossin’, nhưng… ta có kể toàn bộ sự thật không? Không, trùm chăn của Abel lên người, sưởi ấm bên đống lửa của họ, thằng bé Zachry đã nói dối. Ta không nhận đã dẫn bọn Kona đến lều của Bố, mà ta kể ta chỉ đuổi theo một con vịt vào bụi rậm, và khi ta trở về… Bố đã bị giết, Adam bị bắt và dấu chân ngựa của bọn Kona in khắp bùn đất. Không thể làm gì được, lúc đó lẫn bây giờ. Mười tên Kona có thể giết người nhà Abel dễ dàng như đã giết Bố ta.

Khuôn mặt các con đang hỏi ta. Tại sao ta lại nói dối?

Trong lời kể mới này, ta không phải là Zachry Ngu ngốc hay Zachry Hèn nhát, ta chỉ là Zachry Kém may mắn và May mắn. Nói dối là lũ kền kền của Già Georgie, chúng đang lượn vòng trên không trung nhìn xuống đất để tìm kiến một linh hồn còi cọc và ốm yếu để lao xuống và cắm phập móng vuốt của chúng, và đêm hôm đó ở nhà của Abel, linh hồn còi cọc và ốm yếu đó, chính xác, đó chính là ta.

Giờ đây lũ các con nhìn một ông già nhăn nheo, thở khò khè từng hơi, và ta sẽ không còn thấy nhiều mùa đông nữa, không, không, ta biết thế. Ta đang gào lên với bản thân ta hơn bốn mươi năm trước, phải, với Zachry Chín tuổi, Ê, nghe đây! Có những lúc ngươi yếu đuối trước thế gian! Có những lúc ngươi chẳng thể làm gì! Đó không phải lỗi của ngươi, mà là lỗi của cái thế gian tồi tệ này thôi! Nhưng dù cho ta có gào lớn đến đâu, Cậu bé Zachry vẫn không nghe thấy ta và sẽ chẳng bao giờ nghe thấy.

Lưỡi dê là một năng khiếu, các con có nó từ lúc sinh ra hoặc là không. Nếu các con có nó, nói gì dê cũng nghe, nếu không có, chúng sẽ xô con xuống bùn rồi đứng đó cười nhạo khinh bỉ. Ta có cái lưỡi dê từ Bố, và thi thoảng khi chăn dê, ta nghĩ là mình đã nghe tiếng ông thổi sáo cách đó không xa, dù Trưởng lão nói ông đã đầu thai vào Nhà Kashinski trong Thung lũng Mormon. Dù sao đi nữa, hàng ngày vào lúc mặt trời mọc ta vắt sữa dê rồi đưa cả đàn dê lên miệng Thung lũng Elepaio, băng qua đèo Vertgbry đến ăn cỏ ở Đỉnh Kohala. Ta cũng chăn dê của Thím Bees, có khoảng mười lăm – hai mươi con dê, tổng cộng ta có năm mươi – sáu mươi con dê phải trông chừng, chăm sóc khi chúng sinh đẻ và đau ốm. Thật là quá nhiều dê phải để mắt đến, nhưng ta yêu thương lũ thú không biết nói này còn hơn cả bản thân ta, nhất là sau khi Bố bị giết còn Adam bị bắt làm nô lệ. Con nào cũng có tên do ta tự đặt cho. Khi trời mưa ta hay dầm mình dưới mưa để bắt đỉa trên người chúng, khi trời nắng như thiêu đốt ta cũng bị nướng khét, và trên Kohala có lúc ta ở lại đến ba-bốn đêm liền mới xuống núi. Phải luôn giữ cho con mắt chớp liên tục. Lũ chó hoang sục sạo trên núi để ăn trộm dê non mới đẻ nếu ta lơ là buông lỏng thanh giáo. Khi bố ta còn nhỏ, thổ dân từ Mookini thường tìm đường lên đây từ Leeward rồi cuỗm mất một, hai con dê, nhưng sau đó bọn Kona đã biến người Mookini thành nô lệ trên khắp miền nam và hang hốc của họ ở Hawi đã thành ổ rêu phong kiến mối. Mục đồng chúng ta biết rõ Núi Kohala như lòng bàn tay, rõ hơn bất kỳ ai khác, từng hẻm núi, dòng sông, nơi linh thiêng nước độc, những cây thép mà đám người săn đồ cổ chưa phát hiện ra, và một-hai-ba tòa nhà cũ mà ngoài chúng ta ra không ai biết đến.

Mục đồng nổi tiếng là có biệt tài tán gái. Này nhé, nếu một cô gái mê một chàng mục đồng, cô ta chỉ cần đi theo tiếng huýt sáo của chúng ta đến nơi vắng vẻ, rồi chúng ta sẽ làm chuyện đó giữa đồng không mông quạnh, chẳng có ai thấy trừ mấy con dê, mà lũ dê thì chẳng hé một lời với Ma Lắm Điều. Ta đã truyền giống đứa con đầu tiên của ta cho Jayjo của Nhà Khuôn Bàn Chân bằng cách này, dưới một cây chanh vào một ngày nắng. Ít nhất thì đó là đứa con đầu tiên mà ta biết. Các cô gái rất ma mãnh khi nói về người nào, khi nào và làm sao. Năm đó ta mười hai tuổi, Jayjo có một thân hình săn chắc và mời gọi, nàng cười đùa lúng liếng và cả hai chúng ta đều yêu nhau say đắm, chính xác, như hai con đang ngồi đây vậy, vì thế khi cái bụng bầu của Jayjo đã căng tròn, bọn ta bàn đến chuyện cưới hỏi để nàng có thể dọn đến sống ở Nhà Bailey. Ở đó còn nhiều phòng trống lắm. Nhưng rồi Jayjo vỡ nước ối sớm và Banjo gọi ta đến Khuôn Bàn Chân nơi nàng đang sinh con. Ta vừa đến nơi thì đứa bé chào đời.

Đây không phải là một câu chuyện vui vẻ, nhưng các con đã hỏi về cuộc sống của ta trên Đảo Lớn, và đây là những gì hiện ra trong trí nhớ của ta. Đứa bé không có miệng, cũng chẳng có lỗ mũi, nên nó không thở được và đã chết khi mẹ của Jayjo cắt dây rốn, tội nghiệp hài nhi bé nhỏ. Mắt nó không mở ra, nó chỉ cảm thấy hơi ấm từ bàn tay bố nó trên lưng, đổi màu xám ngoét, ngừng cục cựa và qua đời.

Jayjo tái mét và mồ hôi nhễ nhại, trông như cũng chết rồi. Cánh đàn bà bảo ta tránh ra để nhường chỗ cho thầy lang.

Ta ôm đứa bé đã chết được quấn trong bao vải rồi đem đến Bãi Xương. Ta cô đơn quá, tự hỏi nòi giống của Jayjo bị hỏng hay của ta bị hỏng hay vận may của ta đã hỏng. Đó là một buổi sáng ảm đạm dưới bóng những bụi hoa máu, từng con sóng liếm láp bãi biển như những con bò ốm ngã sóng soài. Lấp mộ cho đứa bé không mất nhiều thời gian như cho Bố. Bãi Xương có mùi tảo biển và mùi thịt thối rữa, xương cũ nằm xen sỏi đá, và chẳng ai muốn nấn ná ở đó quá lâu, trừ con ruồi hoặc con quạ.

Jayjo không chết, nhưng nàng không còn cười lúng liếng như trước nữa và chúng ta cũng chẳng cưới xin gì cả, các con phải biết nòi giống của mình sẽ ra đời khỏe mạnh hay là một thứ gì khác, phải không nào? Hoặc ai sẽ cạo rêu mốc trên mái nhà và lau chùi mối mọt trên biểu tượng cho con khi con lìa trần? Thế là nếu ta gặp lại Jayjo ở một buổi họp làng hoặc họp chợ, nàng thường nói, Sáng nay lại mưa rồi nhỉ? và ta đáp, Ừ, chắc là sẽ mưa đến tối, rồi chúng ta đường ai nấy đi. Nàng cưới một thợ thuộc da từ Thung lũng Kane ba năm sau đó, nhưng ta không đến dự tiệc cưới của họ.

Nó là một bé trai. Đứa bé không có tên đã chết của chúng ta. Một bé trai.

Dân Thung Lũng chỉ có một vị thần và tên của bà là Sonmi. Thổ dân trên Đảo Lớn thường có nhiều thần thánh hơn. Ở dưới Hilo họ cầu nguyện Sonmi khi có dịp nhưng họ cũng thờ nhiều thần khác nữa, thần cá mập, thần núi lửa, thần ngô, thần hắt hơi, thần mụn cóc-có lông, chao ôi, bất kể thứ gì người Hilo cũng đẻ ra được một ông thần cho thứ đó. Bọn Kona thì có cả một bộ lạc thần chiến tranh và thần ngựa này nọ. Nhưng với Dân Thung Lũng, các vị thần man khai đó không đáng bận tâm, không hề, chỉ Sonmi là có thật.

Bà sống giữa chúng ta, cai quản Thung lũng Chín Dải. Hầu như chúng ta không bao giờ nhìn thấy bàg, đôi khi cũng có người thấy, một bà lão chống gậy, dù có lúc ta thấy bà là một cô gái tỏa sáng lấp lánh. Sonmi giúp người đau ốm, xoay đổi vận xui, khi một người Dân Thung Lũng chân chính và văn minh qua đời, bà đón linh hồn người đó để dẫn về một tử cung ở đâu đó trong Thung lũng. Có khi chúng ta nhớ những đời trước của mình, có khi không, lại có khi Sonmi báo mộng với Trưởng lão ai là ai, có khi không… nhưng chúng ta biết mình sẽ luôn được đầu thai trở lại làm người Dân Thung Lũng, vì vậy cái chết đối với chúng ta không quá đáng sợ, không hề.

Trừ khi Già Georgie đoạt lấy linh hồn con, thì cái chết mới đáng sợ. Là thế này, nếu con cư xử như thổ dân, ích kỷ và báng bổ văn minh, hoặc nếu Georgie dụ dỗ con trở thành kẻ mọi rợ, thì linh hồn con sẽ bị trĩu nặng như đeo đá. Khi đó Sonmi không thể đưa con lọt vào tử cung nào cả. Những kẻ biến chất ích kỷ đó bị gọi là “kẻ hóa đá” và không số mệnh nào đáng sợ cho người Dân Thung Lũng hơn điều này.

Giờ thì ngọn nến văn minh đã tàn, tất cả những điều này có còn ý nghĩa gì không? Ái chà, ta không thể nói có mà ta cũng chẳng thể nói không. Ta chỉ biết phó thác linh hồn mình cho Sonmi và cầu nguyện bà đưa đường dẫn lối linh hồn ta đến một nơi tốt đẹp ở kiếp sau, vì bà đã cứu mạng ta trong kiếp này và nếu đống lửa không làm các con ngủ gục, ta sẽ kể cho các con nghe vì sao.

Biểu Tượng Tháp là tòa nhà duy nhất trên Bãi Xương nằm giữa Thung lũng Kane và Thung lũng Honokea. Không có quy định cấm vào nơi này, nhưng chẳng ai dám bén mảng vào đấy vì vận may bị hủy hoại nếu quấy rầy bóng đêm trong đó mà không có lý do chính đáng. Các biểu tượng của chúng ta, được chạm khắc, đánh bóng và viết chữ lên trong suốt cuộc đời chúng ta, được thờ ở đó sau khi chúng ta qua đời. Hàng nghìn biểu tượng được cất giữ trong thời của ta, đúng vậy, mỗi biểu tượng là một người Dân Thung Lũng như ta, sinh ra, sống và đầu thai kể từ khi Flotilla đưa tổ tiên của chúng ta đến Đảo Lớn để trốn Sụp Đổ.

Lần đầu tiên ta đi vào Biểug Tượng Tháp là cùng với Bố, Adam và Jonas khi ta được bảy tuổi. Mẹ bị xuất huyết khi sinh Catkin, Bố đưa chúng ta đến để cầu nguyện Sonmi chữa trị cho Mẹ, vì Biểu Tượng Tháp là một nơi đặc biệt linh thiêng và Sonmi thường nghe chúng sinh ở đó. Bên trong rất tăm tối và ẩm thấp. Có mùi sáp, mùi dầu tếch và mùi thời gian. Các biểu tượng sống trên những hàng kệ từ sàn đến trần, có bao nhiêu ta cũng chẳng biết, ta không đi đếm như đếm dê, nhưng người đã khuất nhiều hơn người còn sống như lá nhiều hơn cây. Tiếng Bố cất lên trong bóng đêm, quen thuộc nhưng cũng thật rùng rợn, cầu xin Sonmi đừng để cho Mẹ chết và để linh hồn Mẹ ở lại trong cơ thể bà lâu hơn, trong đầu ta cũng nguyện cầu như vậy, dù ta biết đã bị Già Georgie đánh dấu ở Sloosha’s Crossin’ rồi. Sau đó chúng ta nghe thấy một tiếng giống như tiếng gầm từ bên dưới sự im lặng, tạo thành từ hàng triệu tiếng thì thầm như đại dương, nhưng đấy không phải là đại dương, không, đó là các biểu tượng, và chúng ta biết Sonmi đang ở đó, nghe thấy lời chúng ta.

Mẹ không chết. Sonmi đã rủ lòng thương, các con thấy chưa.

Lần thứ hai ta ở trong Biểu Tượng Tháp là vào Đêm Báo Mộng. Khi mười bốn vết khía trên biểu tượng của chúng ta nói rằng chúng ta đã là Dân Thung Lũng trưởng thành, chúng ta sẽ ngủ một mình trong Biểu Tượng Tháp và Sonmi sẽ cho chúng ta một giấc mơ đặc biệt. Một số cô gái thấy người mình sẽ cưới làm chồng, một số chàng trai thấy nghề nghiệp của mình, có lúc chúng ta thấy những thứ mà sau đó chúng ta đến Trưởng lão để giải mã. Khi rời Biểu Tượng Tháp vào sáng hôm sau, chúng ta trở thành đàn ông và đàn bà.

Thế là sau khi mặt trời lặn, ta nằm dưới tấm chăn của bố trong Biểu Tượng Tháp, gối đầu lên biểu tượng chưa được chạm khắc của ta. Bên ngoài, Bãi Xương đang kêu răng rắc và kẽo kẹt, tiếng sóng réo rắt, sôi trào và ta nghe thấy tiếng chim đớp muỗi. Nhưng hóa ra chẳng có con chim đớp muỗi nào cả, không hề, đó là tiếng một cánh cửa sập mở ra ngay cạnh ta, và một sợi dây thừng rơi lủng lẳng xuống khoảng khôngphía dưới. Trèo xuống đi, Sonmi bảo ta, thế là ta trèo xuống, nhưng sợi dây thừng làm bằng những ngón tay và cổ tay người quấn lấy nhau. Ta ngước lên thì thấy lửa cháy lan xuống từ sàn Biểu Tượng Tháp. Cắt dây thừng đi, một giọng hiểm ác vang lên, nhưng ta rất sợ vì nếu làm thế thì ta sẽ ngã, đúng không?

Trong giấc mơ tiếp theo, ta đang ôm đứa bé trai dị dạng trong phòng của Jayjo. Nó đang chòi đạp và uốn éo như ngày hôm đó. Nhanh lên, Zachry, người đàn ông nói, rạch miệng cho con mi để nó thở!

Ta đang cầm con dao trong tay, vì vậy ta rạch cho con trai ta một đường hình miệng cười, như cắt phô mai vậy. Từ ngữ phọt ra, Tại sao Bố lại giết con?

Giấc mơ cuối cùng của ta đưa ta đến sông Waipio. Ở bờ bên kia ta thấy Adam, đang câu cá rất vui vẻ! Ta vẫy tay nhưng anh ấy không thấy ta, vì vậy ta chạy lên một cây cầu mà ngoài đời thật không có, một cây cầu bằng vàng và đồng. Thế nhưng khi cuối cùng cũng đến được chỗ Adam, thì ta lại khóc lóc thảm thiết vì chẳng còn gì ngoài nhữn ụ xương và một con lươn nhỏ màu bạc đang quằn quại trong cát.

Con lươn là ánh bình minh nứt ra dưới khe cửa Biểu Tượng Tháp. Ta nhớ lại ba giấc mơ đó rồi băng qua những bụi cây rậm rạp đến nhà Trưởng lão mà không gặp ai dọc đường. Trưởng lão đang cho gà ăn phía sau trường học. Bà chăm chú lắng nghe những giấc mơ của ta, rồi nói rất khó để giải mã chúng và bảo ta đợi trong lớp học trong lúc bà cầu nguyện Sonmi để tìm ra ý nghĩa thật sự của chúng.

Lớp học mang một màu sắc linh thiêng huyềng bí từ Thời đại Văn minh. Từng quyển sách trong Thung lũng nằm trên kệ, qua năm tháng đã bị lỏng lẻo và đầy mối mọt nhưng đúng vậy, đó là những quyển sách và những từ ngữ kiến thức! Ở đó cũng có một quả bóng thế giới nữa. Nếu cả thế giới là một quả bóng to thì ta không hiểu tại sao người ta không rơi khỏi nó và ta cũng không rơi. Thế đấy, ta không thông minh sáng dạ cho lắm, chẳng bù cho Catkin, nó có thể trở thành Trưởng lão trong tương lai nếu mọi việc xảy ra khác đi. Cửa sổ trong lớp làm bằng kính, còn nguyên vẹn sau Sụp Đổ. Điều kinh ngạc nhất chính là chiếc đồng hồ, chiếc đồng hồ duy nhất còn chạy trong Thung lũng và trên toàn Đảo Lớn, toàn Ha-Why, theo như ta biết. Thế đấy, nó chẳng cần pin, nó là đồng hồ dây cót. Thuở còn đi học, ta sợ con nhện suốt ngày tích tắc theo dõi và phán xét đó. Trưởng lão dạy chúng ta Tiếng Đồng Hồ nhưng ta đã quên mất, chỉ còn nhớ GiờRưỡi. Ta nhớ Trưởng lão nói,Nền văn minh cần thời gian, nếu chúng ta để chiếc đồng hồ này chết đi, thì thời gian cũng sẽ chết, và khi đó làm sao chúng ta có thể đem lại Thời đại Văn minh như thời trước Sụp Đổ?

Ta nhìn chiếc đồng hồ tích tắc vào buổi sáng hôm đó cho đến khi Trưởng lão quay lại và ngồi đối diện ta. Bà nói Già Georgie đang muốn ăn tươi nuốt sống linh hồn ta, nên lão đã đặt lời nguyền lên giấc mơ của ta để che mờ ý nghĩa của chúng. Nhưng may mắn là Sonmi đã cho bà biết ý nghĩa thật sự là gì. Và các con nữa, các con cũng phải nhớ những lời này vì chúng sẽ làm đổi hướng câu chuyện này nhiều lần về sau.

Một: Bàn tay bỏng cháy, chớ cắt dây thừng.

Hai: Kẻ thù đang ngủ, chớ rạch họng hắn.

Ba: Đồng đang bốc cháy, chớ băng qua cầu.

Ta thú nhận ta chẳng hiểu gì cả. Trưởng lão nói bà cũng không hiểu, nhưng chuyện đó không quan trọng, vì ta sẽ hiểu những tiên báo này khi thời điểm thật sự đến, và bà bảo ta phải đóng đinh lời bà vào trí nhớ của ta. Rồi bà tặng ta một quả trứng gà để ăn sáng, vẫn còn ấm nóng từ ổ gà, và chỉ cho ta cách hút lòng đỏ ra bằng cọng rơm.

Vậy là các con muốn nghe về Chiếc Tàu Lớn của những Người Tiên Tri?

Không, Chiếc Tàu không phải là thần thoại gì cả, nó có thật như ta và các con vậy. Chính đôi mắt này đã nhìn thấy nó, ôi phải hai mươi lần là ít. Chiếc Tàu thường đến Vịnh Flotilla hai lần mỗi năm, gần mùa xuân và mùa thu khi ngày và đêm dài bằng nhau. Để ý nó không bao giờ cập bến tại một thị trấn thổ dân nào cả, không Honokaa, không Hilo, không Leeward. Tại sao thế? Vì đối với Người Tiên Tri, chỉ có Dân Thung Lũng chúng ta mới đủ văn minh mà thôi, chính thế. Họ không muốn trao đổi hàng hóa với người mọi rợ vì bọn họ nghĩ Chiếc Tàu là một thần chim màu trắng hay gì đó! Chiếc Tàu có màu của bầu trời nên các con sẽ không thể thấy nó cho đến khi nó đã neo lại ngoài khơi. Nó không có mái chèo, không có buồm, cũng chẳng cần gió hay thủy triều, vì nó được điều khiển bởi trí thông minh của Người Xưa. Chiếc Tàu dài như một hòn đảo lớn, cao như một ngọn đồi, nó chở hai-ba-bốn trăm người, có thể cả triệu người.

Trí Thông Minh của Người Xưa đem đến thật nhiều những câu hỏi và thắc mắc, có phải không nào? Chiếc Tàu này cũng thế. Nó di chuyển như thế nào? Hành trình sẽ đưa nó đến đâu? Làm sao nó sống sót qua bão tố và Sụp Đổ? Chà chà, ta không biết nhiều câu trả lời cho lắm, và khác với hầu hết những người kể chuyện, chuyện của Zachry không hề bịa đặt. Bộ lạc sống trên Chiếc Tàu được gọi là Tiên Tri, và họ đến từ một hòn đảo tên là Đảo Tiên Tri. Đảo Tiên Tri lớn hơn Maui, nhỏ hơn Đảo Lớn, và ở xa xa tận biển xanh phương bắc, hơn những gì ta có thể nghĩ bàn.

Thế là Chiếc Tàu thả neo cách Mũi Trường Học khoảng mười sải đá và hai chiếc thuyền nhỏ chui ra từ mũi Chiếc Tàu rồi lướt sóng tiến vào bờ. Mỗi chiếc chở sáu – tám người đàn ông và đàn bà, tất cả đều mặc đồ thông minh, không bị ướt khi gặp nước. Ôi, cái gì ở họ cũng kỳ bí cả. Đàn bà trên tàu cũng giống đàn ông, tóc họ cắt sát, chứ không thắt bím như đàn bà trong làng, trông họ cũng dẻo dai và khỏe hơn. Da họ láng mượt khỏe mạnh, không có những đốm ghẻ, ai cũng có da màu nâu đen óng, trông họ giống nhau hơn so với những người mà các con thấy trên Đảo Lớn. Và Người Tiên Tri cũng không nói nhiều lắm, không hề. Hai người bảo vệ ở lại cạnh chiếc thuyền trên bãi biển và nếu chúng ta hỏi họ, Ngài tên là gì? hoặc Cô đi đâu vậy? thì họ chỉ lắc đầu, như nói, Tôi sẽ không trả lời gì cả, nên đừng hỏi nữa. Một Trí Thông Minh kỳ bí ngăn không cho chúng ta tiến đến gần. Không khí đặc quánh lại đến khi các con không thể đi đến gần hơn. Nó làm con cảm thấy một cơn đau choáng váng nên con sẽ không dám đùa giỡn với nó, không đâu.

Việc trao đổi hàng hóa diễn ra ở Chợ. Người Tiên Tri nói chuyện rất kỳ lạ, không lười lĩnhg và từng chữ một như người Hilo mà đậm đặc và lạnh lùng. Khi họ lên mặt đất, thiên hạ đã kháo nhau và hầu hết mọi nhà đều đã sẵn sàng đẩy hết những giỏ rau quả thịt cá ra Chợ. Người Tiên Tri cũng hứng đầy nước ngọt từ suối vào những chiếc thùng đặc biệt. Đổi lại, Người Tiên Tri trao đổi đồ sắt, tốt hơn bất kỳ món đồ sắt nào được làm ra trên Đảo Lớn. Họ trao đổi rất công bằng và không bao giờ quát nạt như những thổ dân ở Honokaa, cách nói chuyện lịch sự của họ như vẽ ra một đường ranh với người khác, hàm ý, Tôi tôn trọng các bạn vừa đủ nhưng các bạn không phải là thân bằng quyến thuộc của chúng tôi, vì vậy đừng bước qua lằn ranh này, được chứ? Và như thế Người Tiên Tri không bao giờ hỏi tên chúng ta, cũng chẳng bao giờ cho ta biết tên của họ, dù bọn trẻ con chúng ta thường gọi họ bằng biệt danh như Chỉ Huy LùnĐầu BúaChị Xấu và Sloosha’s Crossin’& mọi chuyện về sau 305 bố mẹ chúng ta cũng dùng những biệt danh này khi các vị khách đã quay trở lại Chiếc Tàu.

Phải, Người Tiên Tri đề ra những quy tắc rất nghiêm ngặt khi trao đổi hàng hóa với chúng ta. Họ không trao đổi những món đồ nào Thông minh hơn những gì sẵn có trên Đảo Lớn. Ví dụ như, sau khi Bố bị giết, một buổi họp làng đã thống nhất lập một chốt canh để bảo vệ Đườn mòn Muliwai là con đườn chính của chúng ta từ Sloosha’s Crossin’ vào Chín Thung Lũng. Trưởng lão hỏi Người Tiên Tri có vũ khí đặc biệt gì để bảo vệ chúng ta trước bọn Kona không. Người Tiên Tri nói không. Trưởng lão van nài họ, gần như là thế. Họ vẫn nói không và thế là hết.

Một quy tắc khác là không nói gì với chúng ta về những gì nằm ở phía bên kia đại dương, kể cả Đảo Tiên Tri cũng không, trừ tên của nó. Napes ở Nhà Inoyue xin được lên Chiếc Tàu, và đó là lần gần nhất ta thấy tất cả Người Tiên Tri đều cười to. Chỉ huy của họ nói không và không ai ngạc nhiên cả. Chúng ta chưa bao giờ vượt quá giới hạng những quy tắc này, vì nghĩ rằng họ đã ban cho nền văn minh của chúng ta một vinh dự khi trao đổi hàng hóa với chúng ta. Trưởng lão luôn mời họ ở lại dùng yến tiệc, nhưng người chỉ huy luôn lịch sự từ chối. Họ kéo những món hàng trao đổi được trở lại tàu của mình. Một giờ sau, Chiếc Tàu lên đường, về phía đông vào mùa xuân, về phía bắc vào mùa thu.

Các chuyến thăm diễn ra như thế, đều đặn mỗi năm, kể từ khi bất kỳ ai còn nhớ. Mùa đến, mùa đi, Tàu đến, Tàu đi. Đến năm ta mười sáu tuổi, khi một người phụ nữ Tiên Tri tên là Meronym đến thăm nhà ta trong một khoảng thời gian, và mọi việc không còn như xưa nữa, trong cuộc đời ta, trong Thung lũng, không, mãi mãi không. Trong tất cả những chuyện kể của ta, những chuyện duy nhất ta nghĩ thật sự là của ta chứ không phải cóp nhặt từ những người kể chuyện khác, chính là chuyện ta kể về cô ấy, về Meronym.

Ở mạn trên, phía sau Đèo Vertgbry có một đỉnh núi tên là Tổ Trăng, ở đó có thể nhìn thấy Windward rất rõ từ đồng cỏ Kohala. Vào một buổi chiều mùa xuân lấp lánh, ta đang chăn dê lên Tổ Trăng thì phát hiện Chiếc Tàu đang tiến đến Vịnh Flotilla và đó thực sự là một cảnh tượng đẹp mê hồn, nó có màu xanh giống như màu nước biển và nếu không nhìn thẳng vào nó thì các con sẽ không nhận ra. Bấy giờ ta biết mình phải mau mau đi đến phiên trao đổi hàng hóa nhưng các con thấy đó, ta còn phải chăn đàn dê nữa, và khi ta đến được Chợ thì Người Tiên Tri có lẽ đã ra đi rồi, nên ta ở yên đó và thong dong ngắm nhìn Chiếc Tàu tuyệt diệu của Người Thông Minh, cứ đến rồi đi cùng những con thiên nga và cá voi.

Ừ thì, đó là lý do ta ở lại, là điều ta tự nói với lòng mình, dù lý do thực sự là một cô gái tên Roses đang nhặt lá palila về để mẹ làm thuốc. Chúng ta mê nhau như điếu đổ, và vào buổi chiều vui vẻ đê mê đó, ta đang thưởng thức hai quả xoài mọng nước và chiếc lá sung ẩm ướt của nàng nên sự thật là ta không muốn đi đâu cả, mà Roses cũng không nhặt được nhiều lá palila ngày hôm đó. Chao ôi, các con đang cười và đỏ ửng mặt, ôi những đứa trẻ con, nhưng thời đó là thế đấy, phải rồi, ta cũng như các con bây giờ thôi.

Đến tối khi ta lùa đàn dê về nhà thì thấy mẹ quát tháo ầm ĩ, bồn chồn không yên như con ngỗng đực một cánh và chửi mắng ta thậm tệ, phải nhờ Sussy ta mới hiểu chuyện gì xảy ra. Sau khi trao đổi hàng hóa ở Chợ, thay vì ra dấu để mọi người quay về Tàu như thường làm, chỉ huy Người Tiên Tri muốn nói chuyện riêng với Trưởng lão. Sau một lúc lâu, Trưởng lão rời khỏi cuộc gặp và triệu tập một cuộc họp làng. Dân Thung Lũng từ những nhà lân cận cũng có mặt, trừ Nhà Bailey của chúng ta. Số là mẹ ta cũng không ra Chợ. Vậy là cuộc họp làng diễn ra ở đó. Chỉ huy Người Tiên Tri muốn một cuộc trao đổi hàng hóa đặc biệt năm nay, Trưởng lão nói. Một phụ nữ trên Tàu muốn sống và làm việc trong một nhà trong nửa năm, để tìm hiểu lối sống của chúng ta và hiểu Dân Thung Lũng chúng ta. Đổi lại, chỉ huy sẽ trả cho chúng ta gấp đôi mọi thứ mà chúng ta trao đổi ngày hôm nay. Lưới, nồi niêu, đồ sắt, mọi thứ gấp đôi. Bây giờ hãy nghĩ xem đây là một vinh dự to lớn nhường nào, và hãy nghĩ đến nhữngì chúng ta có thể đổi cho tất cả các món hàng tại Hội chợ Honokaa mùa tới. Thế đấy, chẳng mất nhiều thời gian để có được một tiếng Đồng ý! thật nhanh ở buổi họp làng, và Trưởng lão phải gào lên câu hỏi tiếp theo giữa những tiếng huyên náo. Ai sẽ đón vị khách Tiên Tri của chúng ta? Ô, tiếng Đồng ý! đó nín bặt. Mọi người bỗng dưng có cả tá lý do. Chúng tôi không có đủ chỗ. Chúng tôi sắp có hai đứa con, khách đến sẽ không ngủ ngon. Muỗi quanh khu nhà chúng tôi sẽ đốt cô ấy tơi tả. Volvo Bụi Bặm là kẻ lẻo mép đầu tiên lên tiếng.

Thế ở nhà Bailey thì sao? Thế đấy, cả mẹ ta và ta đều không có ở đó để phản đối kế hoạch này, và nó được tán đồng nhanh chóng. Đúng rồi, họ có phòng trống kể từ sau khi Bố Bailey bị giết mà! Nhà Bailey lấy từ Chợ nhiều hơn đóng góp vào trong mùa thu hoạch trước, phải rồi, đấy là nghĩa vụ của họ! Phải rồi, nhà Bailey cần thêm tay lao động, Mẹ Bailey sẽ rất mừng trước sự giúp đỡ này! Và thế là buổi họp làng đã đạt được thỏa thuận.

Thế đấy, lúc này đến lượt ta trở thành con ngỗng đực một cánh. Người Tiên Tri ăn uống gì? Họ có ngủ trên rơm rạ không? Họ có ngủ không? Sáu con trăng! Mẹ ta quở mắng ta vì không đến buổi trao đổi hàng hóa với Chiếc Tàu, phải rồi, cho dù Mẹ là chỉ huy thật sự của nhà Bailey, nhưng ta là người đàng ông lớn nhất trong nhà nên ta phải chịu trách nhiệm. Ta nói, Thôi được rồi, con sẽ đến nhà Trưởng lão và nói rằng chúng ta không thể đón tiếp một Người Tiên Tri ở đây được… thì có tiếng cốc, cốc, cốc, ở cửa.

Phải, đó là Trưởng lão, dẫn theo Người Tiên Tri đến ở, cùng với Mylo trợ lý trường học. Lúc đó tất cả chúng ta đều biết không thoát được vị khách của làng rồi, dù thích hay không, bây giờ chúng ta không thể nói, Biến đi chỗ khác được, phải không? Như vậy sẽ làm hoen ố thanh danh nhà này và làm các biểu tượng của chúng ta hổ thẹn. Nữ Tiên Tri có mùi Thông Minh chua loét và lên tiếng trước, vì cả ta và mẹ đều bị khóa lưỡi rồi. Xin chào, cô ta nói , tôi là Meronym, và tôi rất cám ơn các bạn đã tốt bụng cho tôi tá túc trong thời gian ở tại Thung lũng. Mylo nhe răng cười mỉa mai và ác độc trước sự lo lắng của ta, ta chỉ muốn giết quách hắn cho xong.

Sussy nhớ lại cung cách của chủ nhà trước, cô bé mời khách của chúng ta ngồi, bảo Jonas đi lấy bia và thức ăn. Meronym nói, Dân tộc chúng tôi có truyền thống tặng những móng quà nhỏ cho chủ nhà khi mới đến thăm, vì thế tôi hi vọng các bạn sẽ không phiền… Cô ta thò tay vào chiếc túi đang đeo rồi lấy quà đưa chúng tôi. Mẹ được tặng một chiếc nồi rất đẹp có giá bằng năm, sáu kiện len ở Honakaa, bà sửng sốt nói không thể nhận một món quà quý như vậy vì tiếp đón người lạ tử tế là lời dặn của Sonmi, đúng vậy, việc đón khách phải miễn phí, nhưng Nữ Tiên Tri đáp những món quà này không phải là lệ phí, không hề, mà đó chỉ là lời cám ơn vì lòng tốt, và Mẹ đã không từ chối chiếc nồi lần nữa. Sussy và Catkin được tặng vòng đeo cổ lấp lánh như sao, chúng tròn xoe mắt thích thú, còn Jonas thì được một chiếc gương hình vuông khiến nó thích mê tơi, nó sáng hơn bất kỳ tấm gương vỡ nào mà các con thỉnh thoảng vẫn bắt gặp đến ngày nay.

Mylo không còn cười như con cóc nữa, nhưng ta không thích chuyện quà cáp này một chút xíu nào, rõ ràng kẻ ngoại bang này đang mua chuộc người thân của ta nhưng sẽ không mua chuộc được ta. Vì thế ta nói Nữ Tiên Tri có thể ở trong nhà chúng ta nhưng ta không muốn nhận quà của cô ta.

Ta nói bằng giọng điệu khá cộc cằn, và Mẹ nhìn ta với ánh mắt hình mũi giáo nhưng Meronym chỉ nói,Tất nhiên là tôi hiểu, như ta đã nói chuyện rất bình thường vậy.

Thế là một đám khách khứa kéo đến náo loạn cả nhà ta tối hôm đó và vài đêm sau nữa, từ thượng chí hạ Chín Thung Lũng, từ gia đình gần đến họ hàng xa cho đến những người bất kể thân sơ, có người chúng ta chỉ mới gặp ở những buổi họp chợ, phải, mọi người từ Mauka đến Mormon rần rần kéo đến gõ cửa để xem Ma Lắm Điều nói có đúng không, rằng Người Tiên Tri thật sự bằng xương bằng thịt đang ở tại Nhà Bailey. Tất nhiên chúng ta phải mời khách vào nhà đến người cuối cùng và họ xuýt xoa trầm trồ như thể Sonmi đang ngồi trong nhà bếp của chúng ta vậy, dù sự kinh ngạc của họ không quá lớng đến mức khiến họ quên không ăn hết thức ăn và uống hết bia, vừa uống vừa tuôn ra cơ man nào là câu hỏi thắc mắc về Người Tiên Tri và Chiếc Tàu tuyệt diệu của họ.

Nhưng điều kỳ lạ là đây. Meronym có vẻ như trả lời các câu hỏi, nhưng câu trả lời của cô ta không làm thỏa mãn trí tò mò, không một mảy may. Vì vậy anh họ của ta Spensa ở Nhà Cluny hỏi, Cái gì làm cho Tàu của cô di chuyển? Người Tiên Tri đáp, Động cơ hỗn hợp. Mọi người đều gật gù hiểu biết như Sonmi, Ô, là động cơ hỗn hợp đấy, phải, không ai hỏi “động cơ hỗn hợp” là gì vì họ không muốn trông như người mọi rợ hoặc ngu xuẩn trước mặt đám đông. Trưởng lão đề nghị Người Tiên Tri chỉ cho chúng ta Đảo Tiên Tri trên một bản đồ thế giới, nhưng Meronym chỉ chấm vào một điểm rồi nói, Ở đây.

Ở đâu? chúng ta hỏi. Thật tình, chẳng có gì ngoài biển xanh và ta đã nghĩ là cô ta đang nhạo báng chúng ta mà thôi.

Đảo Tiên Tri không có trên bất kỳ bản đồ nào làm ra trước Sụp Đổ, Meronym nói, vì những người sáng lập của Đảo Tiên Tri đã giữ bí mật về nó. Nó có trên những bản đồ cổ xưa hơn, đúng vậy, nhưng không có trên bản đồ của Trưởng lão.

Đến lúc này ta đã thu được chút can đảm để hỏi vị khách của chúng ta tại sao Người Tiên Tri với tất cả Trí Thông Minh này nọ lại muốn tìm hiểu về Dân Thung Lũng chúng ta? Chúng ta có thể dạy cô ta cái gì mà cô ta chưa biết? Đầu óc học hỏi là đầu óc sống, Meronym đáp, và bất kỳ Trí Thông Minh nào cũng là Trí Thông Minh thật sự, dù là Trí Thông Minh cũ hay mới, Trí Thông Minh cao hay thấp. Không ai ngoài ta thấy những mũi tên mà những từ có cánh đó bắn ra, hay kẻ gián điệp này đang làm cách nào để lợi dụng sự ngu dốt của chúng ta nhằm che đậy cho ý đồ thực sự của ả, vì thế ta tiếp nối câu hỏi đầu tiên của mình với lá bài này. Nhưng Người Tiên Tri các cô có Trí Thông Minh to lớn và vĩ đại hơn nhiều so với toàn thế giới này chứ, phải không? Ôi, ả thật khôn ngoan khi lựa chọn ngôn từ! Chúng tôi có nhiều hơn các bộ lạc ở Ha-Why, ít hơn Người Xưa trước Sụp Đổ. Thấy chưa? Chẳng nói được gì nhiều cả, phải không?

Ta nhớ ba câu trả lời thật lòng mà cô ta đưa ra. Ruby ở Nhà Potter hỏi tại sao Người Tiên Tri đều có da sậm màu như quả dừa, chúng ta chưa từng thấy một người da trắng hoặc hồng bước ra từ Tàu của họ. Meronym nói tổ tiên cô ta trước Sụp Đổ đã thay đổi nòi giống để tạo ra những đứa bé da đen nhằm phòng ngừa bệnh ghẻ đỏ da, và cứ thế con cái họ cũng có da đen, cha nào thì con nấy, đúng vậy, như thỏ như gà vậy.

Napes ở Nhà Inouye hỏi, cô có chồng chưa, vì anh ta còn độc thân, có một vườn cây hạt mắc ca, và sở hữu đồn điền sung và chanh. Mọi người cười vang, phải, Meronym cũng mỉm cười. Cô ta nói đã từng có một đời chồng, và có một con trai tên là Anafi hiện sống trên Đảo Tiên Tri, nhưng chồng cô ta đã bị thổ dân giết chết nhiều năm trước. Cô ta rất tiếc vì để vuột mất cơ hội làm chủ vườn cây chanh và sung nhưng cô ta đã quá già để đi bước nữa, và Napes lắc đầu thất vọng rồi nói, Ôi, Nữ Tiên Tri, cô làm tim tôi tan nát rồi.

Cuối cùn, em họ ta là Kobbery hỏi, Vậy cô bao nhiêu tuổi rồi? Phải, đó là điều tất cả chúng ta đều thắc mắc. Nhưng không ai ngờ đến câu trả lời của cô ta. Năm mươi. Đúng vậy, cô ta nói như thế và chúng ta đều sửng sốt như các con bây giờ. Năm mươi. Không khí trong nhà bếp thay đổi như gió lạnh ùa đến. Sống đến năm mươi tuổi không phải là chuyện hay ho, không đâu, sống đến năm mươi tuổi là kỳ quái và trái tự nhiên, phải không? Vậy thì Người Tiên Tri sống bao lâu? Melvil ở Black Ox hỏi. Meronym nhún vai. Sáu mươi, bảy mươi… Ô, tất cả chúng ta đều há hốc mồm sửng sốt! Thông thường đến bốn mươi tuổi chúng ta đã cầu xin Sonmi giải thoát chúng ta khỏi khổ đau và mau sớm đầu thai vào cơ thể mới, như cắt cổ một con chó đau ốm mà ta yêu quý vậy. Dân Thung Lũng duy nhất từng sống đến năm mươi tuổi mà không bị bệnh ghẻ đỏ da hoặc chết vì bệnh phổi là Truman Thứ ba, và mọi người đều biết ông ta đã thương lượng với Già Georgie vào một đêm mưa bão, lão ngốc ấy đã bán linh hồn mình để sống thêm vài năm nữa. Ái chà, chuyện này đã lan truyền ra sau đó, và thiên hạ tha hồ mà xì xầm bình phẩm, ai nấy đều thì thầm, Ơn Sonmi cô ta đã không ghé vào nhà của chúng ta.

Ta rất đắc ý khi người khách xấu xa của chúng ta đã dạy mọi người thận trọng và không tin vào lời cô ta, không một chút xíu nào, nhưng đêm hôm ấy ta đã không chợp mắt, vì muỗi và tiếng chim chóc, ếch nhái, và một người bí ẩn đang rón rén quanh khu nhà chúng ta, nhặt món này lên, đặt món kia xuống, và tên của kẻ bí ẩn này chính là Thay Đổi.

Trong ngày thứ nhất, thứ hai và thứ ba, Nữ Tiên Tri luồn lách trong nhà chúng ta. Phải thú nhận cô ta không hề tỏ thái độ của một con ong chúa, cô ta không lười nhác. Cô ta giúp Sussy vắt sữa dê, giúp mẹ ta xe sợi quay tơ và giúp Jonas lấy trứng chim, nghe Catkin kể về chuyện đi học, đi lấy nước rồi chẻ củi và học việc rất nhanh. Tất nhiên những kẻ tò mò vẫn để mắt đến cô ta và khách khứa vẫn kéo đến để gặp người phụ nữ kỳ lạ năm mươi tuổi mà trông như hai mươi lăm. Những kẻ chờ đợi cô ta làm phép đã rất thất vọng vì cô ta chẳng làm gì cả. Mẹ ta không còn lo lắng về Nữ Tiên Tri sau một hai ngày, đúng vậy, bà bắt đầu rỏ ra thân thiện và vui vẻ bắt chuyện với cô ta. Khách Meronym của chúng ta thế này rồi Khách Meronym của chúng ta thế kia, bà cứ huyên thuyên như thế suốt từ sáng đến tối, trong khi Sussy thì còn hơn thế mười lần. Meronym vẫn tập trung làm tròn công việc, dù vào buổi tối cô ta lại ngồi xuống bàn của chúng ta rồi viết trên một tờ giấy đặc biệt, tốt hơn rất nhiều so với giấy của chúng ta. Cô ta viết nhanh khỏi chê, nhưng cô ta không viết bằng tiếng của chúng ta, mà bằng một thứ tiếng nào đó. Thấy chưa, còn nhiều thứ tiếng khác nhau ở Những Nước Cũ, chứ không chỉ có tiếng của chúng ta thôi đâu. Cô viết cái gì vậy, cô Meronym? Catkin hỏi, nhưng Người Tiên Tri chỉ đáp, Những ngày của ta, cô bé xinh đẹp ạ, ta viết về những ngày của ta.

Ta ghét cách cô ta nói người nhà ta xinh đẹp và ta không thích cách các ông già bà cả mò đến hỏi cô ta làm cách nào để sống lâu . Nhưng những gì cô ta viết về Thung lũng thì chẳng Dân Thung Lũng nào đọc được, đó là điều khiến ta lo lắng nhất. Đó là Trí Thông Minh hay ghi chép theo dõi hay là Già Georgie?

Vào một buổi bình minh mờ khói, ta vừa vắt xong sữa dê vì Sussy bị ốm nằm bẹp trên giường thì vị khách của chúng ta đề nghị đi chăn dê cùng ta. Mẹ nói tất nhiên là được rồi. Ta thì không nói thế, ta đáp, lạnh lùng và khô khan, Chăn dê chả có gì hay ho với người có nhiều Trí Thông Minh như cô đâu. Meronym lịch sự đáp, Bất cứ việc gì Dân Thung Lũng làm đều thú vị đối với tôi, chủ nhà Zachry ạ, nhưng tất nhiên nếu cậu không muốn tôi nhìn cậu làm việc thì cũng không sao, cứ nói thẳng ra như vậy. Thấy chưa? Lời lẽ của cô ta như những đô vật trơn nhùi nhụi ấy, chúng lật câu khôngcủa các con thành . Mẹ đang nhìn ta lom lom vì thế ta nói, Thôi được rồi, đi thì đi, ta phải nói thế.

Lùa đàn dê lên Đường mòn Elepaio, ta chẳng nói chẳng rằng gì nữa. Qua Nhà Cluny một người anh em của ta là Gubboh Hogboy gọi to,Khỏe không, Zachry! nhưng nhác thấy Meronym cậu ta lúng búng và chỉ nói, Đi cẩn thận nhé, Zachry. Ôi, ta ước gì có thể bỏ lại người phụ nữ đó sau lưng, thế là ta nói, Đừng lẽo đẽo theo nữa, đồ dai như đỉa với mấy con dê của ta và bước đi nhanh hơn, hi vọng làm cho cô ta mệt, ấy thế mà lên thượng nguồn qua Đèo Vertgbry rồi mà cô ta vẫn chẳng bỏ cuộc, không hề, kể cả con đường đá lởm chởm dẫn lên Tổ Trăng. Người Tiên Tri cũng dẻo dai sức lực tương đương với mục đồng, ta rút ra kết luận như thế. Ta đoán là cô ta biết ta nghĩ gì và đã cười nhạo ta, trong lòng, nên ta chẳng nói gì với cô ta nữa.

Cô ta làm gì khi chúng ta lên đến Tổ Trăng? Cô ta ngồi lên tảng Đá Ngón Cái rồi lấy ra quyển sổ ghi chép và vẽ lại khung cảnh đẹp mê hồn đó. Ôi, Meronym vẽ đẹp tuyệt – ta phải thừa nhận là rất Thông Minh. Trên trang giấy đó Thung lũng Chín Dải hiện lên cùng với đường bờ biển và mũi biển, cao nguyên và vùng đất thấp, trông giống hệt như thật vậy. Ta không muốn cho cô ta thấy mình quan tâm nhưng không thể kiềm chế bản thân. Ta gọi tên mọi thứ mà cô ta đã vẽ lại, và cô ta viết xuống những cái tên này cho đến khi trên giấy có một nửa là hình vẽ và một nửa là chữ viết. Chính xác là thế, Meronym nói, đây là một bản đồ.

Lúc này. Ta nghe tiếng một cành khô gãy trong bụi dương xỉ sau lưng chúng ta. Không phải là tiếng gió bất chợt, không, chắc chắn là do một cái chân giẫm lên, nhưng chân người hay chân thú thì ta không biết. Chưa từng nghe bọn Kona xuất hiện trên Windward Kohala nhưng cũng chưa bao giờ có chuyện Kona xuất hiện ở Sloosha’s Crossin’, vì thế ta đi vào bụi rậm để xem. Meronym muốn đi với ta nhưng ta bảo cô ở yên. Có phải là Già Georgie quay lại để hóa đá linh hồn ta thêm một chút không? Hay chỉ là một người Mookini sống ẩn dật đi lang thang tìm thức ăn? Ta cầm thanh giáo lên rồi bò xuống gần bụi dương xỉ, tiến đến gần hơn nữa…

Roses đang ngồig bắt qua một gốc cây to bám rêu xanh. Thấy anh có bạn mới rồi ha, nàng lịch sự nói, nhưng trong mắt hiện lên vẻ tức tối của loài chó hoang.

Cô ta hả? ta chỉ về phía Meronym, bấy giờ đang ngồi quan sát cuộc nói chuyện của bọn ta. Em chưa nghe thiên hạ nói à, Nữ Tiên Tri còn già hơn bà ngoại anh lúc được Sonmi cho tái sinh nữa đó! Đừng ghen vớicô ta làm gì! Cô ta không giống như em đâu, Roses à. Cô ta có nhiều Trí Thông Minh trong đầu đến nỗi cổ cô ta muốn gãy luôn rồi.

Roses bây giờ không còn lịch sự nữa. Vậy hóa ra là tôi không có Trí Thông Minh à?

Đàn bà, ôi, đàn bà! Họ sẽ tìm ra ý nghĩa xấu nhất trong lời nói của ta rồi nhớ hoài trong bụng và nói, Nhìn xem anh tấn công tôi bằng cái gì! Dù ta là người nóng nảy nhưng ta nghĩ chỉ cần khéo léo một chút để xoa dịu Roses. Em biết là anh không có ý đó mà, em gái khờ kh…

Ta chưa nói hết câu đã bị Roses đấm một cái trời giáng vào mặt, mạnh đến nỗi mặt đất lao về trước và ta ngã phịch xuống mông. Ta quá bàng hoàng đến nỗi chỉ biết ngồi đó như một đứa bé bị ngã, đưa tay sờ mũi thấy ngón tay đỏ hoét. Ô, Roses nói , rồi tiếp Ha! rồi, Muốn nói nhăng nói cuội với mấy con dê cái của anh thế nào cũng được, anh chàng mục đồng à, nhưng với tôi thì không, coi chừng Già Georgie hóa đá linh hồn anh đó! Đó là lời nguyền kinh khủng nhất mà Dân Thung Lũng biết đến. Tình cảm yêu đương mặn nồng chúng ta dành cho nhau đã nát tan thành triệu mảnh và Roses bỏ đi, đung đưa chiếc giỏ mây.

Nỗi thảm hại và bẽ bàng thèm khát một chỗ để trút giận, và ta đổ lỗi cho việc mất Roses lên Người Tiên Tri khốn kiếp. Sáng hôm đó trên Tổ Trăng ta đứng dậy lùa bầy dê rồi lùa chúng lên Bãi cỏ Ngón Cái mà không thèm chào từ biệt Meronym. Cô ta có đủ Trí Thông Minh để mặc kệ ta, nhớ là cô ta đã có một đứa con trai ở Đảo Tiên Tri.

Khi ta quay về nhà tối hôm đó, mẹ, Sussy và Jonas đang ngồi quây quần. Họ thấy cái mũi của ta và nhìn nhau ranh mãnh. Cây dẻ ngựa của anh bị làm sao thế, anh trai? Jonas hỏi vẻ trêu tức. Cái mũi này ấy hả? À, anh bị ngã dập mũi ở trên Tổ Trăng ấy mà, ta nói nhanh với nó.

Vẻ mặt Sussy giống như cười khẩy. Không phải anh nói là anh dập mũi ở Tổ Roses đấy chứ, anh Zachry? và cả ba người cười rung rinh như một đàn dơi hét khiến ta đỏ phừng phừng. Sissy nói đã nghe chuyện về Roses vì Wolt nói lại với Bejesus rồi Bejesus gặp Sissy, nhưng thực sự ta chẳng nghe thấy gì, ta đang nguyền rủa để Meronym bị Già Georgie cho biết tay, và ta không dừng lại, may là cô ta không ngủ lại Nhà Bailey tối đó, cô ta đang học cách dệt vải ở nhà Thím Bees.

Vậy là ta đi xuống biển rồi ngắm Bà Trăng để xoa dịu nỗi khổ sở cuồn cuộn trong lòng. Ta nhớ có một con rùa xanh bò lên bờ để đẻ trứng, và ta suýt đâm một nhát giáo vào con rùa ngay tại đó vì căm phẫn, thì đấy, nếu cuộc đời quá bất công với ta tại sao lại không bất công với một con vật? Nhưng ta nhìn vào mắt nó, đôi mắt xưa cũ đến nỗi chúng có thể nhìn thấy cả tương lai, đúng vậy, vì thế ta thả nó đi. Gubbohg và Kobbery đem theo ván đến rồi bắt đầu lướt sóng trên làn nước long lanh ánh sao, Kobbery lướt sóng tuyệt đẹp, họ gọi ta ra chơi cùng nhưng ta chẳng có tâm trạng lướt sóng tí nào, ta còn nhiều chuyện nghiêm túc cần giải quyết.

Một giáo viên từ Thung Lũng Cuối ở lại dạy học tại trường đưa ta vào nhà, rót rượu cho ta rồi đi tìm Trưởng lão đang ở ngoài chợ. Chỉ có tiếng lửa lách tách và tiếng sóng biển ì ầm phía dưới ở Mũi Flotilla. Trưởng lão bước vào, bà đang dở tay mổ gà, Nghe thiên hạ nói là cậu đang đón tiếp vị khách đặc biệt của chúng ta rất chu đáo,khiến ta ngạc nhiên.

Thế ạ? Ừm, thật ra chính vị khách đặc biệt này đang làm cháu lo lắng đây, ta đáp.

Vậy sao? Trưởng lão hỏi. Chuyện thế nào?

Vâng, bà có biết cô ta đang bí mật vẽ bản đồ về các Thung lũng của chúng ta không? ta hỏi.

À, ý cậu là những cái thế này hử? Trưởng lão hỏi, giơ lên tấm bản đồ giống như Meronym đã vẽ trên Tổ Trăng sáng hôm đó.

Cô ta tặng trường cái này để biết về hình dáng kích thước của đất đai chúng ta.

Chà chà, việc này khiến ta giận sôi máu, nhưng ta vẫn kiềm nén. Cô ta ghi chép những gì học được về Dân Thung Lũng vào một quyển sổ, nhưng không viết bằng thứ tiếng bình thường, đó là thứ tiếng gián điệp mà ngoài cô ta ra không ai đọc được. Chuyện này cũng chẳng làm Trưởng lão lo lắng. Trước Sụp Đổ có hàng chục thứ tiếng khác nhau được nói trên khắp Ha-Why, và hàng trăm thứ tiếng nữa được nói trên toàn Thế giới. Nghe này, Zachry, Trưởng lão nói với ta, nếu Đảo Tiên Tri cũng cho ta ở lại, thì ta sẽ viết lại trí nhớ bằng tiếng của mình, vậy thì tại sao khách của chúng ta không được viết bằng thứ tiếng của cô ta trên Đảo Lớn này?

Thưa trưởng lão, cuối cùng ta nói lại, bà không nghi ngờ những Người Tiên Tri này có vấn đề sao? Vẽ bản đồ có thể là phần một của cuộc xâm chiếm chúng ta. Giả sử họ muốn đuổi chúng ta khỏi mảnh đất này thì sao? Giả sử họ có một thỏa thuận bí mật với bọn Kona? Ý cháu là, chúng ta chẳng biết gì về họ cả, không, chẳng biết gì cả.

Trưởng lão nghe nhưng không tin ta, bà nghĩ ta chỉ đang trốn tránh việc tiếp đãi Meronym. Cậu đã nhìn thấy Chiếc Tàu, cậu đã nhìn thấy những món đồ sắt, và cậu đã chứng kiến một chút Trí Thông Minh mà họ thể hiện với chúng ta. Nếu Người Tiên Tri định xâm chiếm Chín Thung Lũng, cậu có thực sự nghĩ rằng chúng ta vẫn còn ngồi đây để bàn chuyện đó không? Hãy cho ta bằng chứng rằng Meronym đang âm mưu giết tất cả chúng ta trong lúc ngủ, ta sẽ triệu tập một cuộc họp. Nếu cậu không có bằng chứn thì hãy giữ mồm giữ miệng. Đưa ra những lời cáo buộc dành cho một vị khách đặc biệt, làm thế không được lịch sự cho lắm, Zachry à, và bố của cậu sẽ không hài lòng đâu.

Trưởng lão của chúng ta chưa bao giờ ra vẻ ta-nói-thế-thì-sẽ-thế với ai, nhưng các con biết khi nào thì cuộc nói chuyện kết thúc. Vậy là xong, thế đấy, ta chỉ có một mình, phải. Zachry chống lại Người Tiên Tri.

Ngày mọc rồi lặn, mùa hè hun nóng xanh rì và sủi bọt. Ta theo dõi Meronym len lỏi khắp Thung lũng, gặp gỡ người này người kia để tìm hiểu cách chúng ta sống, những món chúng ta sở hữu, bao nhiêu người biết chiến đấu, rồi vẽ bản đồ những con đèo đi vào Thung lũng qua Kohala. Một hoặc hai người già và biết chuyện hơn, ta thử dò la xem họ có nghi ngờ hay lo lắng gì về Người Tiên Tri này không, nhưng khi ta nói đến xâm lược hay tấn công, họ ném cho ta và lời cáo buộc của ta ánh mắt sửng sốt và ngạc nhiên, vì vậy ta bị bẽ mặt và câm miệng lại, thế đấy, ta không muốn lời ong tiếng ve bôi xấu hình ảnh mình. Ta cần giả vờ lễ độ một chút với Meronym để cô ta mất cảnh giác và làm rơi chiếc mặt nạ thân thiện đó một chút rồi cho ta xem âm mưu thực sự của cô ta đằng sau chiếc mặt nạ đó, phải, cho ta một ít bằng chứng để ta có thể đưa ra cho Trưởng lão và triệu tập một cuộc họp làng.

Ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chờ đợi và nghe ngóng. Meronym thật sự được mọi người quý mến. Đàn bà con gái tâm sự chuyện của họ với cô ta vì cô ta là người ngoài và không tiết lộ bất kỳ bí mật nào với Ma Lắm Điều. Một con chó đen không có tên lang thang ở Thung lũng Elepaio bắt đầu lẽo đẽo theo cô ta và được cô ta đặt tên là Pythagras hay tên gì đó rất khó nhớ, bọn ta chỉ gọi nó là Py, cho nó ăn cơm thừa cá cặn và nó trông chừng đàn dê buổi tối. Thấy chưa? Ngay cả chó hoang Thung lũng cũng đổi đời nhờ Người Tiên Tri quỷ tha ma bắt đó. Trưởng lão nhờ vị khách này dạy đếm số ở trường và Meronym đồng ý. Catkin nói cô ta dạy rất hay, nhưng chẳng dạy cho chúng cái gì khác với Trí Thông Minh của chính Trưởng lão, mặc dù Catkin biết cô ta có thể làm thế nếu muốn. Vài đứa học trò thậm chí còn bôi mực lên mặt để cho đen giống Người Tiên Tri nhưng Meronym bảo chúng phải rửa sạch, nếu không cô ta sẽ không dạy gì cho chúng cả, vì văn minh Trí Thông Minh chẳng liên quan gì đến màu da cả.

Vào một buổi tối khi ngồi bên hiên nhà, Meronym thắc mắc về các biểu tượng. Biểu tượng có phải là nơi linh hồn nương náu không? Hay chỉ là một kỷ niệm chung về những khuôn mặt, người thân và tuổi tác? Hay là một lời nguyện đến Sonmi? Hay là một bia mộ viết trong kiếp này với thông điệp dành cho kiếp sau? Thấy đấy, Người Tiên Tri lúc nào cũng tại sao với cái gì, chẳng bao giờ đủ. Duophysite ở đây cũng giống như ở Maui, phải không? Chú Bees định trả lời nhưng rồi lại thôi, ông thừa nhận mình biết chính xác Biểu tượng là gì cho đến đúng khoảnh khắc ông định giải thích về chúng. Thím Bees nói Biểu Tượng Tháp cất giữ cả quá khứ lẫn hiện tại của Dân Thung Lũng. Thường thì ta không đọc được suy nghĩ của người khác đâu, nhưng vào giây phút đó ta thấy Nữ Tiên Tri thắc mắc, À ha, vậy thì Biểu Tượng Tháp này ta phải đến xem mới được. Không, ta chẳng nói gì, nhưng sáng hôm sau ta đi xuống Bãi Xương rồi nấp sau tảng Đá Tự Sát. Là thế này, ta nghĩ nếu mình có thể bắt quả tang kẻ ngoại bang bất kính với các biểu tượng của chúng ta, hoặc hay hơn nữa là sờ mó một cái, thì ta có thể kêu gọi những bậc cao niên trong làng chống lại cô ta, từ đó mở mắt cho người dân và bà con họ hàng ta về âm mưu thực sự của Người Tiên Tri.

Thế là ta ngồi đó chờ đợi bên Đá Tự Sát, nghĩ đến những người mà Già Georgie đã xô từ trên đây xuống bọt biển gầm gào bên dưới. Sáng hôm đó gió lớn, phải, ta nhớ rất rõ, cỏ dại trên cát ngả nghiêng, những bụi hoa máu tả tơi, còn sóng biển thì quất rào rào vào bờ. Ta ăn một chút bánh nấm đem theo làm đồ ăn sáng, nhưng chưa kịp ăn xong thì đoán xem ta thấy ai đang đi đến Biểu Tượng Tháp, còn ai ngoài Meronym nữa, phải, Napes từ Nhà Inouye. Đang ba hoa chích chòe và thân thiết như đã quen từ kiếp trước! Ôi, mặt mũi ta bắt đầu xây xẩm! Chẳng lẽ Napes lại xung phong làm cánh tay mặt của kẻ ngoại bang? Chẳng lẽ hắn ta đang có ý đồ thay thế Trưởng lão làm lãnh đạo của Chín Thung Lũng sau khi Người Tiên Tri truy đuổi chúng ta trên khắp Kohala và dồn chúng ta xuống biển bằng Trí Thông Minh hiểm độc của bọn họ?

Napes có sức hút, phải, mọi người đều yêu mến hắn, những câu chuyện đùa và nụ cười của hắn. Nếu ta có lưỡi dê thì Napes có cái lưỡi dụ hoặc được người. Không thể đi tin vào những kẻ có miệng lưỡi khôn khéo như hắn được. Napes và Meronym tiến vào Biểu Tượng Tháp, hiên ngang như một cặp gà trống. Chó Py đợi bên ngoài theo lời dặn của Meronym.

Nhẹ như không ta lẻn vào sau họ. Py quan sát ta, nói, Tôi đang để mắt đến cậu đấy, Zachry nhưng nó không sủa. Napes đã chặn cửa mở để ánh sáng lọt vào nên nó không phát ra tiếng động nào khi ta rón rén vào sau họ. Từ những ngăn kệ tối tăm nơi cất giữ những biểu tượng xưa nhất, ta nghe Napes thì thầm. Ý đồ và âm mưu, ta biết ngay mà! Ta lẻn đến gần hơn để nghe cho rõ.

Nhưng Napes chỉ đang ba hoa về ông của hắn tên là Truman, phải, chính là Truman Thứ ba vẫn còn đi qua những câu chuyện kể trên Đảo Lớn ở Maui này. Có vẻ như Meronym tò mò, vì thế Napes chỉ cho cô ta biểu tượng của Truman Thứ ba rồi khoe khoang chuyện người thân lâu đời của mình từng leo lên Mauna Kea. Phải, vẫn là câu chuyện đó! À, nếu bọn trẻ các con không biết chuyện về Truman Napes thì bây giờ đến lúc rồi đấy, vì vậy hãy ngồi yên, kiên nhẫn và đưa cho ta thuốc hút nào.

Truman Napes từng làm nghề săn đồ cổ vào cái thời mà vật dụng của Người Xưa còn xả khắp các hẻm núi. Vào một buổi sáng nọ, một ý tưởng nảy ra trong đầu lão rằng Người Xưa có thể đã cất giữ những vật dụng quý giá trên Mauna Kea để giữ an toàn. Ý tưởng này không ngừng lớn lên và đến tối hôm đó, Truman đã quyết tâm sẽ leo lên ngọn núi đáng sợ đó để xem có gì, đúng vậy, và lên đường ngay ngày hôm sau. Vợ lão bảo, Ông điên rồi, trên Mauna Kea chẳng có gì ngoài Già Georgie và những ngôi đền của lão ẩn trong những bức tường khép kín. Lão sẽ không cho ông vào trừ phi ông đã chết và linh hồn ông thuộc về lão. Truman chỉ đáp, Ngủ đi, bà già thần kinh, những chuyện mê tín dị đoan đó chẳng cái nào đúng cả, thế là lão đi ngủ rồi thức dậy và khởi hành khi trời vừa tờ mờ sáng trên Thung lũng Waipio.

Truman dũng cảm trèo đèo lội suối trong ba ngày liền và đã trải qua nhiều mạo hiểm mà ta không có thời gian để kể cho các con nghe, nhưng lão đã sống sót qua tất cả cho đến khi lên được đến đỉnh núi ma quỷ đáng sợ chìm trong mây đó, đứng ở bất kỳ đâu trên Đảo Lớn các con cũng có thể nhìn thấy ngọn núi này, lão ở tít trên cao nên không thể nhìn thấy thế giới bên dưới. Ở đó đầy tro bụi, đúng vậy, không một chấm xanh, triệu triệu cơn gió xéo xắt thổi khắp nơi như những con chó rừng bị dại. Lúc bấy giờ bước chân của Truman bị chặn lại trước một bức tường bằng sắt kỳ lạ, cao hơn những cây gỗ đỏ, bao quanh toàn đỉnh núi và kéo dài hàng dặm. Truman đi cả ngày quanh đó để tìm một kẽ hở, vì không thể trèo lên trên hoặc đào xuống dưới, nhưng đoán xem lão tìm thấy gì trước khi trời tối nào? Một người thuộc bộ tộc Hawi, đúng vậy, đang mặc áo khoác trùm mũ co ro trước gió, ngồi xếp bằng sau một tảng đá và hút ống tẩu. Người Hawi này cũng là một người săn đồ cổ lên Mauna Kea vì cùng một lý do như Truman, các con có tin được không? Nơi này quá vắng vẻ nên Truman và người Hawi đó quyết định lập thành một đội và chia đều bất kỳ vật dụng nào mà họ tìm được, năm mươi-năm mươi.

Chà, vận may của Truman thay đổi ngay ở khoảnh khắc tiếp theo, đúng vậy. Những đám mây dày đặc trở nên sũng nước và mỏng dần, những cánh cổng sắt hình vòm trên bức tường khép kín đó rung rinh rồi gầm lên một tiếng và tự tách ra. Qua cánh cổng đó, Truman không biết đó là Trí Thông Minh hay phép màu nữa, người anh hùng của chúng ta thấy một cụm đền kỳ lạ, đúng như truyền thuyết kể lại, nhưng Truman không sợ, không hề, lão sướng rơn khi nghĩ đến hết thảy những vật dụng cổ xưa quý hiếm và suy nghĩ xem có gì bên trong chúng. Lão vỗ lưng người Hawi, nói, Hây dà, hô hô, chúng ta giàu hơn vua chúa và thượng nghị sĩ trước Sụp Đổ rồi, người anh em Hawi! Dù nếu Truman Napes giống như cháu nội của mình, chắc hẳn lão cũng đang tính toán làm cách nào để giữ đống của cải vơ vét được ấy cho riêng mình.

Nhưng người Hawi không cười, không hề, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng bên dưới mũ choàng. Người anh em Thung lũng à, giờ an nghỉ của tôi cuối cùng cũng đến rồi.

Truman Napes không hiểu. Mặt trời chưa lặn mà, ý ông là sao? Tôi chưa thấy buồn ngủ lắm, sao ông buồn ngủ rồi?

Nhưng người Hawi bước qua cánh cổng rùng rợn ấy. Truman bây giờ không hiểu gì cả, và gọi với theo, Chưa đến giờ đi ngủ mà, người anh em Hawi! Giờ là lúc thu hoạch những vật dụng quý của Người Xưa!Truman đi theo người săn đồ cổ vào trong khu khép kín lặng như tờ đó. Những tượng đá đen méo mó nằm ở khắp nơi còn bầu trời thì tối sầm vần vũ. Người Hawi quỳ xuống cầu nguyện. Trái tim Truman chợt lạnh run, là thế này, một bàn tay lạnh của gió đã giở chiếc mũ trùm của người Hawi đang quỳ ấy ra. Truman nhìn thấy bạn của mình là một tử thi chết đã lâu, nửa xương xẩu nửa giòi bọ lúc nhúc, và bàn tay lạnh của gió đó chính là bàn tay của Già Georgie, đúng vậy, con quỷ đang đứng đó vẫy một chiếc thìa cong vênh. Mi có đau đớn và cô đơn ở bên ngoài không, hỡi kẻ đặc biệt của ta, chúa tể ác quỷ nói với người Hawi, đi lang thang trên mảnh đất của người sống với một tâm hồn hóa đá và đã chết? Sao mi không nghe lời triệu hồi của ta sớm hơn, hỡi kẻ ngu ngốc? Sau đó Già Georgie cắm chiếc thìa cong của lão vào hai hốc mắt của người Hawi, rồi múc ra linh hồn người đó, dịch não nhỏ giọt, rồi nhai nó, đúng vậy, nó vỡ ra giữa hai hàm răng ngựa của lão. Người Hawi gập người lại và đột ngột chỉ còn là một tảng đá màu đen vặn vẹo.

Già Georgie nuốt linh hồn người Hawi, chùi mép, ợ một tiếng rồi bắt đầu lên đồng. Những linh hồn mọi rợ, vừa ngon lại vừa thơm, con quỷ đó đọc thơ, nhảy nhót tiến đến Truman, quả óc chó ngâm muối, rượu chua nhất trần đời. Truman không nhúc nhích được tay chân, cảnh tượng đó kinh dị quá mà. Nhưng linh hồn Dân Thung Lũng là tinh khiết và mạnh mẽ, tan chảy như mật trên đầu lưỡi ta. Hơi thở của ác quỷ có mùi tanh khẳm. Năm mươi-năm mươi thỏa thuận nói thế. Già Georgie liếm chiếc thìa cong của lão. Mi có muốn nửa của mình lúc này, hay khi mi chết, hỡi Truman Napes Thứ ba của Thung lũng Mormon?

Chà, lúc này, Truman đã nhúc nhích được và ba chân bống cẳng chạy thục mạng rồi ngã nhào ở cánh cổng ghê rợn, rồi trượt xuống ngọn núi lởm chởm đá đó không dám ngoái lại nhìn dù chỉ một lần. Khi lão quay về Thung lũng mọi người há hốc kinh ngạc nhìn lão ngay cả trước khi lão lên tiếng kể về chuyến thám hiểm của mình. Trước đây tóc của Truman đen như quạ, nhưng bây giờ nó bạc hơn bọt sóng. Từng sợi tóc một.

Các con hẳn còn nhớ ta, Zachry, lúc đó đang cuộn người trong chỗ ẩn nấp ở Biểu Tượng Tháp, nghe Napes kể lại truyền thuyết đó cho vị khách không mời mà đến và chỉ cho Meronym những biểu tượng các đời trong gia đình hắn. Hắn dạy cô ta ý nghĩa và cách dùng của chúng một lúc, sau đó Napes nói hắn sẽ đi sửa lưới, rồi bỏ đi để lại Meronym một mình. Hắn chưa đi được bao lâu thì Người Tiên Tri đã nói vọng ra từ bóng tối, Vậy cậu nghĩ sao về Truman, hả Zachry?

Ối trời ơi, ta giật bắn mình, thật không thể ngờ cô ta biết ta đang ở đó nghe trộm! Nhưng cô ta giả vờ nói bằng giọng như thể không cố ý làm ta bẽ mặt hay xấu hổ vậy, không hề, cô ta giả vờ nói cứ như hai chúng ta cùng đi vào Biểu Tượng Tháp với nhau. Cậu có nghĩ chuyện về Truman chỉ là chuyện thêu dệt ngu ngốc của mấy bà già không? Hay cậu thấy có một ít sự thật trong đó? Giả vờ ta không ở đấy cũng chẳng ích gì, vì cô ta đã biết ta đang ở đấy, không việc gì phải sợ. Ta đứng dậy rồi đi qua các kệ đến nơi Người Tiên Tri đang ngồi vẽ biểu tượng. Mắt ta cú vọ hơn trong ánh sáng lờ mờ và bây giờ ta đã có thể thấy khuôn mặt Meronym rõ hơn. Nơi này có chúa tể của các thánh thần, ta nói với cô ta. Cô đang ở trong nơi trú ngụ của Sonmi. Người ngoạig bang không được phép bén mảng đến các biểu tượng của chúng tôi.

Tuy ta như thế nhưng Meronym vẫn tỏ ra lịch sự. Tôi đã xin phép Trưởng lão để được vào đây. Bà nói tôi có thể vào. Tôi không sờ vào biểu tượng nào ngoài biểu tượng của gia đình Napes. Anh ta nói tôi có thể làm thế. Hãy giải thích tại sao cậu lại không vui như thế, Zachry. Tôi muốn hiểu nhưng tôi không thể.

Thấy chưa? Người Tiên Tri quỷ tha ma bắt ấy tiên đoán được sự tấn công của các con trước khi các con nghĩ ra nó! Cô có thể lừa được Trưởng lão của chúng tôi, ta nói với cô ta, lúc này giọng ta rất lãnh đạm và cộc cằn, và cô có thể lừa Mẹ và gia đình ta và cả Chín Thung lũng chết tiệt này nhưng cô sẽ không thể lừa được ta đâu, không bao giờ, đừng hòng! Ta biết cô không nói toàn bộ sự thật! Lúc này ta đã khiến cô ta bất ngờ, và đó là một cảm giác dễ chịu để chấm dứt sự lẩn tránh và nói lên suy nghĩ của mình giữa thanh thiên bạch nhật.

Meronym vẻ như nhíu mày. Tôi không nói toàn bộ sự thật về cái gì? Phải, ta đã dồn Nữ hoàng Thông Minh vào đúng góc rồi.

Về việc tại sao cô lại ở đây sục sạo đất đai của chúng tôi! Sục sạo cách sống của chúng tôi! Sục sạo chúng tôi!

Meronym thở dài rồi đặt biểu tượng của Napes trở lại trên kệ. Vấn đề ở đây không phải là một phần sự thật hay toàn bộ sự thật, Zachry ạ, mà là làm hại hay không làm hại, phải. Điều cô ta nói tiếp theo là mũi giáo đâm thủng ruột gan ta. Chẳng phải chính cậu cũng có một bí mật khiến cậu đang che giấu “toàn bộ sự thật” này với mọi người sao, Zachry?

Suy nghĩ của ta trở nên mơ hồ. Làm sao cô ta biết về Sloosha’s Crossin’? Đó là chuyện nhiều năm về trước rồi! Người Tiên Tri có cấu kết với bọn Kona không? Họ có Trí Thông Minh gì để đào sâu xuống những nỗi hổ thẹn chôn chặt trong tâm trí hay không? Ta lặng im không nói.

Tôi thề đấy, Zachry, cô ta nói , tôi tuyên thệ trước Sonmi…

Ôi, ta hét lên với cô ta , người ngoại bang và thổ dân thậm chí còn không tin vào Sonmi vì thế đừng làm hoen ố hồng danh của Sonmi bằng miệng lưỡi cô!

Meronym nói chuyện từ tốn và nhẹ nhàng như thường lệ. Ta đã sai hoàn toàn rồi, cô ta nói, cô ta tin vào Sonmi, đúng vậy, thậm chí còn nhiều hơn cả ta nữa, nhưng nếu ta muốn, cô ta sẽ thề trên con trai cô ta, Anafi. Trên vận may và số mạng của nó, cô ta thề, không một Người Tiên Tri nào âm mưu hãm hại bất kỳ Dân Thung Lũng nào, và mãi mãi không bao giờ, và Người Tiên Tri tôn trọng bộ lạc của ta hơn những gì ta biết rất rất rất nhiều. Cô ta hứa khi có thể kể toàn bộ sự thật với ta, cô ta sẽ kể.

Rồi cô ta bỏ đi, đem theo chiến thắng của cô ta. Ta ở lại một lúc để thăm biểu tượng của Bố, nhìn khuôn mặt ông khắc vào gỗ, ta như nhìn thấy ông nằm trên dòng sông Elepaio. Ôi, những giọt nước mắt hổ thẹn và tiếc nuối tuôn chảy. Ta sẽ trở thành người đứng đầu của Nhà Bailey, nhưng ta còn thua một con cừu nhát gan và hèn nhát hơn cả một con thỏ bị mắc bẫy.

Hãy đem bằng chứng đến đây, hỡi Dân Thung Lũn, Trưởng lão đã nói, nếu không thì hãy giữ mồm giữ miệng, thế là bây giờ từng phút từng giây ta đều nghĩ đến cách để lấy được bằng chứng, và nếu ta không thể có được nó một cách danh dự thì mặc kệ nó, ta sẽ phải giở trò để có được nó. Vài ngày sau, gia đình ta đến thăm Thím Bees, với Meronym, vì cô ta đang học cách lấy mật ong. Ta chăn dê xong sớm, khi mặt trời còn ở trên Kohala, sau đó ta lẻn vào phòng của người khách trọ để tìm kiếm chiếc túi đựng vật dụng của cô ta. Không mất nhiều thời gian, Nữ Tiên Tri cất nó dưới phản. Bên trong là những món quà nhỏ giống những món cô ta đã tặng cho chúng ta khi mới đến, nhưng cũng có vài món vật dụng Thông Minh. Vài chiếc hộp không kêu leng keng nhưng cũng không có nắp nên ta không thể mở được, một công cụ gì đấy rất kì lạ, trơn như xương dê nhưng màu xám và nặng như đá nham thạch, hai đôi ủng được làm rất tinh xảo, ba-bốn quyển sổ chứa đầy hình vẽ và ghi chép nhưng không phải về Đảo Lớn, có cây cối chim chóc mà ta chưa bao giờ thấy ngay cả trong mơ. Vật cuối cùng là kỳ lạ nhất.

Một quả trứng to màu bạc, cỡ đầu em bé, có những chỗ lõm và dấu vết để đặt ngón tay lên. Nó nặng một cách kỳ lạ và không lăn. Ta biết nghe không có lý lắm, nhưng những lời thêu dệt về Trí Thông Minh của Người Xưa, những ngôi nhà biết bay, việc nuôi em bé trong chai và những bức ảnh thu hình toàn bộ Thế giới cũng chẳng có lý chút nào nhưng sự thực là thế, như những người kể chuyện và sách cũ đã kể. Thế là ta ôm quả trứng bạc đó trong tay, và nó bắt đầu rung lên rồi phát sáng, phải, như nó là một sinh vật sống vậy. Ta vội thả quả trứng ra, nó nằm im. Có phải hơi ấm bàn tay ta khiến nó chuyển động không?

Ta quá tò mò, bèn cầm nó lần nữa, và quả trứng rung lên ấm dần cho đến khi một ma nữ hiện ra ở đó! Phải, một ma nữ, ngay phía trên quả trứng, thật cũng giống như ta đang ngồi đây, đầu và cổ cô ta cứ nổi ở đó, như ảnh phản chiếu trên mặt nước dưới ánh trăng và cô ta đang nói! Giờ đây ta bắt đầu sợ và thả tay ra khỏi quả trứng bạc nhưng ma nữ vẫn ở lại.

Cô ta làm gì? Không làm gì cả, chỉ nói và nói, như ta đang nói với các con đây. Nhưng cô ta không phải là một người kể chuyện bình thường, không, cô ta nói bằng thứ tiếng của Người Xưa, và không có biểu diễn gì cả, chỉ trả lời những câu hỏi mà một giọng nam khàn khàn đặt ra, dù anh ta không xuất hiện. Cứ mỗi năm-sáu từ thì ta lại hiểu một từ. Môi của ma nữ cố định một nụ cười cay đắng, đôi mắt màu kem của cô rất buồn nhưng kiêu hãnh và mạnh mẽ. Khi đã hoàn hồn, ta cất tiếng thì thầm, Em gái, có phải em là một linh hồn lạc không? Cô ta phớt lờ ta, nên ta hỏi, Em gái, em có thấy ta không? Cuối cùng ta phát hiện ra ma nữ không phải đang nói chuyện với ta và không nhìn thấy ta.

Ta thử sờ vào làn da bồng bềnh và mái tóc thẳng cứng của cô ta nhưn, ta thề luôn, các ngón tay đưa xuyên qua đó, đúng vậy, như ảnh phản chiếu dưới nước ấy. Những con thiêu thân bay xuyên qua đôi mắt sáng và miệng của cô ta, bay qua bay lại, bay lại bay qua.

Ôi, cô ta thật kì lạ, thật đẹp mà cũng thật buồn, khiến linh hồn ta đau đớn.

Đột nhiên ma nữ biến mất trở vào quả trứng và một người đàn ông thế chỗ cô ta. Một Tiên Tri-ma, người này có thể thấy ta và ông ta nói với ta đầy tức giận. Cậu là ai vậy nhóc, Meronym đâu?

Người Tiên Tri chồm đến gần hơn và khuôn mặt ông ta lớn lên. Giọng ông ta gầm gừ và nanh nọc. Ta hỏi mi hai câu hỏi đấy, cậu nhóc, trả lời ta ngay, nếu không ta sẽ nguyền rủa cho dòng họ nhà mi từ nay đẻ ra con cái không đứa nào sống qua một con trăng!

Ta vã mồ hôi và nuốt khan cổ. Zachry, thưa ông, ta đáp, và Meronym vẫn bình thường, vâng, cô ấy đang ở chỗ Thím Bees học cách lấy mật ong.

Người Tiên Tri nhìn xuyên thấu hồn ta, đang suy nghĩ xem có nên tin ta hay không. Và Meronym có biết chủ nhà lục lọi đồ đạc của khách khi cô ta đi ra ngoài không? Khôn hồn mà trả lời thành thật, đừng hòng qua mặt được ta.

Ta run rẩy đau đớn trong lúc lắc đầu.

Nghe cho kỹ đây. Người đàn ông đó có nhiều điều răn đe như Trưởng lão vậy. Cậu sẽ đặt orison này, “quả trứng” mà cậu đang cầm này, vào lại nơi mà cậu tìm thấy. Cậu sẽ không nói với bất kỳ ai về nó. Bằng không cậu có biết ta sẽ làm gì không?”

Biết, ta đáp. Nguyền rủa gia đình tôi để không đứa bé nào sống sót.

Phải, cậu hiểu rồi đấy, người đàn ông có giọng nói như sấm đáp. Ta sẽ để mắt đến cậu, Zachry của Nhà Bailey ạ, Người Tiên Tri ma đó nói, đấy, ông ta còng biết nhà của ta như Già Georgie vậy. Ông ta biến mất và quả trứng bạc lấp lánh lặng dần rồi im hẳn. Ta vội vàng cất đồ đạc của Meronym trở lại túi của cô ta rồi nhét nó xuống dưới tấm phản, ước gì ta đã không tọc mạch như vậy. Thế đấy, thứ ta tìm được không phải là bằng chứng cho mối nghi ngờ của ta để đưa ra cho Trưởng lão, thứ ta tìm thấy là một lời nguyền rủa Thông Minh cho vận mệnh bị hóa đá của ta, và, ta phải tự thừa nhận, một sự hoen ố danh dự trầm trọng của một người chủ nhà.

Nhưng ta không thể quên về ma nữ đó, cô ta ám ảnh ta khi thức lẫn trong giấc mơ. Ta có quá nhiều cảm xúc đến nỗi không thể chất chứa hết. Ô, tuổi trẻ thật chẳng dễ dàng vì bất cứ điều gì khiến con lo lắng hoang mang cũng đều là những điều khiến con lo lắng hoang mang lần đầu tiên trong đời.

Bà Trăng tròn to, con gái của bà thì khuyết, và đột nhiên chỉ còn ba trong số sáu con trăng nữa là Tàu Tiên Tri sẽ quay trở lại để đón Meronym lên đường. Một hình thức đình chiến đặt ra giữa ta và khách lúc này. Ta không tin Nữ Tiên Tri nhưng cứ chịu đựng cô ta ở trong nhà mình một cách lịch sự đủ để ta có thể canh chừng cô ta tốt hơn. Rồi vào một buổi chiều giông bão, chuyện đầu tiên trong số vài chuyện xảy ra, biến cuộc đình chiến đó thành một thứ gắn chặt vận mệnh của ta với cô ta như hai sợi dây leo trên cây nho vậy.

Vào một buổi sáng mưa gió, Fgkugly con út của người anh em Munro đến tìm ta trên khe núi trong lúc ta đang ngồi dưới những tán lá cây trên Dãy Rise, báo cho ta một tin dữ. Em gái Catkin của ta trong lúc đi câu cá ở Bãi Đá Chó đã giẫm phải một con cá bọ cạp, bây giờ con bé đang co giật và sốt cao ở Nhà Munro. Thầy lang Wimoway, mẹ của Roses, đang chăm sóc con bé, còn Leay, pháp sư người Hilo, thì đang đọc thần chú, nhưng sự sống của Catkin đang cạn dần. Người cao to khỏe mạnh còn không sống nổi khi bị cá bọ cạp tấn công, và Catkin bé nhỏ tội nghiệp đang hấp hối, chỉ còn được hai hoặc ba giờ nữa thôi.

Fgkugly chăn đàn dê để ta luồn qua hàng cây gỗ chó đến Nhà Munro và, đúng vậy, sự việc đúng như lời kể của Fgkugly. Catkin đang nóng như lửa đốt và thở khó nhọc, không còn nhận ra ai nữa. Wimoway đã gắp ra những vây cá có độc và rửa vết thương bằng bộ noni, còn Sussy đang đắp khăn lạnh để làm mát trán Catkin. Jonas thì đã đến cầu nguyện Sonmi ở Biểu Tượng Tháp. Leary Râu Rậm đang rì rầm những câu thần chú Hilo và lắc những cây giáo phép thuật để xua đuổi tà ma. Có vẻ như Leary chẳng giúp được gì, Catkin đang hấp hối, không khí có mùi chết chóc, nhưng Mẹ muốn Leary đến đó, thế đấy, các con sẽ tin vào hàng triệu điều khác nhau nếu con nghĩ rằng chỉ một điều trong số đó có thể sẽ giúp con. Vậy ta còn biết làm gì, ngoài việc ngồi đó và nắm bàn tay nóng ran của Catkin yêu dấu rồi nhớ lại cảnh thằng bé vô dụng là ta chứng kiến bọn Kona quật roi bủa vây Bố và Adam? Lúc này tiếng nói có thể là của Bố hoặc có thể là của Sonmi hoặc có thể chẳng của ai hết mà của chính ta, nhưng một giọng khẩn thiết vang lên bên tai ta: Meronym.

Mọi người cho hay Meronym đang ở trên Khe núi Gusjaw vì thế ta chạy lên đó và, đúng vậy, cô ta đang hứng đầy nước trên Khe Gusjaw vào những chiếc lọ Thông Minh nhỏ dưới trời mưa nghi ngút khói, số là Wolt đã gặp cô ta trước đó và kể về sự tình. Người Tiên Tri đem theo túi vật dụng đặc biệt của mình và ta cám ơn Sonmi vì điều đó. Buổi chiều tốt lành, Nữ Tiên Tri gọi khi thấy ta lội ngược dòng.

Không, chẳng tốt tí nào, ta đáp lại. Catkin sắp chết rồi! Meronym lắng nghe chăm chú trong lúc ta kể lại về con cá bọ cạp nhưng cô ta xin lỗi, cô ta chẳng có Trí Thông Minh chữa bệnh nào, dù sao đi nữa thì tài dược của Wimoway và những câu thần chú của Leary chính là phương pháp chữa bệnh của Đảo Lớn và đó là cách tốt nhất cho những người ốm đau trên Đảo Lớn, đúng không?

Cứt chó, ta đáp.

Cô ta lắc đầu rất buồn. Người Tiên Tri chúng tôi đã tuyên thệ không can thiệp vào trật tự tự nhiên của vạn vật.

Lúc này ta nói khéo, Catkin gọi cô là “Dì” và nó tin rằng cô là người nhà. Cô chắc chắn cũng đã cư xử trong nhà chúng tôi như cô là người nhà. Đó có phải là một sự giả dối khác nữa của cô để tìm hiểu thêm một chút về chúng tôi không? Một phần khác trong cái gọi là “không phải toàn bộ sự thật” của cô?

Meronym rùng mình. Khôn, Zachry ạ, không phải thế.

Vậy thì, ta đánh cược vận may, tôi cho rằng cô có Trí Thông Minh đặc biệt để giúp người nhà của cô.

Meronym ném một ngọn giáo trong câu nói. Tại sao cậu không lục lọi túi tôi lần nữa rồi đánh cắp Trí Thông Minh Tiên Tri đặc biệt củatôi đi? Phải, cô ta biết chuyện ta và quả trứng bạc. Cô ta đã giả vờ là không biết nhưng thực sự thì có. Phản đối cũng chẳng ích gì, vì thế ta không lên tiếng. Em gái tôi đang hấp hối trong lúc chúng ta đứng đây đôi co thế này.

Rất nhiều sông suối mưa giông của cả thế giới đã trôi qua hai chúng ta. Cuối cùng Meronym nói được, cô sẽ đến thăm Catkin, nhưng nọc độc cá bọ cạp lan rất nhanh và rất độc và có thể cô sẽ chẳng làm được gì để cứu em gái ta, tốt nhất ta nên hiểu sự thật đó ngay lúc này. Ta không đồng ý cũng chẳng phản bác, chỉ dẫn cô ta nhanh chóng đi xuống Nhà Munro. Khi Người Tiên Tri bước vào, Wimoway giải thích bà đã làm gì, còn Leary Râu Rậm thì nói, Ooo… một con quỷ đã được kéo lại gần… ooo, ta ngửi thấy nó bằng năng lực đặc biệt của mình…

Catkin đã mê man, nó đang nằm im bất động như một biểu tượng, chỉ còn tiếng thở nhẹ trong cuống họng. Khuôn mặt căng thẳng của Meronym như nói, Thôi rồi, con bé đã đi quá xa, tôi không thể làm được gì,và cô ta hôn từ biệt lên trán em gái ta, buồn bã bước trở ra trời mưa. Ôi, nhìn Người Tiên Tri mà xem, Leary làu bàu, Trí Thông Minh của họ có thể làm di chuyển những con tàu kỳ lạ bằng thép nhưng chỉ có Thánh Tụng của Thiên thần Lazgrus mới có thể đem về linh hồn con bé từ vũng lầy tuyệt vọng giữa sự sống và cái chết. Ta cảm thấy tuyệt vọng, em gái ta sắp chết, mưa đang vần vũ nhưng giọng nói đó vẫn không câm lại bên tai ta. Meronym.

Ta không biết tại sao nhưng ta theo cô ta đi ra ngoài. Trú mưa ở khung cửa bằng gốm của Nhà Munro, cô đang nhìn chăm chú vào những cột mưa. Tôi không có quyền cầu xin cô ân huệ, tôi đã không phải là một chủ nhà tốt, tôi là một thằng tồi đáng ghét, nhưng… ta không còn biết nói gì nữa.

Người Tiên Tri không nhúc nhích hay nhìn ta. Sự sống ở bộ lạc của cậu có một trật tự tự nhiên. Catkin sẽ vẫn giẫm phải con cá bọ cạp đó cho dù tôi có ở đây hay không.

Những con chim mưa trút ra bài hát rì rào réo rắt. Tôi chỉ là một gã mục đồng dốt nát, nhưng tôi nghĩ khi có mặt ở đây cô cũng đã phá vỡ trật tự tự nhiên này. Tôi nghĩ cô đang giết chết Catkin vì không hành động. Và tôi nghĩ nếu Anafi con trai cô đang nằm đó với nọc độc cá bọ cạp làm tan chảy tim phổi nó, thì trật tự tự nhiên này cũng sẽ không quá quan trọng với cô, có phải không?

Cô ta không trả lời nhưng ta biết cô ta đang lắng nghe.

Tại sao mạng sống của một Người Tiên Tri lại quan trọng hơn của một Dân Thung Lũng?

Cô ta mất bình tĩnh. Tôi không đến đây để đóng vai Bà Sonmi mỗi khi có chuyện xấu xảy ra rồi búng ngón tay là giải quyết được mọi chuyện! Tôi chỉ là con người, Zachry ạ, như cậu như bất kỳ ai!

Ta hứa, Không phải là mỗi lần chuyện xấu xảy ra đâu, chỉ lần này thôi.

Nước mắt chảy ra trên mặt cô ta. Đó không phải là lời hứa mà cậu có thể đảm bảo giữ lời. Đột nhiên ta thấy mình đang kể hết mọi sự thật về Sloosha’s Crossin’, đúng vậy, tất tần tật. Ta đã dẫn bọn Kona đến giết Bố và bắt Adam làm nô lệ như thế nào, và đã không bao giờ thú nhận với bất kỳ ai cho đến lúc đó. Ta không biết tại sao lại trút hết bí mật cất giấu bấy lâu nay cho kẻ thù của mình, mãi cho đến lúc cuối cùng, khi ta tiết lộ ý nghĩa của nó và nói với cô ta. Điều tôi vừa kể với cô về tôi và linh hồn tôi là ngọn giáo kề vào cổ họng tôi và là miếng khăn bịt ngang miệng tôi. Cô có thể nói với Ma Lắm Điều những gì tôi kể với cô, và hủy hoại tôi, bất cứ lúc nào cô muốn. Bà ta sẽ tin cô và phải tin cô vì từng lời đều là thật và Dân Thung Lũng sẽ tin cô vì họ cảm thấy Linh hồn tôi đã bị hóa đá. Bây giờ nếu cô có bất kì Trí Thông Minh nào, phải, bất cứ điều gì có thể giúp Catkin lúc này, hãy cho tôi, nói với tôi, hãy làm đi. Sẽ không một ai biết chuyện này, tôi thề chỉ có cô và tôi.

Meronym đặt tay lên đầu như thể nó đã phình to vì buồn đau và cô lẩm bẩm gì đó nghe như, Nếu chủ tịch của tôi mà biết chuyện này thì toàn bộ ban của tôi sẽ bị giải tán, đúng vậy, có những lúc cô ta dùng toàn những từ mà ta không biết. Từ một chiếc lọ không có nắp trong túi xách, cô ta lấy ra một hòn đá màu ngọc lam bé bằng trứng kiến rồi bảo ta lén cho vào miệng Catkin thật khéo sao cho không ai thấy, hoặc thậm chí nghĩ rằng họ đã thấy. Và vì Sonmi, Meronym cảnh báo ta, nếu Catkin sống, mà tôi không dám hứa cô bé sẽ sống, hãy đảm bảo rằng bà thầy lang ăn mừng vì đã chữa lành cho con bé, chứ không phải gã thầy mo lươn lẹo đến từ Hilo đó, được chứ?

Thế là ta cầm viên thuốc màu ngọc lam rồi cám ơn cô ta.

Meronym dặn, Đừng nhắc đến một lời nào cả, vào lúc này và vĩnh viễn khi tôi còn sống, và ta giữ vững lời hứa đó. Ta cho nó vào chiếc miệng quý giá của em gái trong lúc thay mảnh vải thấm nước cho con bé, như Meronym đã dặn, để không ai trông thấy. Và chuyện gì đã xảy ra?

Ba ngày sau Catkin đã trở lại trườn học, đúng vậy.

Ba ngày! Và thế là ta thôi không còn tìm kiếm chứng cứ rằng Người Tiên Tri đang do thám để biến chúng ta thành nô lệ. Leary từ Hilo khoác lác từ đầu đường đến cuối chợ rằng không một pháp sư nào giỏi hơn hắn, kể cả những Người Tiên Tri, dù hầu hết Dân Thung Lũng đều tin rằng chính Wimoway đã làm được điều đó, chứ không phải hắn.

Một buổi tối, chúng ta đang ăn thịt thỏ và khoai môn nướng khoảng một tháng sau khi Catkin bị ốm thì Meronym bất ngờ thông báo một chuyện. Cô ta định leo lên Mauna Kea trước khi Chiếc Tàu trở lại, để xem những gì muốn xem. Mẹ nói trước, giọng đầy lo lắng. Để làm gì, chị Meronym? Chẳng có gì trên Mauna Kea ngoài mùa đông bất tận và một đống đá to.

Thật ra mẹ ta không nói đến điều mà tất cả chúng ta đều đang nghĩ đến vì bà không muốn trông giống thổ dân mọi rợ, nhưng Sussy thì huỵch toẹt. Dì Mero, nếu dì đi lên đó, Già Georgie sẽ làm cho dì đóng băng rồi múc linh hồn dì ra bằng chiếc muỗng cong của lão rồi ăn tươi nuốt sống nó để dì mãi mãi không thể đầu thai và dì sẽ biến thành một tảng đá đóng băng. Dì nên ở trong thung lũng này cho an toàn.

Meronym không phản đối Sussy, chỉ nói rằng Người Tiên Tri có Trí Thông Minh khiến Già Georgie phải tránh xa. Leo lên Mauna Kea là việc cần thiết để vẽ bản đồ Windward, cô ta nói, và dù sao đi nữa, Dân Thung Lũng cũng cần biết về những chuyển biến của bọn Kona ở Leeward và thị trấn Waimea. Nếu vào lúc này thì những lời nói đó sẽ khiến ta gia tăng nghi ngờ, nhưng lúc đó, ta chẳng nghĩ ngợi gì, dù hết sức lo lắng cho vị khách của chúng ta. Thật sự, thiên hạ không ngừng bàn tán suốt nhiều ngày liền khi tin này lan truyền. Nữ Tiên Tri sẽ leo lên Mauna Kea !Mọi người ghé nhà để cảnh báo Meronym đừng đi chõ mũi vào khu khép kín của Gìa Georgie, nếu không sẽ không có đường trở lại. Ngay cả Napes cũng đến thăm, nói rằng leo lên Mauna Kea trong chuyện kể là một chuyện, nhưng làm thật lại là chuyện điên rồ và hoang đường. Trưởng lão nói Meronym có thể đến và đi bất cứ nơi nào cô muốn, nhưng bà không đồng ý nếu không có người dẫn đường cho Meronym, đỉnh núi đó quá bí ẩn và nguy hiểm, ba ngày lên ba ngày xuống, chó rừng, Kona và Sonmi biết có gì trên đường, và dù sao đi nữa việc chuẩn bị cho hội chợ Honokaa cần đến tất cả mọi người trong làng.

Lúc này ta khiến mọi người bất ngờ, đúng vậy, cả chính ta nữa, khi quyết định sẽ đi với cô ta. Ai cũng biết ta không phải là con bò mộng gan dạ nhất trong làng. Vậy thì tại sao ta làm thế? Đơn giản thôi. Một, ta nợ Meronym mạng sống của Catkin. Hai, linh hồn ta cũng đã bị hóa đá một nửa rồi, đúng vậy, chắc chắn ta sẽ không được đầu thai, vậy thì ta có gì để mất chứ? Thà để Già Georgie ăn linh hồn ta và để người khác đầu thai, phải không nào? Đó không phải là dũng cảm đâu, đó chỉ là cảm tính. Mẹ không vui, lúc này đang vào mùa bận bịu trong Thung lũng vì mùa thu hoạch sắp đến, nhưng khi bình minh đến Meronym và ta lên đường, bà đưa cho ta lương khô đã được bà hun khói và ướp muối để ăn dọc đường, và nói Bố sẽ tự hào khi nhìn thấy ta trưởng thành và gan dạ. Jonas tặng ta một cây lao xiên cá bén ngót, còn Sussy tặng ta những miếng bùa bằng vỏ sò để làm lóa mắt Già Georgie nếu lão đuổi theo chúng ta. Kobbery em họ của ta thì nhận chăn dê giúp ta, cậu tặng ta một túi nho khô từ vườn nho của gia đình. Catkin là người cuối cùng, con bé tặng ta một nụ hôn và cũng tặng cho Meronym nữa, rồi bảo chúng ta phải hứa sẽ quay lại sau sáu ngày.

Từ phía đông của Sloosha’s, chúng ta không leo lên đường mòn Kukuihaele, mà đi về hướng đất liền phía nam ngược dòng Waiulili, và ta nhận ra khoảng đất trống cạnh Thác Hiilawe nơi ta đã tiếp tay cho bọn Kona giết Bố năm-sáu năm về trước. Lúc này nó đã rộng ra, chỉ còn dấu vết của những đống lửa trại đã tàn cháy đen ở giữa. Ta dùng cây lao quà của Jonas đâm vài con cá ở chỗ nước cạn trong hồ Hiilawe để tiết kiệm lương khô. Mưa khiến dòng Waiulili chảy rất xiết đến nỗi không thể băng qua được, vì thế chúng ta phạt tre trúc mở đường lên, nửa ngày vất vả đã trôi qua và chúng ta đến được Dãy Kohala; khoảng không lộng gió khiến chúng ta sững sờ và qua những đám mây trôi chúng ta thấy Mauna Kea cao hơn cả bầu trời. Trước đây ta đã từng thấy Mauna Kea từ Honokaa, tất nhiên, nhưng một ngọn núi mà các con sắp leo lên không giống như ngọng núi các con không có ý định chinh phục. Nó không còn đẹp như thế nữa. Đủ tĩnh mịch để các con nghe thấy nó. Tre trúc thưa thớt dần, chỉ còn lại những cây thông khô héo và chúng ta đến Đường mòn Waimea của Người Xưa. Chúng ta đi lóc cóc vài dặm trên con đường xưa cũ và nứt nẻ này cho đến khi gặp một người bẫy thú lấy lông và con chó biết cười của lão nằm nghỉ bên một cái ao dốc. Già Yanagi là tên lão và lão bị viêm phổi nặng kể từ khi Yanagi Trẻ nối nghiệp gia đình, ta nghĩ thế. Chúng ta nói mình là thầy thuốc đang tìm những cây thuốc quý, có thể Yanagi tin chúng ta mà cũng có thể không, nhưng lão đổi nấm cho chúng ta để lấy cá và cảnh báo rằng Thị trấn Waimea không còn thân thiện như trước, Kona đã kiểm soát thô bạo và ta không thể đoán được họ sẽ làm gì.

Khi cách Thị trấm Waimea khoảng một dặm về phía đông chúng ta nghe tiếng vó ngựa lộc cộc và lập tức lao xuống con đườn mòn trong tích tắc trước khi ba chiến binh Kona cưỡi ngựa đen cùng nài ngựa cưỡi trên một con ngựa con lao qua. Hận thù và sợ hãi đánh thức ta, khiến ta muốn tiêu diệt chúng như những con tôm trên que xiên, nhưng bắt chúng chết chậm hơn thế. Cậu bé nài ngựa ta nghĩ có thể là Adam nhưng ta luôn nghĩ như thế về bất kỳ đứa con trai Kona nào, chúng đội mũ sắt vì thế ta không thể chắc chắn. Chúng ta không nói gì nhiều kể từ lúc đó vì sợ tai vách mạch rừng. Đi về phía nam băng qua những bụi bờ, chúng ta đến được đại lộ. Ta đã từng nghe nói về đại lộ từ những người kể chuyện và giờ nó ở đây, một mặt phẳng trải đá dài và rộng mở. Những cây nhỏ và bụi dày lên nhưng không gian đầy gió ấy thật kỳ diệu và hoang vu. Meronym nói nó được đặt tên là “Sân Bay” trong ngôn ngữ của Người Xưa, nơi những chiếc tàu bay của họ thả neo, đúng vậy, như ngỗng trời trên Đầm lầy Polulu vậy. Chúng ta không băng qua đại lộ, mà đi vòng qua đó, vì chẳng có chỗ nào để nấp cả mà.

Đến khi mặt trời lặn, chúng ta dựng lều ở một thung lũng cạn có nhiều cây xương rồng và khi trời đủ tối ta nhóm lửa. Ta cảm thấy thật cô đơn khi ở xa Thung lũng và người nhà, nhưng ở mảnh đất không một bóng người ấy, mặt nạ của Meronym đã rơi ra và ta thấy cô ta rõ hơn bất cứ lúc nào. Ta hỏi thẳng cô ta, Nó như thế nào, toàn Thế giới, những vùng đất xa xôi ở bên kia đại dương?

Nhưng mặt nạ của cô ta chưa rơi ra ngay. Cậu nghĩ sao?

Thế là ta kể với cô ta về trí tưởng tượng của mình dành cho những nơi thấy từ sách và tranh ảnh trong trường. Những vùng đất mà Sụp Đổ chưa bao giờ chạm đến, những thị trấn to lớn hơn toàn thể Đảo Lớn, và những tòa tháp lấp lánh sao trời cao hơn cả Mauna Kea, những vịnh chứa được không chỉ một chiếc Tàu Tiên Tri mà một triệu chiếc, những hộp Thông Minh tạo ra lương khô ngon lành nhiều đến mức chẳng ai ăn hết, nhữn đường ống Thông Minh làm ra nhiều bia đến mức không thể uống hết, những nơi luôn có mùa xuân và không ai ốm đau gì, không đánhg nhau và không có nô lệ. Những nơi mà mỗi người đều là một sinh vật đẹp đẽ sống đến một trăm năm mươi tuổi.

Meronym kéo chăn lên sát hơn. Bố mẹ tôi và thế hệ của ông bà tin rằng, ở đâu đó, tất cả các thành phố của Người Xưa đều tồn tại qua trận Sụp Đổ, ở nơi rất xa bên kia đại dương, cũng giống như cậu vậy, Zachry ạ. Những cái tên thời xa xưa ám ảnh trí tưởng tượng của họ… Melbun, Orkland, Jogberg, Buenas Yerbs, Mumbay, Singpore. Nữ Tiên Tri dạy ta điều mà không có Dân Thung Lũng nào từng nghe đến trước đây và ta lắng nghe chăm chú mê say. Cuối cùng, năm thế kỷ sau khi dân tộc tôi đến Đảo Tiên Tri, chúng tôi đã lại ra khơi trên Chiếc Tàu từng đem chúng tôi đến đó. Chó rừng tru lên ở xa xa, báo hiệu có người sắp chết, ta cầu nguyện Sonmi đó không phải là chúng ta. Họ tìm thấy những thành phố như trong những bản đồ cổ, nhưng đó là những thành phố chết ngổn ngang, những thành phố ngập ngụa trong rừng rậm, những thành phố chìm trong dịch bệnh, nhưng khôn tìm thấy một dấu hiệu nào của những thành phố sống mà họ mong muốn. Người Tiên Tri chúng tôi không tin rằng ngọn lửa yếu ớt của chúng tôi trong nền văn minh giờ đây lại là ngọn lửa sáng nhất của toàn Thế giới, và chúng tôi rong ruổi đến những miền đất xa hơn qua từng năm, nhưng chúng tôi không tìm thấy ở đâu ngọn lửa sáng hơn. Thật là một gánh nặng quý giá cho hai nghìn đôi tay! Tôi thề, không có nhiều nơi trên Thế giới có được Trí Thông Minh của Chín Thung Lũng đâu.

Nghe những lời đó khiến ta vừa lo lắng vừa tự hào, như một người cha, và như thể cô ta và ta không khác nhau nhiều lắm, không cách biệt như thần linh và kẻ mộ đạo.

Ngày thứ hai, những đám mây phồng xốp nhảy nhót về phía tây và mặt trời khuất gió đang phun ra hơi nóng dữ dội. Chúng ta uống nước như cá voi ở một con suối lạnh băng và bẩn thỉu. Lên cao không khí mát mẻ hơn, chúng ta leo cho đến khi muỗi không còn đốt nữa. Cây cối khô khốc và còi cọc bị cắt ngang bởi những vạt dung nham đen và sắc phun trào từ Mauna Kea. Những cánh đồng đá ấy cứ trải dài như hình xoắn ốc, chỉ cần chạm nhẹ vào hòn đá là ngón tay sẽ bị chảy máu đầm đìa ngay lập tức, vì thế ta quấn vỏ cây quanh tay và ủng rồi quấn cho Meronym. Bàn chân cô ta bị phồng rộp hết cả, cô ta không có chân chăn dê như ta, nhưng người phụ nữ ấy không hề kêu ca nửa lời, không hề. Chúng ta dựng lều trong một khu rừng cây lá kim, một làn sương như sáp che phủ đám lửa của chúng ta, nhưng nó cũng che phủ những kẻ rình mò và khiến ta lo âu. Toàn thân chúng ta mệt mỏi rã rời nhưng đầu óc thì không buồn ngủ tí nào, vì thế chúng ta nói chuyện trong lúc ăn. Cô thực sự không sợ, ta nói, giơ ngón tay cái lên, sẽ gặp Già Georgie khi chúng ta lên đến đỉnh núi, như Truman Napes đã gặp à?

Meronym nói thời tiết khiến cô sợ nhiều hơn.

Ta nói huỵch toẹt suy nghĩ của mình: Cô không tin lão ta có thật, phải không?

Meronym nói Già Georgie không có thật đối với cô ta, không hề, nhưng có thể vẫn có thật đối với ta.

Vậy thì ai, ta hỏi, đã kéo cơn Sụp Đổ xuống nếu không phải là Già Georgie?

Những con chim kỳ lạ mà ta không biết tên ríu rít chuyền tin trong bóng đêm trong một hai giây. Người Tiên Tri trả lời, Người Xưa tự tạo ra cơn Sụp Đổ của họ. Ôi, lời cô ta là một sợi dây thừng bằng khói. Nhưng Người Xưa có Trí Thông Minh mà! Ta nhớ cô ta trả lời , Phải, Trí Thông Minh của Người Xưa đã chiến thắng bệnh tật, khoảng cách, duy trì nòi giống và biến phép màu thành chuyện bình thường, nhưng nó không chiến thắng được một thứ, đó là lòngtham của con người, phải, lòng ham muốn có nhiều hơn nữa.

Nhiều cái gì hơn nữa? ta hỏi. Người Xưa đã có tất cả rồi.

À, nhiều đồ đạc hơn, nhiều thực phẩm hơn, tốc độ nhanh hơn, cuộc sống dài hơn, cuộc sống dễ dàng hơn, nhiềuquyền lực hơn, đúng vậy. Dù cho toàn Thế giới rất rộng lớn nhưng không đủ lớn cho cơn đói đó và nó khiến Người Xưa xé toạc bầu trời, đun sôi biển và đầu độc đất đai bằng nguyên tử điên cuồng rồi gieo rắc những mầm mống hư hỏng khắp nơi, vì thế nhiều dịch bệnh mới ra đời, trẻ con sinh ra bị quái thai dị dạng. Cuối cùng, đầy cay đắng, sau đó là nhanh như chớp mắt, các quốc gia vỡ thành những bộ lạc man rợ và Thời đại Văn minh chấm dứt, trừ một vài nơi rải rác vẫn còn le lói chút lửa tàn cuối cùng.

Ta hỏi tại sao Meronym không bao giờ kể chuyện này ở Thung lũng.

Dân Thung Lũng không muốn nghe, cô ta đáp, rằng cơn đói khát của con người đã sinh ra nền Văn minh, nhưng cũng chính cơn đói khát của con người đã tiêu diệt nó. Tôi biết điều này từ những bộ lạc sống trên những hòn đảo mà tôi từng đến tá túc. Có những lúc nếu cậu nói niềm tin của một người là không đún, thì họ sẽ nghĩ cậu đang nói cuộc sống của họ không đúng và chân lý của họ không đúng.

Phải, có lẽ cô ta nói đúng.

Ngày thứ ba, trời trong xanh nhưng chân của Meronym sưng tấy nên ta cõng tất cả mọi thứ trên lưng trừ chiếc túi vật dụng của cô ta. Chúng ta đi qua những triền núi đến mặt nam, nơi những vết sẹo của một con đường mòn của Người Xưa chạy quanh co dẫn lên đỉnh núi. Đến gần trưa, Meronym ngồi nghỉ trong khi ta đi nhặt củi dự trữ vì lúc này cây cối đã trở nên rất thưa thớt. Nhìn xuống Mauna Loa, chúng ta thấy một đàn ngựa trên Đường Yên Ngựa, kim loại Kona lấp lánh trong nắng. Chúng ta ở trên rất cao, những con ngựa trông bé xíu như đàn mối. Ta ước gì mình có thể nghiền nát những tên mọi rợ đó giữa ngón trỏ và ngón cái của mình rồi quẹt vết nhớp lên quần. Ta cầu nguyện Sonmi để không một tên Kona nào đi lên Đườn mòn Đỉnh núi này vì đây là nơi rất thuận tiện để tấn công mà ta nghĩ ta và Meronym thì không thể chống cự được lâu. Tuy nhiên ta không nhìn thấy dấu vó ngựa nào hay dấu vết cắm trại nào.

Cây cối không còn nữa, gió thổi thô bạo và giận dữ hơn, trong gió không có lấy một gợn khói, không mùi đồng áng, không mùi phân, không có gì ngoài bụi rất rất mịn. Chim chóc cũng thưa thớt trong những sườn dốc lúp xúp cây bụi, chỉ có những con chim ó bay lượn trên cao. Khi trời tối, chúng ta đến một khóm nhà của Người Xưa, Meronym nói nơi đây từng là một ngôi làng dành cho các nhà thiên văn, là những thầy tu của người Thông Minh biết đọc các vì sao. Ngôi làng này đã không có người sống từ sau Sụp Đổ và ta chưa thấy nơi nào hoang tàn đến thế. Không nước không đất cát, đêm buông xuống, ôi, lạnh thấu xương, vì thế chúng ta phải mặc rất dày và nhóm một ngọn lửa trong một ngôi nhà hoang. Ánh lửa nhảy nhót với những hình thù xung quanh các bức tường. Ta rất lo lắng về việc đến đỉnh núi ngày hôm sau, vì vậy phần nào để đầu óc bận rộn, ta hỏi Meronym xem Trưởng lão có nói thật không khi cho rằng toàn Thế giới bay xung quanh mặt trời, hay người Hilo mới nói thật rằng mặt trời bay xung quanh toàn Thế giới.

Trưởng lão nói khá chính xác đấy, Meronym đáp.

Vậy thì sự thật thật sự khác với điều giống sự thật à? ta hỏi.

Đúng rồi, chẳng phải vẫn như thế sao, ta nhớ Meronym nói, và vì thế mà sự thật thật sự quý và hiếm hơn cả kim cương. Chẳng bao lâu sau, giấc ngủ ập đến cô ta, nhưng suy nghĩ trong đầu khiến ta vẫn thao thức cho đến khi một người phụ nữ im lặng đến ngồi bên đống lửa, hắt hơi và khẽ run rẩy. Sợi dây chuyền bằng vỏ ốc của cô cho thấy đó là một ngư dân Honomu và nếu cô còn sống thì hẳn là phải xinh đẹp lắm. Người phụ nữ duỗi các ngón tay vào đống lửa, vào những cánh hoa màu đồng và hồng ngọc xinh đẹp nhất, nhưng cô chỉ thở dài cô độc hơn cả con chim bị nhốt trong hộp dưới giếng, thế đấy, những ngọn lửa đó không thể sưởi ấm cô. Cô không có tròng mắt mà chỉ có sỏi và ta tự hỏi phải chăng cô leo lên Mauna Kea để cho Già Georgie giúp linh hồn cô an nghỉ trong giấc ngủ hóa đá. Người chết nghe được suy nghĩ của kẻ sống, và ngư dân chết chìm đó nhìn ta trân trối với đôi sỏi, gật đầu Đúng vậy, rồi lấy ra một ống điếu để giải sầu nhưng ta không xin hút một hơi nào. Một lúc sau ta thức dậy, lửa đã tàn và người Honomu bị hóa đá đã bỏ đi. Không dấu vết gì trong bụi nhưng ta ngửi thấy mùi khói từ ống điếu của cô trong thoảng một hoặc hai giây. Thấy chưa, ta nghĩ, Meronym biết rất nhiều về Trí Thông Minh và cuộc sống nhưng Dân Thung Lũng biết nhiều hơn về cái chết.

Bình minh thứ tư là một cơn gió không thuộc về thế giới này, nó đè lên ánh sáng chói chang nghiệt ngã, bao quanh đường chân trời, giật tung lời nói ra khỏi miệng và hơi ấm cơ thể qua lớp vải và lông thú ta mặc bên ngoài. Con đường dẫn lên đỉnh núi từ làng thiên văn bị lật tung và xoáy mòn, phải, từng mảng đất bị bong tróc, không có một rễ cây hay ngọn lá hay chùm rêu nào, chỉ có cát bụi khô khốc lạnh cóng cào xước mắt chúng ta như một mụ điên. Hai đôi ủng đi trong thung lũng của chúng ta đã rách tơi tả, vì thế Meronym lấy ra cho mỗi người một đôi ủng Thông Minh của Người Tiên Tri, làm bằng chất liệu gì ta cũng chẳng biết nhưng ôi chao là ấm về mềm, nhờ đó chúng ta có thể đi tiếp. Bốn-năm dặm sau đó, mặt đất trải bằng ra khiến ta không hề cảm thấy mình đang ở trên núi nữa, mà giống như một con kiến nằm trên bàn hơn, chỉ là một mặt phẳng nằm lơ lửng giữa các thế giới. Cuối cùng gần buổi trưa chúng ta đi theo một khúc cua và ta há hốc mồm kinh ngạc vì đây chính là khu khép kín, hệt như Truman đã tả, dù các bức tường không cao như cây gỗ đỏ, không hề, chỉ cao cỡ cây vân sam là cùng. Con đường mòn dẫn thẳng đến cánh cổng thép, đúng vậy, nhưng các bức tường kín mít không hẳn dài bất tận, không hề, các con có thể đi vòng quanh nó trong một phần tư buổi sáng.

Bên trong khu khép kín trên mặt đất nhô cao là những cụm đền đài, đúng vậy, những tòa nhà Người Xưa kỳ lạ nhất ở Ha-Why hoặc toàn Thế giới, ai mà biết được? Mà làm sao chúng ta vào đó được? Meronym đã chạm vào cánh cổng kì vĩ đó và lẩm nhẩm, Chúng ta cần một chiếc đòn bẩy thật chắc để nạy cánh cửa này ra khỏi bản lề, phải vậy thôi. Cô lấy ra từ túi thiết bị không phải một chiếc đòn bẩy, không hề, mà là một sợi dây thừng Thông Minh, như loại mà Người Tiên Tri thỉnh thoảng dùng để trao đổi hàng hóa, chắc và nhẹ. Hai mấu cửa nhô ra phía trên cổng thép, và cô cố gắng ném thòng lọng vào một mấu. Gió thổi mạnh hơn khiến cô ngắm hụt nhưng ta thay cô thử và làm được ngay lần ném đầu tiên, và chúng ta leo lên từng nấc một để chinh phục khu khép kín của Già Georgie. Bên trong chống rùng rợn trên đỉnh của thế giới, gió gào rú như mắt bão. Mặt trời ở tít trên cao chói chang, gào thét và xối xả tuôn chảy thời gian từ đó. Trong khu khép kín không có đường, chỉ có hàng triệu tảng đá mòn như lời kể của Truman Napes, thi thể của những linh hồn bị hóa đá, và ta tự hỏi liệu Meronym hoặc ta hoặc cả hai chúng ta có thể bị hóa đá trước khi trời tối hay không. Mười – mười hai ngôi đền nằm rải rác, màu trắn; bạc, vàng và đồng, có thân dẹt và mái tròn, hầu hết không có cửa sổ. Ngôi đền gần nhất cách chỉ một trăm bước chân và chúng ta đi đến đó trước tiên. Ta hỏi đây có phải là nơi Người Xưa thờ Trí Thông Minh của họ không.

Meronym nói, cũng sửng sốt như ta, rằng đây không phải là đền thờ, không hề, mà là đài thiên văn được Người Xưa dùng để nghiên cứu hành tinh, mặt trăng và các vì sao, và không gian giữa những nơi đó, để hiểu nơi vạn vật bắt đầu và nơi vạn vật kết thúc. Chúng ta bước thận trọng giữa những tượng đá vặn vẹo. Quanh một tượng đá ta thấy những vỏ sò bị nghiền nát từ Honomu và ta biết đó là vị khách của mình đêm hôm trước. Gió đem theo tiếng ông nội ta thì thầm từ xa rất xa… Judas. Ớn lạnh, đúng vậy, nhưng sửng sốt, không hề, vì mọi thứ ở nơi đó đều ớn lạnh… Judas. Ta không kể với Meronym.

Cô ta làm thế nào để cửa của đài thiên văn đó mở ra, ta không biết, vì thế đừng vặn hỏi ta. Một thứ dây như cuống rốn nối giữa ngách bụi bặm và gỉ sét của cánh cửa với quả trứng orison của cô đã phát huy tác dụng chỉ sau một hai giây. Lúc này ta đang bận canh chừng những cư dân của khu khép kín đó. Lời thì thầm của ông nội ta giờ trở thành những khuôn mặt chỉ có một nửa, đang nguyền rủa và biến mất khi ta nhìn thẳng vào. Một tiếng rít sắc lẹm vang lên khi cửa đài thiên văn hé mở. Không khí tràn ra ngoài bốc mùi ôi thiu và chua loét như được thở ra từ trước Sụp Đổ và, đúng vậy, có thể chính như thế. Chúng ta bước vào và đã tìm thấy gì?

Mô tả Trí Thông Minh đó thật không dễ. Có vật chúng ta không nhớ trên Ha-Why vì thế tên của nó cũng không được nhớ, phải, hầu như ta không nhận ra được gì ở trong đó cả. Sàn nhà lấp lánh, tường và mái nhà màu trắng, một căn phòng lớn, tròn và lún, chứa một chiếc đĩa to khổng lồ, to hơn cả mười người nằm nối nhau, Meronym gọi nó là kính thiên văn vô tuyến, con mắt nhìn xa nhất mà Người Xưa từng tạo ra. Mọi thứ trắng tinh như áo choàng của Sonmi, đúng vậy, không một hạt bụi nào ngoại trừ bụi do chúng ta đem vào. Bàn ghế chờ đợi người ngồi trên ban công làm bằng thép để chân có thể tạo tiếng vang. Ngay cả Nữ Tiên Tri cũng kinh ngạc trước tất cả Trí Thông Minh hoàn hảo này. Cô chiếu orison lên mọi thứ chúng ta thấy. Orison phát sáng và rung nhẹ và các cửa sổ hiện ra rồi biến mất. Nó đang nhớ những nơi nàyg, Meronym giải thích, dù ta không hiểu rõ lắm và hỏi quả trứng Thông Minh đó thật ra là gì.

Meronym dừng lại một nhịp rồi uống một ngụm nước lên men trong bình. Mỗi orison là một bộ não, một ô cửa sổ và một bộ nhớ. Bộ não của nó cho cậu làm những việc như mở các cánh cửa của đài thiên văn như cậu vừa thấy. Cửa sổ của nó cho cậu nói chuyện với những orison khác ở nơi rất xa. Bộ nhớ của nó cho cậu xem những gì mà các orison khác trong quá khứ đã thấy và nghe, và giữ cho những gì orison của tôi thấy và nghe không bị quên lãng.

Thật hổ thẹn khi nhắc Meronym nhớ đến việc mình lục lọi đồ của cô ta, đúng vậy, nhưng nếu khi đó không hỏi thì có lẽ ta sẽ chẳng còn dịp nào nữa, vì thế ta hỏi, Cô gái lấp lánh và xinh đẹp mà tôi thấy trong cái… orison này lúc trước… cô ta là bộ nhớ hay là cửa sổ?

Meronym đắn đo. Bộ nhớ.

Ta hỏi cô gái có còn sống không.

Không, Meronym đáp.

Ta hỏi, cô ấy có phải là Người Tiên Tri không?

Cô ta đắn đo, và nói cô muốn kể cho ta toàn bộ sự thật bây giờ, nhưng những Dân Thung Lũng khác chưa sẵn sàng để nghe về điều đó. Ta thề có biểu tượng của Bố chứng giám rằng sẽ không nói gì, không hề, với bất kỳ ai. Thôi được. Cô ấy chính là Sonmi, Zachry ạ. Sonmi người nhân bản vô tính mà tổ tiên của cậu tin là thần thánh.

Sonmi là con người như cô và tôi? Ta không bao giờ nghĩ thế và Trưởng lão cũng sẽ không bao giờ nói ra điều báng bổ này, không bao giờ. Sonmi do một vị thần Thông Minh tên là Darwin sinh ra, chúng ta tin như thế. Meronym tin rằng Sonmi này sống ở Đảo Tiên Tri hay trên Đảo Lớn?

Cô ấy sinh ra và chết hàng trăm năm về trước ở phía tây-tây bắc của đại dương, Meronym nói, trên một bán đảo bây giờ chỉ toàn là đất chết nhưng tên gọi lúc trước là Nea So Copros và tên gọi cổ là Triều Tiên. Sonmi sống một cuộc đời ngắn ngủi, bị bội phản, và chỉ sau khi chết, người ta mới phát hiện cô ấy nói được như thế về suy nghĩ của người trần và những người nhân bản vô tính. Toàn bộ tin tức chấn động này vo ve quay cuồng trong đầu ta và ta không biết phải tin gì nữa. Ta hỏi bộ nhớ của Sonmi đang làm gì trong orison của Meronym sau hàng trăm năm.

Giờ thì ta thấy Meronym cảm thấy hối hận vì đã mở lời, đúng vậy. Sonmi đã bị những tộc trưởn của Người Xưa giết chết, đó là những kẻ sợ cô ấy, nhưng trước khi chết, cô ấy đã kể với một orison về hành động và việc làm của mình. Tôi có bộ nhớ của cô ta trong orison của tôi vì tôi đang tìm hiểu về cuộc đời ngắn ngủi của cô ấy, để hiểu Dân Thung Lũng các anh tốt hơn.

Vì thế mà cô gái ấy ám ảnh ta đến thế. Vậy thứ mà tôi nhìn thấy là một hồn ma Thông Minh?

Meronym đồng ý. Zachry, chúng ta còn nhiều tòa nhà cần vào xem trước khi trời tối.

Trên đườn băng qua khu khép kín để đến đài thiên văn thứ hai, các tượng đá bắt đầu nói. Ô, cậu đã đúng về Người Tiên Tri ngay từ đầu đấy, người anh em Zachry! Cô ta đang xới tung niềm tin của cậu từ trên xuống dưới từ trong ra ngoài! Ta bịt chặt tai nhưng, đúng vậy, những giọng nói đó vẫn xuyên qua đôi tay này. Người đàn bà này chỉ cứu mạng Catkin để gieo vào đầu cậu cảm giác mắc nợ và mang ơn mà thôi! Từ ngữ của những tượng đá này méo mó như hình thù của chúng, ta nghiến hàm lại để không trả lời họ. Cô ta đang dò la sục sạo Trí Thông Minh của Đảo Lớn vốn thực sự thuộc về Dân Thung Lũng! Những ác quỷ bằng hạt cát bay vào dưới mi mắt ta. Bố của cậu sẽ không để cho kẻ ngoại bang nói dối nào ngọ nguậy chui vào niềm tin c ủa ông ta đâu, người anh em ạ, hoặc dùng ông ta như một con lừa thồ hàng! Những lời nói ấy quá đúng đến nỗi ta không thể tranh cãi lại, và ta ngã chúi nhủi.

Meronym đỡ ta dậy. Ta không hé răng về chuyện các tượng đá đang nói xấu cô, nhưng cô cảm nhận được có chuyện không ổn. Không khí trên này rất loãng và nhiều hơi nước, cô nói, não của cậu sẽ đói rã rời và biến nơi này thành một nơi kỳ quặc.

Chúng ta đến tòa nhà thứ hai và ta ngồi uể oải trong lúc Người Tiên Tri cố gắng mở cánh cửa. Ôi, mặt trời bỏng rát đó làm đầu ta trống rỗng. Cô ta là một kẻ khôn ngoan, không nghi ngờ gì nữa, Zachry! Một con chim đang đậu trên tượng đá của Truman Napes Thứ ba. Meronym thậm chí còn không nghe thấy lão. Cậu tin cô ta hay người thân của mình? lão gọi ta, giọng ai oán. Sự thật của cậu chỉ là không khí loãng và đầy hơi nước thôi sao? Ta có thế không? Ôi, ta cảm thấy nhẹ nhõm vào giây tiếp theo khi cửa đài thiên văn mở ra. Những hồn ma và sự thật như mũi giáo của họ không thể theo chúng ta vào trong, thế đấy, ta cho rằng Trí Thông Minh đã chặn họ lại bên ngoài.

Tình hình diễn ra như thế suốt cả buổi chiều, đúng vậy. Hầu hết các đài thiên văn đều giống cái đầu tiên. Người Tiên Tri mở cửa ra, khám phá từng nơi với orison, và gần như quên mất sự hiện diện của ta ở đó. Về phần mình, ta chỉ ngồi hít thở không khí Thông Minh đó cho đến khi cô ta làm xong. Nhưng trên đường đi giữa các tòa nhà, những tượng đá vặn vẹo lặp đi lặp lại với ta, Judas!Thân lừa ưa nặng!Nô lệ cho tàu Tiên Tri! Những hồn ma của Dân Thung Lũng van nài ta qua những đôi môi đóng băng dính chặt, đúng vậy, Cô ta không phải bộ tộc của cậu! Ngay cả màu da cũng khác! và hỡi ơi, đã có lúc ta phải thừa nhận những lý lẽ đáng sợ của họ.

Sự hoài nghi giày xéo tim ta.

Chưa có Người Tiên Tri nào từng thẳng thắn với bất kỳ Dân Thung Lũng nào và ngày hôm đó ta biết Meronym cũng không ngoại lệ. Các tượng đá biến bầu trời xanh thành màu xám lo âu và khô khốc khi chúng ta đến tòa nhà cuối cùng. Meronym bảo rằng đó không phải là đài thiên văn mà là một máy phát điện làm ra được phép màu Thông Minh gọi là điện giúp cho toàn bộ nơi này hoạt động, như trái tim làm cho cơ thể hoạt động vậy. Cô ta đang trầm trồ trước các loại máy móc nhưng ta chỉ cảm thấy thật ngu ngốc và bị phản bội vì đã bị Nữ Tiên Tri làm cho mờ mắt từ ngày cô ta chui vào nhà ta. Ta không biết nên làm gì hoặc cách nào để ngăn chặn kế hoạch của cô ta nhưng Georgie có kế hoạch của lão, mẹ kiếp lão.

Bên trong chiếc máy phát điện này khác với các tòa nhà khác. Nữ Tiên Tri hớn hở trông thấy khi chúng ta bước vào những căn phòng có tiếng vang nhưng ta thì không. Là thế này, ta biết trong đấy không chỉ có chúng ta mà thôi. Nữ Tiên Tri không tin ta, tất nhiên rồi, nhưng trong không gian rộng nhất nơi một quả tim sắt khổng lồ đứng lặng im là một chiếc ngai vàng, xung quanh là những chiếc bàn có những cánh cửa sổ nhỏ và số trên đó, trên ngai vàng này là một cha cố Người Xưa đã chết gục dưới một cửa sổ hình vòm. Người Tiên Tri nuốt nước bọt khó nhọc rồi ghé sát để nhìn. Một người đứng đầu các nhà thiên văn, tôi nghĩ vậy, cô ta nói khẽ , ông ta hẳn đã tự sát ở đây khi Sụp Đổ xảy đến, và không khí khép kín đã giúp bảo toàn cơ thể ông ấy khỏi bị thối rữa. Một ông vua cha cố chứ không phải một tù trưởng, ta đoán vậy, trong một cung điện thật là nguy nga. Cô ta phải ghi nhớ từng chút một căn phòng tận thế này vào orison trong lúc ta tiến đến gần hơn ông vua cha cố đó từ thế giới của Văn minh hoàn hảo. Mái tóc ông ta rối nùi, móng tay thì cong vút, năm tháng đã làm khuôn mặt teo lại và chảy xệ nhưng bộ quần áo Thông Minh của ông ta vẫn còn mới và tốt, tai ông ta xỏ hạt lam ngọc và ông ta khiến ta nhớ đến Chú Bees, cũng có cái mũi khoằm giống vậy.

Nghe ta đây, cậu trai làng, ông vua cha cố tự tử nói, phải rồi, nghe cho rõ đây. Người Xưa chúng ta quá chán ngán với Trí Thông Minh rồi và Sụp Đổ là liều thuốc của chúng ta. Người Tiên Tri không biết là cô ta mắc bệnh, nhưng, hỡi ôi, cô ta mắc bệnh thật sự rồi. Qua vòm cong của những ngọn sóng thủy tinh tuyết đang rơi lả tả và nhấn chìm mặt trời. Cho cô ta yên ngủ đi, Zachry, nếu không cô ta và đồng bọn sẽ đưa hết quân ngoại bang mắc bệnh đó đến Thung lũng xinh đẹp của cậu. Ta sẽ canh chừng Linh hồn cô ta cẩn thận ở nơi này, đừng lo. Nữ Tiên Tri đang đi tới đi lui với orison trong tay, ngân nga một bài hát ru trẻ con của Người Tiên Tri mà cô ta đã dạy cho Catkin và Sussy. Suy nghĩ của ta gõ nhịp từng giây. Giết cô ta không phải là hành động dã man và mọi rợ sao?

Không có đúng hay sai, ông vua thiên văn học bảo ta, chỉ là bảo vệ bộ lạc của cậu hoặc phản bội bộ lạc của cậu mà thôi, đúng thế, chỉ là một ý chí mạnh mẽ hay một tinh thần yếu đuối. Giết cô ta đi, người anh em. Cô ta không phải thánh thần, cô ta chỉ là người trần mắt thịt như cậu và ta tiến hóa từ Người Xưa chúng ta mà thôi. Cậu giết cô ta, đó là bổn phận của cậu cậu biết chứ.

Ta nói mình không thể, thiên hạ sẽ gọi ta là kẻ sát nhân và Trưởng lão sẽ triệu tập cuộc họp để trục xuất ta khỏi Thung lũng.

Ôi, suy nghĩ đi, Zachry, ông vua mỉa mai ta. Suy nghĩ mà xem! Làm sao thiên hạ biết được? Thiên hạ sẽ nói, “Kẻ ngoại bang cái gì cũng biết đó đã xem thường mọi truyền thuyết và tục lệ của chúng ta và xâm phạm đến Mauna Kea và Zachry dũng cảm đã đi theo để cố gắng canh chừng cô ta nhưng hóa ra cô ta không quá thông minh như cô ta nghĩ.”

Nhiều khoảnh khắc trôi qua. Thôi được, cuối cùng ta trả lời với vẻ trịnh trọng, tôi sẽ đâm cô ta khi chúng tôi bước ra ngoài. Ông vua – cha cố mỉm cười, hài lòng, và không nói gì thêm nữa. Cuối cùng nạn nhân của ta hỏi thăm ta . Ổn thôi, ta đáp, dù ta rất hồi hộp, thế đấy, thứ to nhất ta từng giết là dê và lúc này ta vừa thề sẽ giết một con người Tiên Tri. Cô ta nói chúng ta nên lên đường trở về vì không muốn bị kẹt lại trong bão tuyết trên này, rồi dẫn đường chúng ta quay trở ra khỏi máy phát điện.

Bên ngoài, các tượng đá đã im lặng trong lớp tuyết phủ đến gót chân. Một trận bão tuyết đã qua nhưng một trận khác lớn hơn đang đến, ta thầm nghĩ.

Chúng ta đi về phía cánh cổng thép, cô ta đi trước, ta siết chặt ngọn lao của Jonas và thử độ sắc của nó trên ngón tay cái của mình.

Làm ngay đi! từng tảng đá khát máu trên Mauna Kea ra lệnh.

Trì hoãn sẽ chẳng được gì. Rất khẽ, ta ngắm vào phần trên cùng của cổ Người Tiên Tri và cầu Sonmi phù hộ linh hồn, ta dùng hết sức bình sinh cắm phập mũi nhọn run rẩy ấy.

Không, ta đã không giết cô ta, số là trong khoảnh khắc tích tắc giữa ngắm và đâm, Sonmi đã phù hộ linh hồn ta, phải, bà đã thay đổi đích ngắm của ta và mũi lao ấy bay cao qua khỏi cánh cổng thép. Meronym thậm chí không nhận ra là cô ta suýt bị đâm thủng xương sọ nhưng ta biết chắc chắn rằng mình đã bị con quỷ của Mauna Kea phù phép, phải, tất cả chúng ta đều biết tên lão, ta nguyền rủa lão.

Cậu thấy cái gì ở trên đó à? Meronym hỏi sau khi ta phóng ngọn lao.

Đúng rồi, ta nói dối , nhưng chẳng phải người nào cả, không hề, chỉ là những trò đánh lừa ở nơi này thôi.

Chúng ta sắp về rồi, cô ta nói , chúng ta sẽ về ngay.

Già Georgie đã bị qua mặt, thế đấy, không có cách nào để ta giết cô ta nhanh chóng mà không cần dùng đến vũ khí, nhưng ta biết lão không chỉ nằm xuống nhìn chiến thắng của ta, không hề, ta biết lão già ranh mãnh quỷ quyệt đó.

Khi ta leo lên đoạn dây thừng với túi vật dụng, Mauna Kea hít một hơi đầy căng rồi rống khạc một màn tuyết xối xả vì thế ta không thể nhìn thấy rõ mặt đất, hàng chục cơn gió xé toạc mặt ta, các ngón tay ta cứng đơ vì lạnh và khi lên được nửa đường ta lại bị tuột xuống một nửa, sợi dây thừng đó làm tay ta đau rát nhưng cuối cùng thì ta cũng đã leo lên được đến đỉnh và lôi chiếc túi vật dụng lên với đôi tay đau buốt tận xương. Meronym không nhanh như vậy, nhưng cô ta cũng không còn xa đỉnh tường, khi đó, đột nhiên thời gian… dừng lại.

Thời gian dừng lại, phải, các con đã nghe đúng. Vì Toàn Thế giới trừ ta và một tên ác quỷ ma mãnh, phải, các con biết con quỷ nào đang bò lên theo bức tường, thời gian chỉ đơn giản là… dừng lại.

Hoa tuyết treo lơ lửng lấp lánh trong không khí. Già Georgie hất chúng sang một bên. Ta đã cố gắng nói lý lẽ với cậu, Zachry, cậu bé bướng bỉnh ạ, giờ đây ta buộc phải dùng đến cảnh cáo, tiên báo và ra lệnh rồi. Rút dao ra và cắt đứt sợi dây thừng này đi. Bàn chân lão chạm vào sợi dây thừng đang giữ Meronym bị đóng băng thời gian. Khuôn mặt mệt mỏi qua làn bão tuyết, các cơ bắp của cô căng ra để leo lên sợi dây thừng đó. Sáu mét bên dưới không có gì cả. Nếu ngã, cô ta có thể không chết khi ta cho thời gian trôi trở lại, Già Georgie đọc được suy nghĩ của ta, nhưng những tảng đá dưới đó sẽ làm gãy chân và cột sống cô ta và cô ta sẽ không sống nổi qua hết đêm nay. Ta sẽ để cô ta nghiền ngẫm về sự ngu xuẩn của mình.

Ta hỏi lão tại sao lão không tự tay giết Meronym đi.

Tại sao – tại sao – tại sao? Già Georgie mỉa mai. Ta muốn cậu làm điều đó, và đây là lý do tại sao – tại sao – tại sao. Này nhé, nếu cậu không cắt sợi dây thừng đó, thì trong vòng ba con trăng gia đình thân yêu của cậu sẽ chết, ta thề! Ta thề đấy. Vì vậy cậu có thể chọn. Một bên là bà Mẹ Dũng Cảm, Sussy Mạnh Mẽ, Jonas Thông Minh, Catkin Đáng yêu, tất cả chết hết. Zachry hèn nhát sẽ sống tiếp và giày xé lương tâm đến ngày chết. Một bên là chỉ có một kẻ ngoại bang chết mà chẳng ai thèm nhớ đến. Bốn người cậu thương yêu với một người cậu không màng đến. Ta thậm chí còn có thể làm phép để đưa Adam trở về từ tay bọn Kona đấy.

Không còn đường thoát. Meronym phải chết.

Phải, không còn đường thoát, chàng trai ạ. Ta sẽ đếm đến năm…

Ta nắm lưỡi dao. Một hạt giống nảy mầm từ lớp đất khô cằn trong trí nhớ của ta, và hạt giống đó là một từ mà Georgie vừa nói khi nãy,“tiên báo”. Ta lập tức ném lưỡi dao xuống cùng ngọn lao và nhìn vào đôi mắt đáng sợ của con quỷ đó. Lão lộ vẻ tò mò ngạc nhiên và nụ cười héo úa của lão chứa đựng một bồ tâm địa đen tối. Ta nhổ vào mặt lão nhưng nước bọt của ta văng ngược trở lại ta. Tại sao? Chẳng lẽ ta đã phát điên và mất trí?

Già Georgie đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, số là, lão nhắc ta nhớ đến tiên báo dành cho ta trong Đêm Báo Mộng. Bàn tay bỏng cháy, chớ cắt dây thừng. Quyết định của ta đã rõ ràng, thì đấy, tay ta đang bỏng cháy, vậy đây chính là sợi dây thừng mà Sonmi bảo ta đừng cắt.

Lưỡi dao của ta cắm xuống đất và thời gian tiếp tục trôi, hàng triệu bàn tay và tiếng gào thét từ trận bão tuyết của con quỷ đó quăng quật ta túi bụi nhưng không thể xô ngã ta, bằng cách nào đó ta đã kéo Meronym lên rồi giúp cô xuống mặt bên kia của tường mà không bị gãy chiếc xương nào. Chúng ta ngược cơn bão tuyết trắng điên cuồng mịt mờ để quay về làng thiên văn, lê lết, vấp ngã và đứng dậy lạnh cóng nhưng nhờ hồng ân của Sonmi một căn phòng khô ráo đợi sẵn và ta đã tìm cách nhóm được lửa, ta thề ngọn lửa ấy đã cứu sống cuộc đời chúng ta một lần nữa. Chúng ta nấu băng thành nước rồi sưởi ấm từng đốt xương và hong khô quần áo lông thú. Chúng ta chẳng nói với nhau lời nào bởi đã quá lạnh và kiệt sức. Ta có hối hận vì đã hất Già Georgie xuống đất không?

Không hề, khi đó không, và đến giờ vẫn không. Bất kể Meronym leo lên ngọn núi bị nguyền rủa này vì lý do gì, ta không tin cô đã phản bội bất kỳ Dân Thung Lũng nào, không hề, lòng ta thực sự không hề nghĩ vậy, và dù sao đi nữa, không sớm thì muộn bọn Kona cũng sẽ làm những điều mà chúng làm với Thung lũng. Đó là tương lai của đêm đầu tiên đó trên đỉnh núi. Bạn ta đưa những viên thuốc cho cả hai sau khi ăn lương khô và chúng ta ngủ không mơ thấy gì về ông vua thiên văn.

Bây giờ, quay về Thung lũng cũng chẳng dễ dàng tí nào, nhưng tối nay không phải là lúc để dài dòng về những chuyến mạo hiểm đó. Meronym và ta không nói gì nhiều với nhau trên đường đi xuống, một thứ như lòng tin và sự thấu hiểu giờ đây đã buộc chặt chúng ta. Mauna Kea đã cố hết sức để giết chúng ta nhưng chúng ta đã cùng nhau sống sót vượt qua. Ta nhận ra cô đang ở rất rất xa gia đình họ hàng và tim ta đau buốt khi nghĩ đến sự cô đơn của cô. Abel chào đón chúng ta trong căn nhà được làm thành chốt canh gác của ông ta ba đêm sau đó và nhắn tin đến Nhà Bailey rằng chúng ta đã trở về. Mọi người đều có cùng một câu hỏi, Cậu đã thấy gì ở trên đấy? Ở đó rất vắng vẻ và tĩnh mịch, ta nói với họ, có nhiều đền đài của Trí Thông Minh và xương cốt. Nhưng ta không hé môi về ông vua thiên văn hay những gì Meronym đã nói với ta về Sụp Đổ và đặc biệt không đả động gì đến cuộc vật lộn với Già Georgie, không hề, không một lời cho đến khi rất nhiều năm đã đến và đi.

Ta hiểu tại sao Meronym không nói toàn bộ sự thật về Đảo Tiên Tri và bộ lạc của cô. Người ta tin rằng thế giới này được xây dựng như thế và nói với họ rằng nó không như thế sẽ làm sụp đổ mái nhà trên đầu họ và có thể trên đầu cả các con nữa.

Ma Lắm Điều loan truyền tin tức rằng Zachry trở về từ Mauna Kea không còn là Zachry trước khi leo lên đó và ta cho rằng điều đó cũng đúng, không có hành trình nào không làm các con ít nhiều thay đổi. Em họ Kobbery của ta xác nhận rằng các ông bố bà mẹ ở khắp nơi trên Chíng Thung Lũng cảnh cáo con gái họ không được giao du với Zachry ở Nhà Bailey vì họ nghĩ rằng ta hẳn đã đổi chác gì đó với Già Georgie mới thoát được cái chốn rừng thiêng nước độc đó mà linh hồn vẫn còn nằm trong hộp sọ, và dù cho đó không phải là toàn bộ sự thật, nó cũng không hoàn toàn sai sự thật. Jonas và Sussy không còn đùa giỡn với ta như trước nữa. Nhưng Mẹ thì nước mắt lưng tròng khi thấy chúng ta trở về và ôm chầm lấy chúng ta, Zach-man bé bỏng của ta, đàn dê thì vui mừng còn Catkin thì chẳng có gì thay đổi. Con bé và các anh em ở trường học đã nghĩ ra một trò chơi mới, Zachry và Meronym trên Mauna Kea, nhưng Trưởn lão bảo chúng không được chơi trò đó vì có lúc những trò giả vờ lại có thể trở thành sự thật. Catkin nói trò đó hay ơi là hay, nhưng ta không muốn biết luật lệ hay kết cục của nó.

Chẳng mấy chốc mà con trăng cuối cùng của Meronym ở Chín Thung Lũng cũng đã căng tròn và lại đến lúc tổ chức Hội chợ Honakaa, phiên họp chợ lớn nhất của các dân tộc ở Windward, mỗi năm một lần duy nhất vào mùa thu hoạch, vì thế trong nhiều ngày liền chúng ta cật lực làm việc, đan những tấm chăn bằng len dê, là món hàng được ưa chuộng nhất của nhà chúng ta. Kể từ khi bố bị sát hại, chúng ta luôn đi bộ đến Honokaa thành từng nhóm mười người hoặc hơn, nhưng năm đó số người nhiều gấp đôi nhờ những món quà Tiên Tri đặc biệt có được vì đã cung cấp chỗ ăn ở cho Meronym. Có xe thồ và lừa thồ hàng để chở tất tần tật các món thịt khô, da, phô mai và len. Wimoway và Roses sẽ trao đổi những loại thảo dược không mọc gần các Thung lũng, dù Roses và Kobbery lúc đó đang mê tít nhau song ta cũng chẳng bận tâm. Ta chúc em họ ta may mắn vì may mắn là thứ cậu ấy cần, và một tấm lưng khỏe.

Băng qua Sloosha’s Crossin’ ta phải chứng kiến cảnh những người đi đường đặt những hòn đá mới lên mộ Bố, theo phong tục thế nghĩa là Bố ta có rất nhiều bạn bè anh em thật sự yêu quý ông. Ở trên Mauna Kea con quỷ đó đang mài nhọn móng tay trên một hòn đá mài để chuẩn bị chén đứa nói dối hèn nhát này. Sau Sloosha’s là đến con đường khúc khuỷu dẫn lên Kukuihaele. Một chiếc xe thồ bị gãy đổ tung tóe nên mọi người đi rất chậm và khát nước, mãi đến chiều tối chúng ta mới đến được ngôi làng nhếch nhác nằm ở tít phía bên kia. Đám thanh niên trai tráng trèo cây dừa hái quả và mọi người đều chấp nhận món nước dừa đó không kêu ca gì. Tiến về phía nam trên con đường của Người Xưa về hướng Thị trấn Honokaa, gió biển trở nên trong lành và tinh thần chúng ta lại phấn chấn vì thế mọi người kể chuyện để rút ngắn khoảng cách, người kể chuyện ngồi quay lưng lại trên con lừa dẫn đầu để mọi người đều nghe thấy. Rodgrick kể Chuyện về Rudolf Tên trộm dê đeo nhẫn đỏ và Mũi giáo ghê tởm của Iron Billy, còn Wolt thì hát một bài sướt mướt về Nàng Sally của Thung lũng mặc cho chúng ta dùng gậy đánh tới tấp vì giọng hát lạc nhịp chói tai của cậu ta. Sau đó Chú Bees nhờ Meronym kể cho chúng ta một chuyện của Người Tiên Tri. Cô đắn đo một lúc rồi nói những câu chuyện của Người Tiên Tri đều thấm đượm tiếc nuối và mất mát và không phải là một chuyện đáng làm vào buổi chiều nắng đẹp trước Ngày Họp Chợ, nhưng cô có thể kể cho chúng ta một câu chuyện mà cô nghe được từ một người đốt đất ở một điểm rất rất xa tên là Panama chăng? Chúng ta đều đồng ý và thế là cô leo lên con lừa dẫn đầu rồi kể một câu chuyện ngắn dễ thương mà ta sẽ kể cho các con nghe sau đây, nên tất cả hãy im lặng, ngồi ngay ngắn và đứa nào đi lấy cho ta một tách rượu tươi ngon để ta uống thấm giọng xem nào.

Vào thời mà Sụp Đổ đang diễn ra, con người quên mất cách tạo ra lửa. Hỡi ôi, bao nhiêu là chuyện tệ hại xảy ra, đúng vậy. Khi trời tối, người ta không còn nhìn thấy gì, khi mùa đông đến, họ không thể sưởi ấm được gì, ban ngày họ không nấu nướng được gì.

Thế là người dân bộ lạc đến gặp Người Thông thái và hỏi, Thưa Người Thông thái, hãy giúp chúng tôi, số là chúng tôi đã quên cách tạo ra lửa, và hỡi ôi, chúng tôi thật là khổ sở quá đi.

Thế là người Thông thái gọi Con Quạ đến và bảo nó như sau:

Hãy bay qua đại dương điên cuồng trong nháy mắt để đến Núi lửa Vĩ đại, và trên sườn núi rậm rạp, hãy tìm một cành cây dài. Hãy ngậm cành cây ấy trong miệng của mi rồi bay vào miệng Núi lửa Vĩ đại, nhúng nó xuống hồ lửa đang sôi sục trào dâng ở nơi nguy hiểm đó. Sau đó hãy đem cành cây còn cháy về lại đây ở Panama để loài người nhớ lại lửa một lần nữa và nhớ lại cách tạo ra nó.

Con Quạ làm theo lời dặn của Người Thông thái, nó bay qua đại dương điên cuồng trong nháy mắt cho đến khi nhìn thấy Núi lửa Vĩ đại nghi ngút khói từ xa. Nó lượn vòng xuống sườn núi rậm rạp, nhón vài quả dâu rừng, uống một ngụm nước suối, nghỉ ngơi đôi cánh mệt rã rời một chốc, rồi lùng sục khắp nơi để tìm một cành thông dài. Một, hai, ba và Con Quạ bay vút lên, ngậm cành cây trong miệng, rồi con chim dũng cảm lao vụt xuống cái miệng sôi sục của Núi lửa Vĩ đại, phải, nó bay vọt lên từ cú lao xuống đó vào khoảnh khắc cuối cùng, lôi theo cành thông qua ngọng lửa nóng rực có thể làm tan chảy mọi thứ, vútttttt, nó bốc cháy! Con Quạ bay lên ra khỏi miệng núi lửa nóng như thiêu đốt, lúc này nó bay với cành cây đang cháy trong miệng, đúng vậy, nó tiến về nhà, cánh đập mạnh, cành cây cháy, nhiều ngày trôi qua, mưa đá trút xuống, mây đen vần vũ, hỡi ôi, ngọn lửa đã liếm gần hết cành cây đó, mắt mờ khói, lông cháy sém, mỏ bị bỏng,… . Đau quá! Con Quạ kêu lên. Đau quá! Vậy, nó có làm rơi cành cây hay khôn? Chúng ta có nhớ cách tạo ra lửa hay là không nào?

Vậy là, Meronym nói, ngồi quay lưng trên con lừa dẫn đầu, câu chuyện không phải về Con Quạ hay ngọn lửa, mà về cách con người chúng ta có được nghị lực như thế nào. Ta không nói câu chuyện đó có ý nghĩa cho lắm nhưng ta luôn nhớ về nó, và đôi khi ít ý nghĩa lại mang nhiều ý nghĩa hơn. Nói tóm lại ngày sắp tàn trong những đám mây mùa hè và chúng ta vẫn còn cách Honokaa vài dặm nữa, vì vậy chúng ta dựng lều để nghỉ lại đêm rồi đổ xúc xắc để chia nhau canh gác, do tình hình không được tốt và chúng ta không muốn bị tập kích. Ta đổ được hai con sáu nên có lẽ vận may đã trở lại, và ta nghĩ, ta thật là một kẻ khờ của số mệnh, phải, tất cả chúng ta đều thế.

Honokaa là thị trấn nhộn nhịp nhất ở đông bắc Windward, số là, Người Xưa đã xây nó đủ cao để sống sót trước nước biển dâng, không như một nửa Hilo hoặc phần lớn Kona hầu như tháng nào cũng ngập lụt. Người Honokaa chủ yếu làm nghề buôn bán và sản xuất, ô hô, họ thờ Sonmi nhưng khôn khéo không muốn đặt hết vận mệnh vào đó nên cũng thờ các vị thần Hilo nữa, vì vậy Dân Thung Lũng chúng ta nghĩ họ là những người bán-dã-man. Tù trưởng của họ được gọi là Trưởng Tộc, ông ta có nhiều quyền lực hơn Trưởng lão của chúng ta, đúng vậy, ông ta có một quân đội từ mười đến mười lăm người tinh nhuệ, có giáo mác sắc bén, nhiệm vụ của họ là thực thi mệnh lệnh của Trưởng Tộc, và không ai được chọn ra Trưởng Tộc, không hề, đó là một vị trí cha truyền con nối kiểu nguyên sơ. Honokaa là điểm trung chuyển tương đối tốt cho người Hilo và Honomu, Dân Thung Lũng và người Mookini trước khi họ bị biến thành nô lệ, và các bộ tộc trên núi ở miền thượng. Các bức tường thành Người Xưa đã được xây lại mới, những mái nhà bị thổi tung đã được sửa chữa nhiều lần nhưng các con vẫn có thể đi dạo quanh những con đường nhỏ hẹp quanh co, tưởng tượng đến những chiếc thuyền kayak và những chiếc xe thồ không có ngựa kéo lăn bánh đây đó. Cuối cùng là khu trao đổi hàng hóa, một tòa nhà vô cùng rộng rãi mà Trưởng lão nói từng được gọi là nhà thờ, nơi một vị thần cổ đại được thờ nhưng hiểu biết về vị thần đó đã mất trong Sụp Đổ. Nhà thờ có tường chắc chắn và kính màu rất đẹp nằm giữa một khoảng không xanh tươi có rất nhiều chuồng đá cho cừu, dê, lợn. Trong suốt hội chợ, lính của Trưởng Tộc canh gác các cổng tháp, nhà kho, khóa lại bằng thanh sắt. Nhưng không lính canh nào đánh nhau với người bán hàng trừ phi kẻ đó ăn cắp hoặc phá rối trật tự trị an. Ta nghĩ Honokaa có nhiều luật hơn bất kỳ nơi nào trên Đảo Lớn trừ Thung Lũng Chín Dải, dù luật và Văn minh không phải lúc nào cũng đi chung, không hề, đấy bọn Kona có luật Kona nhưng chúng không có một xíu xiu Văn minh nào.

Buổi họp chợ đó, Dâng Thung Lũng chúng ta trao đổi được rất nhiều hàng hóa cho chúng ta và Cộng đồng. Hai chục bao gạo từ các bộ lạc trên núi đổi được vải dầu Tiên Tri, còn thịt bò và da bò từ nông trại Parker thì đổi được đồ kim loại. Chúng ta không nói với ai về chuyện Meronym là người ngoại bang, không hề, chúng ta đặt tên cô là Ottery của Nhà Hermit từ Thung lũng Pololu ở thượng nguồn, Ottery là thầy thuốc và là một kẻ sinh ra dị dạng may mắn sống, chúng ta nói thế, để giải thích về làn da đen và hàm răng trắng của cô. Chúng ta nói vật dụng của Nhà Tiên Tri là đồ tìm được từ một kho cất giấu, dù chẳng có ai hỏi, Vậy cậu lấy món đồ này từ đâu ra? rồi chờ đợi một câu trả lời thành thật. Ma Lắm Điều ngậm chặt miệng ở bên ngoài Chíng Thung lũng, vì vậy khi một người kể chuyện tên là Lyons hỏi ta có phải là Zachry từ Thung lũng Elapaio, người từng leo Mauna Kea vào con trăng trước hay không, ta đã hết sức bất ngờ. Phải, ta đáp , tôi chính là Zachry của Thung lũng đó nhưng tôi không chán ghét cuộc sống này đến nỗi bén mảng đến gần đỉnh ngọn núi ấy làm gì, không hề. Ta nói ta chỉ đi tìm rễ và lá thuốc quý với Cô Ottery của mình nhưng chúng ta không đi đâu cao hơn nơi cây cối ngừng mọc, không hề, và nếu ông ta nghe chuyện khác như vậy thì đây, ta ở đây để nói rằng ông ta đã nghe sai. Lyons nói chuyện với ta vẫn thân thiện nhưng khi người anh em Harrit kể với ta cậu ấy thấy Lyons và Leary Râu Rậm to nhỏ với nhau ở cuối một con hẻm cụt ám khói, ta nghĩ mình sẽ nói lại với Trưởng lão khi chúng ta trở về nhà để xem bà nghĩ thế nào. Ta luôn ngửi thấy mùi mông chuột thối tỏa ra từ Leary, và ta sắp sửa biết trong chỉ vài giờ nữa thôi rằng, hỡi ôi, ta đã nghĩ quá đúng.

Meronym và ta đã trao đổi hết da dê và chăn từ khá sớm, ta được một túi cà phê Manuka thượng hạng, vài cái ống nhựa có khấc, yến mạch béo ngon và nhiều túi nho khô từ một cô gái Kolekole da ngăm, và còn nhiều vật dụng nữa mà bây giờ ta không nhớ. Ta nghĩ người Kolekole không quá hoang dã, dù họ chôn người chết dưới nhà của người sống vì họ tin làm thế người chết sẽ ít cô đơn hơn. Sau đó ta đến phụ giúp trao đổi hàng ở chợ của chúng ta một lúc rồi đi dạo loanh quanh, hỏi thăm người đến trao đổi hàng từ khắp nơi, thổ dân không phải lúc nào cũng là người xấu, không hề. Ta được biết người Mackenzymen đã nghĩ ra thần cá mập và hằng năm vẫn làm lễ tế bằng cách ném những con cừu bị cắt cổ chặt chân xuống vách đá. Ta cũng nghe được những chuyện quen thuộc rằng bọn Kona đang xâm lấn sang phía đông khu vực săn bắn quen thuộc của chúng và tin này phủ bóng đen lên đầu óc và tâm trí tất cả chúng ta. Ta tìm thấy một đám đông đang vây quanh một người nào đó, khi tiến lại gần ta thấy đó là Meronym, hay là Ottery, đang ngồi trên một chiếc ghế và vẽ khuôn mặt mọi người, đúng vậy! Cô đổi những bức vẽ đó để lấy các vật trang trí nhỏ hoặc một món ăn và tất thảy mọi người đều hân hoan thích thú, đứng xem đầy vẻ kinh ngạc khi khuôn mặt họ hiện ra trên tờ giấy, người kéo đến mỗi lúc một đông, họ nói, Tới lượt tôi nhé! Tới lượt tôi nhé! Mọi người hỏi cô học cái này ở đâu và câu trả lời của cô vẫn như mọi khi, Đây không phải là học, người anh em à, chỉ là vẽ nhiều thành quen thôi. Người xấu thì cô vẽ cho đẹp hơn một chút, nhưng các họa sĩ trong lịch sử đều làm như thế, Ottery thầy thuốc biết vẽ nói, Đúng vậy, khi nói đến mặt mũi, thì những lời nói dối đẹp đẽ luôn tốt hơn sự thật xấu xa.

Màn đêm buông xuống, chúng ta quay trở về gian hàng của mình và rút thăm canh gác, sau đó tiệc tùng bắt đầu ở những quán rượu nổi tiếng. Sau khi kết thúc ca gác sớm, ta dẫn Meronym đi xem một vài nơi với Wolt và Chú Bees trước khi những người chơi nhạc kéo chúng ta trở về Nhà thờ. Đó là một đêm hào hứng với banjo, đàn thùng, một cây đàn ghita bằng thép quý hiếm, và nhiều thùng rượu mà mỗi bộ lạc đem theo để thể hiện sự sung túc của mình và những túi cỏ sung sướng, vì ở đâu có Hilo thì tất nhiên ở đó có cỏ sung sướng. Ta rít một hơi thật sâu từ ống tẩu của Wolt và bốn ngày đi từ Windward đến Kona Leeward đối với ta xa như bốn triệu ngày, phải, những em bé của cỏ sung sướng ru ta ngủ tối hôm đó, rồi tiếng trống vang dồn, số là mỗi bộ lạc đều có một loại trống riêng. Foday từ Nhà Ao Sen và hai-ba Dâng Thung Lũng chơi trống tom-tom bằng da dê và gỗ ping, những người Hilo râu quai nói vỗ trống phồm-phồm, một gia đình Honokaa đánh sash-krranger, tộc Honomu lắc xắc chuỗi vỏ sò. Lễ hội trống tuyệt vời này gảy lên những dây đàn tươi trẻ của đám thanh niên và của cả ta nữa, còn cỏ sung sướng sẽ đưa các con từ chỗ lắc lư, vỗ tay, nhịp chân đến nện chân thình thịch và máu chảy rần rật, năm tháng ào ào trôi qua và cứ mỗi một nhịp trống thì một cuộc đời của ta rơi xuống, ta nhìn tất cả những cuộc đời mà linh hồn ta từng đi qua lùi dần mãi cho đến khi trước Sụp Đổ, đúng vậy, như nhìn từ trên lưng ngựa phi nước đại trong cơn cuồng phong, nhưng ta không thể mô tả chúng vì từ ngữ đã tiêu biến mất, rồi ta nhớ cô gái Kolekole da ngăm với hình xăm bộ lạc, phải, cô ta là một cái cây nhỏ cong oằn còn ta là trận cuồng phong đó, ta thổi cô ấy cong oằn, ta thổi mạnh hơn, cô ấy cong nhiều hơn và gần hơn, rồi sau đó ta là Con Quạ đập cánh còn cô là ngọn lửa liếm láp và khi cành cây non Kolekole đan những ngón tay liễu rủ quanh cổ ta, đôi mắt cô ánh lên như thạch anh và cô thì thầm vào tai ta, Phải, em sẽ làm, một lần nữa, phải rồi, chúng ta sẽ làm, một lần nữa.

Dậy đi nhóc, bố đánh lên người ta vẻ sốt ruột, sáng nay không phải là lúc để con trúng lời nguyền chiếc giường lười đâu. Giấc mơ bong bóng đó vỡ tan và ta thức dậy dưới lớp chăn Kolekole ngứa ngáy. Cô gái da ngăm và ta đang quấn lấy nhau, đúng vậy, như một đôi thằn lằn bóng nhờn nuốt lấy nhau. Nàng có mùi rượu nho và tro nham thạch, hai bầu ngực màu ô liu của nàng nhô lên hạ xuống, và khi ngắm nhìn nàng, ta có cảm giác như nàng là đứa con đang nằm cuộn mình cạnh bên ta. Cỏ sung sướng vẫn còn làm ta mơ màng và ta nghe tiếng la hét gần xa của bữa tiệc tùng điên loạn dù một buổi bình minh đẫm sương đã đến, đúng vậy, chuyện này vẫn hay xảy ra ở những chợ phiên mùa thu hoạch. Vậy là ta vươn vai ngáp, nhức mỏi và cảm thấy tinh thần thật sảng khoái phấn chấn, các con biết cái cảm giác khi cưa đổ một cô gái đẹp là thế nào mà. Bữa ăn sáng bốc khói đang được nấu gần đó nên ta mặc quần và khoác áo vào, và cô gái Kolekole mở mắt ra, nàng thì thầm, Chào buổi sáng, chàng mục đồng, ta bật cười nói, Ta sẽ quay lại cùng thức ăn, nhưng nàng không tin ta nên ta định bụng sẽ chứng minh là nàng sai và thấy lại nụ cười của nàng khi ta đem bữa sáng quay về. Bên ngoài nhà kho Kolekole là một con đường sỏi chạy qua Tường Thành, nhưng ta không nhận ra nó dẫn về phía bắc và phía nam, ta đang lần tìm đường đi ở đó thì một lính canh Honokaa rơi phịch xuống từ thành lũy và suýt nữa thì đè chết ta.

Ruột gan ta thắt lên lộn xuống.

Một cán tên thò ra từ mũi anh ta còn phần mũi tên thì xuyên ra sau đầu. Mũi sắt của nó làm chấn động buổi sáng hôm đó và biến mọi thứ thành một chốn kinh hoàng.

Tiếng tiệc tùng hoang dại khi gần khi xa đó chính là tiến đánh đấm, đúng vậy! Bữa sáng bốc khói đó chính là mái rạ bị đốt cháy, đúng vậy! Lúc này suy nghĩ đầu tiên của ta là người dân thung thũng nên ta vội lao về phía gian hàng của Dân Thung Lũng trong trung tâm thị trấn và hét lên, KONA! KONA! Đôi cánh đen tối của hai từ đáng sợ đó hoảng hốt xuyên qua Hokonaa, ta nghe một tiếng vỡ rền vang và một tiếng thét rùng rợn phát ra, ta nhận ra cổng thành đã bị đổ. Lúc này ta đến quảng trường nhưng đám đông hoảng hốt chặn đường ta và nỗi sợ, phải, nỗi sợ và mùi hôi hừng hực từ nó đã xoay lưng ta lại. Ta chạy qua những con đường nhỏ hẹp nhưng tiếng gầm của bọn Kona ngày một gần, những con ngựa và roi da tràn vào ở những con hẻm mù sươn đang bốc cháy như sóng thần, ta không biết đã qua đường nào hay sắp đi đường nào và ầm! ta bị hất xuống con mương bởi một bà già ốm yếu đang quật túi bụi vào không khí bằng một cây cán bột, Đừng hòng đặt đôi tay bẩn thỉu của mi lên người ta, nhưng khi ta lồm cồm bò dậy thì đã thấy bà đứng bất động, xanh như tàu lá, bà bị một mũi tên bắn xuyên qua ngực và đột nhiên ối một ngọn roi quấn chặt hai chân ta và ối ta bay vút lên cao và ối đầu ta chúc xuống đất và aaaa nền đá đập vào sọ ta, mạnh hơn cả cú chặt từ một cái đục lạnh lùng.

Khi ta tỉnh lại, cơ thể trai tráng của ta đau như dần, đầu gối bị vỡ, một cùi chỏ bị trật cứng ngắc và bầm tím còn xương sườn thì gãy, mất hai chiếc răng, hàm không khớp lại được nữa và cục u trên đầu to như cái đầu thứ hai vậy. Ta bị trùm đầu như con dê trước khi bị giết thịt, tay chân bị trói thô bạo và nằm thõng thượt trên và dưới những cơ thể đáng thương khác, đúng vậy, ta đau như chưa từng biết đau trước đây, chưa từng! Xe thồ kêu kẽo kẹt, tiếng vó sắt lộc cộc và cứ mỗi lần lúc lắc thì đau đớn lại ọc lên trong sọ ta.

Kỳ thực, chẳng có gì bí ẩn cả. Chúng ta đang bị bắt làm nô lệ và bị chất lên xe đưa về Kona hệt như người anh trai Adam đã biến mất của ta. Ta không đặc biệt vui mừng vì vẫn còn sống, ta chẳng cảm thấy gì ngoài đau đớn và bất lực như một con chim bị treo lên và chảy máu do cái móc. Một bàn chân ngọ nguậy đè lên hòn bi ta, vì thế ta thì thầm, Có ai còn sống ở đây không? Thế đấy, ta nghĩ có thể mình vẫn còn có thể tìm cách thoát ra khỏi cái hố đó, nhưng một giọng Kona thô lậu quát lên chỉ cách đó vài tấc, Câm mồm đi, lũ trai bị trói, nếu không ta thề trên lưỡi dao của mình ta sẽ cắt lưỡi từng đứa chó ỉa chúng bây! Một làn nước ấm thấm vào cánh tay ta, một người nào đó nằm trên ta vừa đái ra quần, nó từ từ biến thành nước lạnh khi từng khoảnh khắc trôi qua. Ta đếm thấy năm giọng Kona, ba con ngựa và một cái chuồng gà. Những kẻ bắt chúng ta làm nô lệ đang bàn tán về những cô gái mà chúng đã xé toạc quần áo và cưỡng hiếp trong trận Honokaa, nên ta biết ta đã bị trùm đầu nửa ngày hoặc hơn rồi. Ta không đói nhưng hỡi ôi, ta khát khô cả cổ. Một trong những giọng Kona nghe quen mà không biết vì sao. Cứ một lúc lâu sau lại có một tiếng vó ngựa chiến rền vang dọc đường và dậy lên câu Chào chỉ huy trưởn!Vâng, thưa ngàiTrận chiến thắng lợi! nhờ đó ta biết bọn Kona không chỉ tấn công vào Honokaa mà còn đánh chiếm toàn bộ miền bắc của Đảo Lớn, đúng vậy, và điều đó đồng nghĩa với Thung Lũng. Thung Lũng Chín Dải của ta. Sonmi ơi, ta cầu nguyện, Sonmi lòng từ, xin hãy chở che cho gia đình và người thân của con.

Cuối cùng cơn buồn ngủ lôi tuột ta đi và ta mơ thấy cô gái Kolekole nhưng bộ ngực và cái hông của nàng làm từ tuyết và đá nham thạch, khi tỉnh lại trên chiếc xe thồ đó, ta thấy một nô lệ đã chết nằm ở phía dưới và đang hút hết hơi ấm khỏi người ta. Ta hét lên, Này, Kona, có một người chết ở đây này, chắc là con ngựa thồ sẽ cám ơn các người nếu được dỡ bớt gánh nặng. Một đứa con trai nằm phía trên ta kêu toáng lên khi tên Kona đánh xe thồ quất roi vào nó để thưởng cho nó vì sự quá-ư-tử tế của ta, chắc nó là đứa đã đái ra quần. Qua tiếng chim ta biết trời gần tối, và chúng ta đã bị chất trên xe cả ngày.

Một lúc lâu sau xe dừng lại, ta bị lôi ra khỏi chiếc xe thồ ấy và bị một mũi giáo đâm vào. Ta hét lên ngọ nguậy, nghe một tên Kona nói, Thằng này vẫn còn sống đấy, rồi bị nhấc lên và dựa vào một tảng đá to bằng cái chòi, ngay sau đó bao trùm đầu của ta được tháo ra. Ta ngồi dậy nheo mắt trước ánh chạng vạng thê lương. Chúng ta đang ở trên đường Waimea ngoằn ngoèo và ta nhận ra chính xác đây là đâu, phải, ngay bên cái ao dốc và tảng đá to bằng cái chòi mà chúng ta đang tựa lưng vào chính là tảng đá mà Meronym và ta đã gặp Già Yanagi chỉ một con trăng trước.

Lúc này ta nhìn bọn Kona ném ba nô lệ đã chết cho bọn chó hoang và diều hâu, và ta biết tại sao ta nhận ra một giọng quen thuộc trước đây, khi thấy một trong những kẻ bắt bớ chính là Lyons người kể chuyện, em trai của Leary. Người kể chuyện và kẻ tai mắt, cầu cho Già Georgie nguyền rủa hắn đến xương tủy. Không có Dân Thung Lũng nào khác ngoài ta trong số mười người còn sống, ta nghĩ hầu hết là người Honomu và Hawi. Ta cầu nguyện một trong ba người bị ném đi không phải là Kobbery em họ của ta. Tất cả chúng ta đều là thanh niên, vậy là chúng đã giết những người già ở Honokaa rồi, ta nghĩ như vậy, cả Meronym nữa, vì ta biết cô sẽ không sống sót hoặc trốn thoát khỏi một cuộc tấn công tàn bạo như vậy. Một người trong bọn Kona đổ một dòng nước ao lên mặt chúng ta, chúng ta mở miệng ra để hứng từng giọt nước nhưng chừng ấy không đủ để thấm ướt đôi môi nứt nẻ. Tên tù trưởng ra lệnh cho cậu chăn ngựa dựng lều rồi nói với những kẻ bị bắt đang run bần bật. Kể từ sáng nay, tên khốn nạn vẽ người chằng chịt nói, cuộc đời các người, phải, thân thể các ngươi là tài sản của Kona, và các ngươi càng sớm chấp nhận sự thật này thì càng có khả năng sống sót để làm nô lệ của những hậu duệ thực sự của Đảo Lớn và một ngày không xa là toàn Ha-Why. Tên tù trưởng nói cuộc đời mới của chúng ta phải học những luật lệ mới, may mắn là những luật lệ này rất dễ nhớ. Quy tắc thứ nhất, nô lệ làm theo lệnh của các ông chủ Kona, nhanh chóng và không được nhưng nhị gì cả. Nhưng quy định này và ông chủ của các ngươi sẽ răn đe các ngươi ít hay nhiều, tùy thuộc vào ý thích của ông chủ, cho đến khi các ngươi học cách phục tùng tốt hơn. Quy định thứ hai, nô lệ không nói chuyện trừ khi ông chủ hỏi. Vi phạm quy tắc này, ông chủ sẽ cắt lưỡi các ngươi và ta cũng sẽ cắt. Quy tắc thứ ba, đừng lãng phí thời giờ lập mưu bỏ trốn. Khi các ngươi bị bán vào con trăng sau các ngươi sẽ được đóng dấu tên ông chủ mình trên ngực. Các ngươi sẽ không bao giờ được trở thành người Kona thuần chủng bởi vì các ngươi không phải là người Kona, thật tình mà nói tất cả đám dân Windward các người đều là những cục cứt quái thai. Vi phạm quy tắc này, ta thề là khi các ngươi bị bắt, ông chủ của các ngươi sẽ chặt tay chặt chân, cắt con giống nhét vào miệng các ngươi, rồi ném các ngươi bên lề đường để ruồi muỗi chuột bọ đến gặm nhấm các ngươi. Nghe thì tưởng là được chết nhanh lắm, nhưng ta đã ra tay vài lần rồi và thật sự là lâu đến không ngờ đấy, tin ta đi .Tên tù trưởng nói tất cả những ông chủ tốt thỉnh thoảng lại giết một tên nô lệ hư hỏng hoặc lười biếng để nhắc những kẻ khác nhớ chuyện gì sẽ đến với những kẻ lộn xộn. Cuối cùng, hắn hỏi có ai than phiền gì không.

Không có một lời than phiền nào, không hề. Người Windward hiền hòa chúng ta đang cảm thấy thân thể rã rời vì bị thương, đói khát, tâm trí đau đớn vì cảnh giết chóc chúng ta chứng kiến và tương lai nô lệ trước mắt. Không gia đình, không tự do, chỉ có làm việc và đau đớn và làm việc và đau đớn cho đến lúc chết, và linh hồn chúng ta sẽ đầu thai ở đâu khi đó? Ta tự hỏi liệu ta có gặp được Adam hay anh đã chết rồi. Một cậu bé Hawi ốm yếu bắt đầu khóc thút thít nhưng nó chỉ mới chín hay mười tuổi nên chẳng ai suỵt nó bảo im đi, thực chất nó rơi lệ cho tất cả chúng ta, đúng thế. Jonas hẳn cũng đã bị bắt làm nô lệ, cả Sussy và Catkin nữa, nhưng thật đau lòng khi nghĩ đến, hai em đều từng là những cô bé xinh đẹp. Mẹ thì già rồi… Bọn Kona sẽ thấy ích lợi gì ở bà? Ta không muốn nghĩ đến bà già cầm cây cán bột ở Honokaa đã hất ta xuống mương nhưng không thể dừng suy nghĩ của mình. Lyons bước đến, Hù! cậu bé ốm yếu khiến nó khóc thảm thiết hơn và Lyons cười khoái trá, rồi hắn giật đôi ủng Tiên Tri của ta. Hắn đi ủng vào rồi ngắm nghía. Hết còn chuyến thám hiểm trên Mauna Kea cho Chàng mục đồng Zachry rồi, kẻ phản bội nói , vậy là đâu cần đôi ủng này nữa, nhỉ.

Ta không nói gì nhưng Lyons không thích cách ta không nói gì nên hắn đá vào đầu và háng ta bằng chính đôi ủng của ta. Ta không chắc lắm nhưng nghĩ hắn là kẻ có quyền lực thứ hai sau tên tù trưởng, vì chẳng thấy ai đòi hắn đôi ủng của ta cả.

Màn đêm dần buông, bọn Kona nướng gà trên lửa và bất kỳ ai trong bọn ta cũn sẵn sàng đánh đổi linh hồn mình để được một giọt mỡ gà đó nhỏ lên đầu lưỡi. Lúc này bọn ta rất lạnh, và dù bọn Kona không muốn chúng ta ngã ốm trước khi đến chợ nô lệ, nhưng chúng vẫn muốn để cho chúng ta yếu ớt và mất sức vì chúng ta có mười người còn chúng chỉ có năm. Chúng mở một thùng rượu rồi nốc rượu tù tì, xé thịt con gà thơm ngon đó, rồi lại nốc rượu tiếp. Chúng to nhỏ với nhau một chút rồi nhìn về phía bọn ta, sau đó một tên Kona được cử đến chỗ chúng ta với một cây đuốc. Hắn giơ nó lên trước mặt từng người chúng ta trong khi những kẻ cùng bộ lạc với hắn rú lên Được! hoặc Không! Cuối cùng hắn cởi trói chân cậu bé Hawi rồi đỡ cậu cà nhắc tiến về đống lửa. Ở đó chúng sưởi ấm, cho cậu ăn thịt gà và uống rượu. Những tên nô lệ bị bỏ quên chúng ta đã kiệt sức vì đói và đau và bầy muỗi từ cái ao nên chúng ta vô cùng ganh tị với cậu bé Hawi đó, cho đến khi với cái gật đầu từ Lyons chúng tuột quần cậu bé xuống, giữ chặt nó rồi nhét vào mông thằng bé, lấy mỡ chim bôi trơn lỗ đít nó trong khi chờ đến lượt một tên khác.

Lyons đang thịt cậu bé đáng thương thì ta nghe thấy một tiến kssssss rồi hắn khụy xuống. Bốn gã còn lại phá ra cười, rõ ràng chúng tin rằng Lyons đã uống căng một bụng rượu nhưng rồi ksss-ksss, hai chấm đỏ hiện ra giữa hai con mắt một tên Kona khác và hắn cũng ngã xuống chết tốt. Một tên Kona đội mũ giáp mặc áo choàng tiến vào bãi đất trống cầm một thứ giống như ống xương và chĩa vào ba kẻ còn lại. Một tiếng kssss nữa và tên Kona trẻ ngã xuống. Lúc này tên tù trưởng nắm lấy mũi giáo rồi phóng nó về phía sát thủ đội mũ giáp, người này hụp xuống và gần như lăn trên bãi đất trống nên cây giáo chỉ xé rách áo choàng chứ không trúng người anh ta. Một tiếng ksssSSSsss xé toạc một vết dài trên thân người tên tù trưởng khiến hắn gần như bị chẻ đôi. Hi vọng dâng trào trong lòng ta nhưng rắc! Tên Kona cuối cùng quất roi quanh khúc xương ống sát thủ đó và rắc! Đồ bắn lập tức rời khỏi tay vị cứu tinh và lọt vào tay tên Kona như phép màu. Lúc này tên Kona cuối cùng chĩa vũ khí vào vị cứu tinh của chúng ta và tiến lại gần để không bắn hụt, ta thấy bàn tay hắn bóp còi và KSSSS! Đầu tên Kona cuối cùng đã biến mất, cây sakê sau lưng hắn bốc cháy và nứt toác, bốc khói giữa trời mưa.

Thi thể hắn đứng lẻ loi một lúc như một đứa bé tập đi, rồi… ầm! Thế đấy, hắn đã nhầm phần miệng với phần đuôi của đồ bắn và làm nổ tung cái đầu của chính mình. Vị cứu tinh Kona bí ẩn của chúng ta ngồi dậy, xoa nhẹ hai cùi chỏ, tháo mũ giáp ra và nhìn năm kẻ đã chết đầy thương cảm.

Ta đã quá già để làm việc này, Meronym nói, buồn bã chau mày.

Chúng ta cởi trói cho những nô lệ còn lại và để họ ăn thức ăn của bọn Kona, Meronym có đủ thức ăn cho bọn ta trong túi treo bên yên ngựa và những kẻ được giải thoát đã có đủ những gì họ cần. Thứ duy nhất chúng ta lấy lại từ năm tên đã bỏ mạng là đôi ủng của ta từ chân Lyons. Trong chiến tranh, Meronym dặn , đầu tiên cậu phải lo cho đôi ủng của mình, kế đến mới lo đồ ăn thức uống. Một lúc lâu sau đó, vị cứu tinh kể lại cho ta toàn bộ câu chuyện khi chúng ta ở trong ngôi nhà bỏ hoang của Người Xưa nằm giữa những lùm cây um tùm không có đường mòn trên Leeward Kohala và nhóm một đống lửa nhỏ.

Chuyện cũng không dài lắm đâu. Meronym không ở trong gian hàng của Dân Thung Lũng khi bọn Kona tấn công Honakaa, lúc đó cô đang ở trên tường thành vẽ cảnh biển cho đến khi một mũi tên bốc cháy hất văng quyển sách vẽ ra khỏi tay cô. Cô quay về gian hàng của Dân Thung Lũng trước khi cổng thành bị công phá, nhưng Chú Bees hét lên với cô rằng ta mất tích rồi nên cô đi tìm ta, và đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy người dân của ta. Con ngựa và mũ giáp cô lấy được từ một tên tù trưởng Kona, hắn lao vào một con hẻm và không lao ra nữa. Mặc đồ của Kona và ngụy trang thành một chiến binh, Meronym tìm đường thoát ra khỏi thị trấn đang bốc cháy và đổ máu. Đó không phải là một trận chiến, không hề, chỉ là một cuộc bố ráp, rõ ràng, quân đội của Trưởng Tộc đã đầu hàng nhanh hơn bất kỳ ai. Đầu tiên Meronym cưỡi ngựa về phía bắc hướn Thung lũng, nhưng bọn Kona đang tụ tập dày đặc quanh Kuikuihaele để chuẩn bị tràn vào Thung Lũng, vì thế cô đã quay về hướng đất liền dọc đường Waimea, nhưng con đường đó bị canh gác rất dày đặc và nếu bị chặn lại cô lộ ngay không phải dân Kona. Meronym quay về hướng nam, định sẽ đến Hilo xem vùng ấy còn tự do hay không. Nhưng Sonmi đã giữ chân cô đủ lâu để kịp nhìn một chiếc xe thồ chạy qua, và thò ra từ chiếc xe đó là hai bàn chân, trên hai bàn chân đó là đôi ủng của Người Tiên Tri, và chỉ có một người Windward duy nhất cô biết có đi ủng Tiên Tri. Cô không dám cứu ta giữa ban ngày và có lúc đã mất dấu chiếc xe vì gặp phải một đàn ngựa, và nếu không nhờ tiếng hò reo khi chúng ngấu nghiến cậu bé Hawi thì cô hẳn đã không nhìn thấy bọn ta trong đêm tối và cưỡi ngựa đi qua mất. Hỡi ôi, cô đã trải bao mạo hiểm để cứu ta! Sao cô không trốn đi để giữ mạng cho mình? ta hỏi.

Cô làm vẻ mặt thật là một câu hỏi ngu ngốc.

Phải, nhưng chúng ta sẽ làm gì? Đầu óc của ta đang bấn loạn sợ hãi.

Thung lũng đã bị tấn công và đốt cháy, có lẽ thế… và nếu Hilo chưa thất thủ, thì nó cũng sẽ thất thủ sớm thôi…

Bạn ta băng bó vết thương cho ta bằng băng gạc và các thứ rồi đưa một tách thuốc lên môi ta. Cái này sẽ giúp cậu chữa lành cơ thể thương tích, Zachry ạ. Hãy im lặng và ngủ đi.

Tiếng đàn ông thì thầm đánh thức ta dậy trong một nơi ẩn nấp dột nát của Người Xưa với lá cây xào xạc ngoài ô cửa sổ. Người ta ê ẩm hơn một chục chỗ nhưng không đến nỗi xé thịt. Buổi sáng có mùi hanh khô và khuất gió, nhưng ta nhớ thời đại tuyệt vọng mới đang bủa vây Windward và, hỡi ôi, ta rên rỉ trong đầu khi cố ngồi thức dậy. Ở phía kia của căn phòng, Meronym đang nói chuyện qua orison với Người Tiên Tri nghiêm khắc từng bắt quả tang ta lục lọi đồ của Meronym lần đầu tiên đó. Ta nhìn chăm chú một lúc và bị mê hoặc một lần nữa, những màu sắc sinh động và tươi sáng hơn trong các cửa sổ orison. Ông ta nhanh chóng nhìn thấy ta ngồi dậy và chào ta ta bằng một cái hất đầu. Meronym cũng quay lại hỏi thăm sức khỏe của ta.

Đỡ hơn hôm qua rồi, ta bước đến để xem Trí Thông Minh đặc biệt đó. Xương cốt ta rên rỉ một chút. Meronym nói ta đã gặp Người Tiên Tri này rồi, ông ta tên là Duophysite, ta đáp ta chưa quên vì ông ấy quá đáng sợ. Người Tiên Tri trong cửa sổ đang nghe chúng ta và khuôn mặt xương xẩu của ông ta giãn ra một chút. Ôi, tôi ước gì chúng ta không gặp nhau trong những thời điểm đen tối thế này, Zachry ạ, Duophysite nói, nhưng tôi mong cậu hãy đưa Meronym đi một chuyến cuối cùng, đến Ngón tay Ikat. Cậu biết nó chứ?

Có, ta có biết nó, nằm ở phía bắc của Thung Lũng cuối cùng qua cây cầu Pololu, một dải đất dài chĩa về phía đông. Chiếc Tàu đang thả neo ở Ngón tay Ikat để đón Meronym hay sao?

Hai Người Tiên Tri trao nhau ánh nhìn và một lúc sau Duophysite lên tiếng. Chúng tôi có tin xấu từ thị trấn của chúng tôi, rất tiếc phải nóinhư thế. Các orison trên Đảo Tiên Tri và Chiếc Tàu không trả lời tín hiệu trong nhiều ngày rồi.

Tín hiệu là gì? tôi hỏi .

Một thông điệp, Meronym đáp, một cửa sổ, một cuộc họp orison như cách chúng ta đang bàn bạc với Duophysite lúc này.

Tôi hỏi, Các orison đó bị hỏng à?

Có thể còn tệ hơn thế nữa, người trong cửa sổ nói , số là trong vài con trăng gần đây, một bệnh dịch xảy ra gần Đảo Tiên Tri, ở phía tây của Ankgridge, phải, một căn bệnh khủng khiếp mà Trí Thông Minh của chúng ta không thể chữa được. Chỉ một trong số hai trăm người mắc dịch bệnh này sống sót, phải. Người Tiên Tri chúng tôi trên Ha-Why phải tự lực cánh sinh vì Chiếc Tàu có thể sẽ không đến.

Nhưng còn Anafi, con trai của Meronym thì sao? Khuôn mặt của Meronym khiến ta ước gì mình đã cắn đứt lưỡi trước khi hỏi.

Tôi phải sống mà không biết, bạn ta đáp, thật u sầu đến nỗi ta muốn khóc. Tôi không phải là người đầu tiên từng sống nên tôi cũng sẽ không phải là người cuối cùng.

Câu chuyện đó làm bùng lên niềm hi vọng mà trước đó ta chưa nhận ra. Ta hỏi Duophysite có bao nhiêu người Tiên Tri trên toàn Ha-Why.

Năm, ông ta đáp.

Năm trăm à? ta hỏi.

Duophysite nhìn thấy sự thất vọng của ta và hiểu nó ngay. Không, chỉ có năm. Mỗi người trên một đảo chính trong quần đảo. Toàn bộ sự thật của chúng tôi có thể kể một cách đơn giản và bây giờ đã đến lúc cậu biết về nó. Chúng tôi sợ dịch bệnh này sẽ đến Đảo Tiên Tri và dập tắt tia sáng cuối cùng của nền Văn minh. Chúng tôi đã tìm vùng đất tốt để gieo thêm Văn minh ở Ha-Why, và chúng tôi không muốn làm kinh động người dân đảo các cậu bằng cách ào ạt đổ bộ.

Vậy là cậu thấy rồi đó, lúc này Meronym nói , nỗi sợ của cậu về mục đích thật sự của tôi không hoàn toàn sai đâu.

Ta không còn quan tâm đến điều đó nữa. Ta nói, nếu Người Tiên Tri mà giống như Meronym thì dù năm nghìn người Thung Lũng chúng ta cũng sẵn sàng chào đón. Duophysite sa sầm nét mặt, nghĩ đến số lượng Người Tiên Tri ít ỏi có thể còn sống đến lúc này. Người chỉ huy của bộ lạc tôi ở Maui nơi tôi đang nói chuyện với cậu đây là một nhà lãnh đạo thân thiện cũng như Trưởng lão của cậu vậy. Ông ta đã ra lệnh cho hai chiếc thuyền chiến kayak vượt eo biển Maui và sẽ đến Ngón tay Ikat vào trưa ngày mốt.

Ta hứa với ông ta sẽ đưa Meronym đến nơi an toàn kịp lúc.

Vậy thì tôi có thể cám ơn cậu vì đã trực tiếp giúp đỡ cô ấy. Duophysite nói thêm rằng sẽ có chỗ trên kayak nếu ta muốn trốn khỏi Đảo Lớn với cô.

Điều đó khiến ta yên tâm. Cảm ơn, ta nói với Người Tiên Tri mắc cạn, nhưng tôi phải ở lại và tìm kiếm gia đình mình.

Chúng ta ẩn nấp trong căn nhà đổ nát đó thêm một đêm nữa để cơ bắp và các vết bầm trên người ta lành lại. Thật khó chịu khi không thể khẩn trương trở về Thung Lũng để chiến đấu hoặc nghe ngóng tình hình nhưng Meronym đã nhìn thấy ngựa và xạ thủ Kona ồ ạt tiến về Thung Lũng qua Kukuihaele, cô trấn an ta, đó không phải là trận chiến dai dẳng và nó chắc chắn đã kết thúc sau vài giờ chứ không phải vài ngày.

Ngày hôm đó thật ảm đạm và ám ảnh. Meronym dạy cho ta cách dùng đồ bắn hình xương ống đặc biệt đó. Chúng ta thực tập trên quả dứa rồi trên những viên đá mài lớn rồi trên quả đấu cho đến khi khả năng ngắm của ta thật nhạy bén. Ta canh gác trong lúc Meronym ngủ, rồi cô canh gác trong lúc ta ngủ. Đống lửa nhanh chóng làm bẩn làn sương chạng vạng, chúng ta ăn khẩu phần của bọn Kona với thịt cừu muối và rong biển cùng quả lilikoi mọc trong khu đổ nát đó. Ta đổ đầy thức ăn vào túi ăn của ngựa, vỗ về nó và đặt tên cho nó là Wolt vì trông nó xấu xí hệt như anh họ của ta vậy, rồi cảm thấy đau buồn khôn xiết, không biết giờ này còn ai trong số bà con họ hàng của mình còn sống. Thật sự thì không biết về điều tồi tệ nhất còn tệ hơn là biết về điều tồi tệ nhất.

Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, ta hỏi Meronym tại sao một Nữ Tiên Tri lại biết cưỡi ngựa giỏi như người Kona. Cô thừa nhận hầu hết Người Tiên Tri không biết cưỡi con vật nào nhưng cô từng sống với một bộ lạc tên là Swannekke ở phía bên kia dãy Ankgridge và bên kia cả Far Couver. Người Swannekke nuôi ngựa như Dân Thung Lũng nuôi dê vậy, trẻ con ở đó biết cưỡi ngựa trước cả khi biết đi, và cô đã học trong thời gian ở với họ. Meronym dạy cho ta rất nhiều về những bộ lạc mà cô từng sống cùng nhưng lúc này ta chẳng còn thời gian cho những chuyện đó, đã muộn rồi. Chúng ta nói về lộ trình ngày mai đến Ngón tay Ikat, thế này, có một cách là đi theo đường gập ghềnh của Kohala phía trên Chín Thung Lũng, nhưng có một cách khác là đi theo dòng Waipio xuống Chốt canh gác của Abel trước rồi thăm dò tình hình. Chúng ta không biết bọn Kona có chém giết và đốt sạch Thung Lũng như đã làm ở Mookini hay chúng chỉ nhắm đến chinh phục và khống chế nhà cửa của chúng ta rồi giam chúng ta trong chính nhà mình. Ta đã hứa sẽ đưa Meronym an toàn đến Ngón tay Ikat, mà thăm dò kị binh của Kona là chuyện không an toàn chút nào, nhưng Meronym nói chúng ta sẽ thăm dò Thung Lũng trước vì thế đường đi ngày mai đã được thống nhất.

Bình minh phủ một màn sương đặc quánh. Không dễ để dẫn ngựa trèo đèo vượt non trên Kohala đến suối Waipio, không biết có toán quân Kona nào đang chờ đợi ở bên kia lũy tre trúc hay không nên chúng ta cố gắng không tạo tiếng động nào. Chủ yếu chúng ta đi bộ và dắt theo con ngựa nhưng cuối cùng thì trưa hôm đó chúng ta vẫn đến được suối và buộc nó vào một khe núi rồi bò trường quãng đường còn lại đến Nhà Abel dọc theo vết vó ngựa. Sương mù biến từng lùm cây thành một tên lính canh Kona lù lù, nhưng ta vẫn cảm tạ Sonmi vì nó đã giúp ngụy trang cho chúng ta. Chúng ta ló nhìn qua miệng vực xuống gác canh. Cảnh tượng đau buồn, đúng thế. Chỉ còn cổng Nhà Abel đóng kín, các bức tường và nhà xây bên ngoài đều đã bị đốt thành than và phá nát. Một người đàn ông trần truồng bị treo trên xà cổng, cổ chân buộc ngược lên theo kiểu bọn Kona vẫn làm, có thể đó là Abel, cũng có thể không phải, lũ quạ đã moi ruột ông ta và hai con chó hoang đang nhặt nhạnh những món rơi vãi xuống đất.

Trong lúc chúng ta quan sát, một nhóm ba mươi-bốn mươi người Dân Thung Lũng bị bắt làm nô lệ đang bị lùa ra về hướng Kuikuihaele. Ta sẽ nhớ cảnh tượng đó đến ngày nhắm mắt và cả sau đó. Vài người đang kéo những chiếc xe thồ chở đồ đạc dụng cụ cướp được. Bọn Kona quát mắng, ra lệnh om sòm và quất roi vun vút. Sương mù quá dày nên ta không thể nhìn rõ những khuôn mặt người dân của bộ lạc mình nhưng, hỡi ôi, dáng hình họ thật thảm thương, lê lết ra phía Sloosha’s Crossin’. Những hồn ma. Những hồn ma sống. Hãy chứng kiến vận mệnh của bộ lạc văn minh cuối cùng trên Đảo Lớn, ta nghĩ , phải, kết quả của trường học và Biểu Tượng Tháp của chúng ta, chỉ để làm nô lệ cho các cánh đồng, nhà ở, chuồng trại, giường ngủ của bọn Kona và những cái lỗ trên đất Leeward.

Ta làm được gì? Đuổi theo bọn chúng? Khoảng hai mươi kị sĩ Kona đang áp tải họ ra khỏi Leeward. Ngay cả với đồ bắn của Meronym ta cũng chỉ có thể hạ gục năm trong số hai mươi tên lính gác, có thể nhiều hơn nếu ta may mắn, nhưng rồi sau đó thì sao? Người Kona sẽ đâm chết từng Dân Thung Lũng từ khoảnh khắc giao tranh đầu tiên. Đây không phải là Zachry Hèn Nhát đang đấu tranh với Zachry Dũng Cảm, không phải, mà là Zachry Liều Chết đang đấu tranh với Zachry Sống Sót và ta không xấu hổ khi nói Zachry nào thắng. Ta ra dấu cho Meronym quay trở về nơi buộc con ngựa dù nước mắt tuôn rơi.

Mông ngắn, lấy một củ khoai nướng cho ta nào. Nhớ lại chuyện đó khiến ta đói cồn cào.

Bây giờ trở về bãi cỏ Kohala, sương mù trôi xuống phía dưới và Mauna Kea hiện lên từ biển mây phía nam, rõ và gần đến nỗi có thể nhổ nước bọt vào và ta đã làm thế, phải, ta nhổ nước bọt thật mạnh. Linh hồn ta có thể bị hóa đá, vận may của ta có thể bị mục rữa nhưng chí ít ta vẫn có thể buông ra một câu nguyền rủa. Từ Chín Dải Thung Lũng những con rắn khói đen ngòm bay lên, ta nghĩ mọi loài động vật có cánh có chân trên Đảo Lớn đang ăn uống moi móc trong Thung Lũng của chúng ta vào sáng hôm đó. Trở về bãi cỏ, chúng ta thấy những con dê lạc đàn, một số con của ta, một số con của Kaima, nhưng chúng ta chẳng gặp một mục đồng nào. Ta vắt sữa mấy con và chúng ta uống phần sữa dê tự do cuối cùng của Dân Thung Lũng. Qua Đèo Vertgbry chúng ta đi xuống về phía Đá Ngón Cái nơi Meronym vẽ bản đồ năm con trăng trước, phải, qua chỗ đất phủ cây thạch nam từng ôm trọn Roses nằm bên dưới ta sáu con trăng trước. Mặt trời làm bốc hơi sương khói và đằng sau dải cầu vồng năm lớp ta nhìn thấy trường học đã bị đốt phá, bấy giờ chỉ còn là một cái vỏ đen ngòm, những quyển sách cuối cùng và chiếc đồng hồ cuối cùng. Chúng ta cưỡi ngựa xuống dòng Elapaio và xuống ngựa ở đó, Meronym đeo mũ giáp lên, trói hờ tay ta lại để nếu chúng ta bị phát hiện thì trông như cô đã vừa được một tên nô lệ tìm cách trốn thoát và nhờ đó chúng ta thoát phút hiểm nghèo. Chúng ta đi như thế đến nhà Cluny, là nhà ở cao nhất trên núi. Meronym xuống ngựa rồi nắm chặt đồ bắn trong lúc chúng ta nín thở bò trườn như hai con chuột qua những căn nhà, nhưng tim ta thì không yên một chút nào. Một trận đánh lớn đã quét qua đó, đồ đạc bị nghiền nát và phá vỡ, nhưng không có thi thể nào nằm đó cả. Chúng ta lấy một ít thức ăn tươi cho hành trình sắp tới, ta biết Cluny sẽ không trách đâu. Rời khỏi cổng nhà Cluny, ta thấy một quả dừa bị cắm trên một cái cột dính máu, ruồi bay vo ve xung quanh, lấy làm lạ chúng ta nhìn gần hơn và phát hiện ra đó không phải là một quả dừa, mà là đầu của Macca Cluny, miệng vẫn còn ngậm ống tẩu.

Bọn Kona sơn vẽ đầy mình thực sự là những kẻ ác ôn mọi rợ. Có kẻ chết rồi mới tin được chúng. Đầu của Macca khiến ta sôi sục lòng căm hận khi chúng ta đi xa hơn xuống Nhà Bailey.

Một thùng sữa dê đã vón cục nằm ở chỗ vắt sữa và ta không thể không hình dung đến cảnh Sussy bị lôi đi khỏi chiếc ghế ngồi vắt sữa đã vỡ nát đó và những gì chúng đã làm với con bé, hỡi ôi, đứa em gái thân yêu đáng thương của ta. Một vòng dấu chân ngựa giẫm đạp lên sân bùn. Đàn dê đã bị lùa đi hết, đàn gà bị bắt. Thật tĩnh mịch. Không tiếng khung dệt lách cách, không tiến Catkin hát, không còn Jonas. Dòng suối và con chim hét ở mái hiên và chẳng còn gì hết. Không có cảnh tượng rùng rợn trên cột cổng, ta cảm tạ Sonmi vì điều đó rất nhiều. Bên trong, trứng và quả mơ rơi vãi từ chiếc bàn bị lật úp. Ở từng phòng ta lo sợ trước điều sẽ tìm thấy nhưng không, nhờ ơn Sonmi phù hộ dường như gia đình ta chưa bị giết…

Cảm giác tội lỗi và buồn đau nhấn chìm ta.

Tội lỗi vì ta đã luôn sống sót và trốn thoát dù cho linh hồn ta đã vấy bẩn và hóa đá. Buồn vì tàn tích cuộc đời cũ bị phá nát của ta nằm la liệt khắp nơi. Đồ chơi của Jonas do Bố làm nhiều năm trước. Khung dệt của mẹ nằm ở cửa, lắc lư trong hơi gió nhẹ cuối cùng của mùa hè. Cá khô và cỏ sung sướng treo trên trần. Vở viết bài của Catkin ở trường vẫn nằm trên bàn nơi con bé hay ngồi học. Không biết phải nghĩ hay nói gì. Tôi phải làm gì? Ta hỏi bạn ta như tự hỏi mình. Tôi phải làm gì?

Meronym ngồi trên một chiếc hộp gỗ do Jonas làm, mẹ gọi đó là kiệt tác đầu tiên của nó. Một lựa chọn khó khăn và tăm tối, Zachry ạ, cô đáp . Ở lại trong Thung Lũng đến khi cậu bị bắt làm nô lệ. Trốn đi và nán lại cho đến khi bọn Kona tấn công rồi bị giết hoặc bị bắt làm nô lệ. Sống chui nhủi trong rừng như một tên cướp cho đến khi bị bắt. Vượt eo biển đến Maui với tôi và có thể không bao giờ quay lại Đảo Lớn nữa. Phải, đó là tất cả những lựa chọn ta có, không bàn cãi, nhưng ta không thể chọn cái nào, tất cả những gì ta biết là ta không muốn bỏ chạy khỏi Đảo Lớn mà chưa báo thù cho những gì đã xảy ra nơi đây.

Đây khôn phải là nơi an toàn nhất để ngồi nghĩ ngợi, Zachry ạ, Meronym nói, thật dịu dàn; đến nỗi cuối cùng nước mắt ta cũng trào ra.

Leo lên lưng ngựa để rời khỏi nơi này, ta nhớ những biểu tượng của gia đình mình trong am thờ. Lúc này, nếu ta để họ ở trong đó để bị lấy ra làm củi đốt dần thì sẽ chẳng còn gì để chứng minh dòng họ Nhà Bailey từng tồn tại. Thế là ta một mình chạy về để lấy lại. Trong lúc chạy trở vào nhà ta nghe tiếng chén bát rơi xuống từ kệ nhà bếp. Ta đứng im.

Từ từ ta quay lại nhìn.

Một con chuột béo đang khệnh khạng đứng đó, nheo mắt nhìn ta và nhúc nhích những sợi râu mũi. Ta cá là cậu đang hối tiếc vì đã không cắt sợi dây thừng đó trên bức tường ngày đó, phải không Zachry? Cậu đã có thể tránh được hết những tổn thất đau khổ này rồi.

Ta không thèm nghe những lời nói dối của lão. Đằng nào bọn Kona cũng sẽ tấn công, ta chẳng việc gì phải tranh cãi với Kẻ Ác Ôn đó. Ta nhặt lên một chiếc nồi để ném Già Georgie nhưng khi ta đang nhắm vào nó thì con chuột béo biến mất, và từ căn phòng trống ở bên trái ta phát ra một tiếng thở nhẹ từ chiếc giường mà ta chưa kiểm tra lúc nãy. Lẽ ra ta nên bỏ chạy, phải, ta biết như thế nhưng ta đã không làm, mà rón rén đi vào và thấy một lính gác Kona nằm đó trên đống chăn mềm mại, chìm đắm trong mớ cỏ sung sướng của Thung Lũng Mormon. Rõ ràng hắn chủ quan cho rằng tất cả Dân Thung Lũng đều đã bị lùa nhốt và biến thành nô lệ nên đã nằm vật ra ngủ trong lúc làm nhiệm vụ.

Vậy kẻ thù đáng sợ là đây. Khoảng chừng mười chín-hai mươi tuổi. Một mạch máu đập trong trái khế của hắn, chỗ còn để trắng giữa hai hình xăm con thằn lằn. Mi đã tìm thấy ta, phải, vậy thì hãy cắt ta đi, chiếc cổ ấy thì thầm. Cắt đi.

Lời tiên báo thứ hai của ta, hẳn các con còn nhớ, và ta cũng thế. Kẻ thù đang ngủ, chớ rạch họng hắn. Đây là khoảnh khắc ứng nghiệm, không cần bàn cãi. Ta ra lệnh cho tay ta làm điều đó nhưng chẳng hiểu sao chúng đã bị khóa chặt. Ta đã đánh đấm đủ nhiều rồi, ai mà chẳng thế?, nhưng ta chưa từng giết ai cả. Đấy, luật Thung Lũng cấm giết người, nếu các con cướp sinh mạng của một người thì chẳng còn ai trao đổi gì với con hoặc gặp con hoặc làm bất cứ gì với con vì linh hồn con đã quá độc hại rồi, con có thể khiến họ bị ốm. Dù sao thì ta đứng đó, bên chiếc giường của mình, lưỡi dao cách cổ họng trắng nhởn ấy chỉ vài centimet.

Tiếng con chim hét đang vang lên nhanh và to hơn. Tiếng chim nghe như những lưỡi dao đang mài, ta nhận ra lần đầu tiên tại nơi đó vào lúc đó. Ta biết tại sao ta không nên giết tên Kona này. Làm thế sẽ không lấy lại được Thung Lũng cho người dân. Nó sẽ hóa đá linh hồn bị nguyền rủa của ta. Nếu ta đầu thai làm một tên Kona trong kiếp này thì hắn có thể là ta và ta có thể sẽ giết chính mình. Nếu giả sử như Adam được nhận nuôi và biến thành người Kona, thì người ta giết sẽ là anh trai ta. Già Georgie muốn ta giết hắn. Những lý do này đã đủ để ta bỏ mặc hắn nằm đó và lặng lẽ trốn đi chưa?

Không đủ, ta trả lời kẻ thù của mình, và ta cắm lưỡi dao qua cổ họng hắn. Màu đỏ dị kỳ phồng lên và xịt ra thấm ướt hết chăn lông cừu, đọng thành vũng trên sàn đá. Ta lau sạch lưỡi dao trên áo của người chết. Ta biết từ từ ta sẽ trả giá cho điều này nhưng, như ta nói khi nãy, trong thế giới đổ nát của chúng ta, điều đúng đắn không phải lúc nào cũng khả dĩ.

Khi bước ra ngoài, ta đâm sầm vào Meronym đang chạy đến, Kona! cô rít lên. Không còn thời gian để giải thích ta đã làm gì trong đó và tại sao. Ta vội vã nhét các biểu tượng gia đình vào túi đeo yên ngựa và cô kéo ta lên lưng ngựa. Ba- bốn con ngựa đang phi tới từ hướng nhà Thím Bees. Chúng ta lao ra khỏi Nhà Bailey lần cuối như bị Già Georgie đớp phải mông. Ta nghe tiếng người phía sau và quay lại nhìn, thậm chí còn thấy áo giáp của chúng lóe lên qua vườn cây sung nhưng lạy Sonmi Lòng Lành, chúng không nhìn thấy chúng ta đang biến mất. Một lúc sau chúng ta nghe thấy tiếng còi đinh tai nhức ócvang vọng Thung Lũng, ba tiếng tất cả, và ta biết bọn Kona hẳn đã tìm thấy tên lính canh mà ta cắt cổ và đang gửi cảnh báo đi, Dân Thung Lũng chưa bị bắt làm nô lệ hoặc bị giết chết hết. Ta biết mình sẽ phải trả giá sớm hơn mình đặt cược vì đã phớt lờ lời tiên báo thứ hai, và Meronym cũng thế.

Nhưng vận may của chúng ta vẫn chưa lụi tàn. Một tiếng tù và đáp lại tiếng còi đầu tiên, phải, chúng đang ở sâu phía dưới, chúng ta cưỡi ngựa trở lại qua Đèo Vertgbry trong tâm trạng lo lắn, nhưng không bị tấn công. Đó là một cuộc trốn thoát suýt soát, đúng vậy, nấn ná một giây nữa thôi ở nhà ta là bọn kị sĩ Kona đã có thể thấy và đuổi theo chúng ta. Tránh rặng núi và bãi cỏ Kohala, chúng ta băng qua khu rừng để nấp và đến lúc đó ta mới thú nhận với Meronym về điều mình đã làm đối với tên lính gác ngủ quên đó. Ta không biết tại sao nhưng những bí mật khiến các con cảm thấy mục nát như răng bị sâu nếu không được chải sạch. Cô ta chỉ lắng nghe, và không phán xét gì ta cả.

Ta biết một cái hang kín cạnh thác Mauka và ta đưa cả hai đến đó để Meronym nghỉ lại đêm cuối cùng trên Đảo Lớn nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch. Ta đã hi vọng Wolt hoặc Kobbery hoặc một mục đồng khác có thể đã trốn thoát và đang ẩn náu ở đó, nhưng không, chẳng có ai, chỉ có vài chiếc chăn mà mục đồng chúng ta cất ở đó để ngủ. Cơn gió mậu dịch đang mạnh lên choáng váng, ta lo ngại cho những người chèo thuyền kayak sẽ rời Maui vào bình minh, nhưng trời cũng không lạnh lắm nên ta không dám đánh liều nhóm lửa, không nên làm thế khi đang ở quá gần kẻ thù. Ta rửa vết thương trong ao và Meronym tắm rửa rồi chúng ta ăn thức ăn lấy được từ nhà Cluny với lá cây sung mà ta hái từ nhà mình khi trở về để lấy các biểu tượng.

Ta không thể ngừng nhớ lại mọi chuyện và nhắc đến trong lúc ăn, về gia đình ta, cả Bố và Adam nữa, cứ như nếu họ sống trong từ ngữ thì họ sẽ không chết trong hình hài. Ta biết mình sẽ nhớ Meronym da diết khi cô đi, rõ ràng ta chẳng còn anh em nào khác chưa bị bắt làm nô lệ trên Đảo Lớn. Bà Trăng lên cao và ngắm nhìn Thung Lũng xinh đẹp bị tàn phá của ta với đôi mắt bạc thương cảm, còn đàn chó hoang hú rên ai oán cho những người xấu số. Ta tự hỏi linh hồn những người dân của bộ lạc ta sẽ đầu thai ở đâu khi mà giờ đây phụ nữ ở Thung lũng không còn sinh con đẻ cái ở đây nữa. Ta ước gì Trưởng lão có ở đó để cho ta biết vì ta không thể trả lời mà Meronym cũng không. Người Tiên Tri chúng tôi, cô đáp, sau một lúc, tin rằng chết là hết, chẳng có quay lại gì cả.

Nhưng còn Linh hồn cô thì sao? ta hỏi.

Người Tiên Tri không tin Linh hồn có tồn tại.

Nhưng cái chết không phải là lạnh lẽo đến rợn người hay sao nếu chẳng còn gì sau đó?

Phải, cô gần như cười nhưng miệng không nở nụ cười, sự thật của chúng tôi đúng là lạnh lẽo đến rợn người.

Đó là lần duy nhất ta cảm thấy tội nghiệp cho cô ta. Đôi khi các linh hồn băng qua bầu trời thời gian như mây băng qua bầu trời của thế giới, Trưởng lão từng nói thế. Sonmi là phía đông và phía tây, Sonmi là bản đồ và là cạnh của bản đồ và là phía bên ngoài của cạnh. Những vì sao lấp lánh chiếu sáng, ta gác phiên đầu tiên nhưng ta biết Meronym không ngủ, không hề, cô đang thao thức trằn trọc dưới lớp chăn cho đến khi cô chịu không nổi nữa và ngồi dậy cạnh ta để ngắm thác nước dát ánh trăng. Những câu hỏi đang bủa vây lấy ta. Lửa của Dân Thung Lũng và Người Tiên Tri đã tắt đêm nay, ta nói, vậy điều đó có phải là bằng chứng cho thấy người hoang dã mạnh hơn người văn minh hay không?

Không phải là người hoang dã mạnh hơn người văn minh, Meronym nhận định, mà là số đông mạnhg hơn thiểu số. Trí Thông Minh đem lại lợi thế cho chúng ta trong nhiều năm, như đồ bắn đã đem lại lợi thế cho tôi ở Ao Dốc, nhưng nếu bên kia có đủ trí và lực thì lợi thế này sẽ biến thành số không một ngày nào đó.

Vậy có phải làm người hoang dã thì tốt hơn làm người văn minh?

Ý nghĩa trần trụi sau hai từ ấy là gì?

Người hoang dã không có luật lệ, ta đáp, nhưng người văn minh thì có luật lệ.

Còn sâu sắc hơn cả thế. Người hoang dã đã thỏa mãn nhu cầu đương có của mình. Đói thì ăn. Giận thì đánh. Hứng thì làm tình. Ông chủ của hắn là ý chí và nếu ý chí lệnh cho hắn “Giết” thì hắn giết. Như động vật có nanh.

Phải, đó là bọn Kona.

Người văn minh cũng có những nhu cầu tương tự, nhưng anh ta nhìn thấy xa hơn. Anh ta sẽ ăn một nửa thực phẩm lúc này, rồi gieo trồng một nửa để ngày mai không bị đói. Khi nóng giận, anh ta sẽ dừng lại và suy nghĩ tại sao để lần sau không nóng giận nữa. Anh ta nổi hứng, nhưng anh ta có chị em và con gái là những người cần được tôn trọng vì thế anh ta sẽ tôn trọng chị em và con gái của những người anh em. Ý chí của anh ta là nô lệ và nếu ý chí ra lệnh “Đừng” thì anh ta sẽ không làm.

Vậy, ta hỏi lại lần nữa, làm người hoang dã thì có tốt hơn làm người văn minh?

Nghe này, người hoang dã và người văn minh không bị phân chia bởi bộ lạc hoặc đức tin hoặc các rặng núi, không phải thế, mỗi con người đều mang trong mình cả hai. Người Xưa có Trí Thông Minh của thánh thần nhưng cũng có sự hoang dã của bọn lừa và đó là điều dẫn đến Sụp Đổ. Một vài người hoang dã mà tôi biết có một trái tim văn minh tuyệt đẹp đập trong ngực. Có thể một vài người Kona cũng thế. Không đủ để nói như thế về toàn thể bộ lạc, nhưng ai mà biết được một ngày nào đó? Một ngày nào đó.

“Một ngày nào đó” chỉ là một con bọ hi vọng cho chúng ta. Ta nhớ Meronym đáp, nhưng con bọ không dễ đuổi đi. Bà Trăng soi sáng một vết chàm vô cùng kỳ lạ ngay dưới xương vai của bạn ta khi cô đã ngủ. Nó giống như một vết nhỏ tự vẽ lên, một cái đầu với sáu cái đuôi xòe ra, có màu nhạt trên nền da sẫm của cô, và ta tò mò tại sao mình chưa hề thấy nó trước đây. Ta lấy chăn che nó lại để cô không bị nhiễm lạnh.

Lúc này dòng sông Mauka đổ ngoằn ngoèo xuống Thung Lũng Mauka tối tăm, nó chỉ cấp nước cho chừng năm – sáu hộ dân trong cả thung lũng vì nơi này không có mùa hè lý tưởng. Không có hộ dân Mauka nào chăn dê nên đường mòn bị siết chặt bởi dây leo và bụi gai, có thể chọc thủng mắt người nếu không nhìn kỹ, rất khó khăn để ngựa đi qua. Ta bị cào xước dữ dội sau một phần tư dặm dù đã nấp sau lưng Meronym. Hộ dân cuối cùng ở thượng nguồn thung lũng và nơi đầu tiên mà chúng ta đến là Nhà Thánh Sonmi, có trưởng tộc là một người độc nhãn tên là Silvestri làm nghề trồng khoai môn và yến mạch. Thiên hạ đồn rằng Silvestri quá hãnh diện về các cô con gái của mình và nói xấu rằng ông ta đã không đóng góp đủ phí họp chợ làng. Quần áo nằm rải rác quanh sân, các cô con gái đã bị bắt đi, nhưng Silvestri thì không đi đâu cả, cái đầu hói của lão đang nằm trên cọc dõi theo chúng ta khi chúng ta cưỡi ngựa đến. Lão ở đó đã được một thời gian rồi, vì có giòi bọ và một con chuột béo đã bò lên cột và ăn xuyên qua con mắt lão khi chúng ta cưỡi ngựa đến. Phải, con quỷ có râu khịt khịt cái mũi sắc lẹm với ta, Khỏe không, Zachry, cậu thấy Silvestri bây giờ trông có đẹp trai hơn trước không nào? nhưng ta không thèm đếm xỉa đến lão. Một con gà nhảy ra từ ống khói suýt nữa khiến ta hoảng hốt rơi khỏi ngựa, ta tưởng là tiếng phát hiệu tập kích.

Giờ đây chúng ta có lựa chọn, tạm biệt con ngựa rồi thận trọng tiến lên rặng núi gồ ghề phía trên Thung lũng Pololu, hoặc đi theo con đường mòn Mauka xuống bãi biển và có nguy cơ chạm trán tên Kona lạc đàn nào đó đang kết thúc đợt tấn công. Thời gian ngắn ngủi còn lại chọn cho chúng ta cách duy nhất là ở nguyên trên yên ngựa, vì chúng ta phải đến Ngón tay Ikat trước buổi trưa, mà nơi đó còn cách nhà Silvestri những mười dặm. Chúng ta bỏ qua Nhà của Blue Cole và Last Trout, không còn thời gian ngó nghiêng nữa. Một trận mưa ập xuống từ Kohala nhưng chúng ta đến được bãi biển mà không bị tập kích dù bắt gặp những dấu vết mới của bọn Kona dưới những cây cọ lá hình ngón tay xòe. Hôm đó biển không phẳng lặng, nhưng cũng không động mạnh đến nỗi có thể đánh úp thuyền kayak chèo tay. Tiếng tù và của bọn Kona vang lên gần xa khiến ta cảm thấy bất an. Ta nghe tên mình trong tiếng rền vang đó. Không khí căng ngạt và ta đã phớt lờ lời tiên báo thứ hai của mình, ta biết ta sẽ trả giá cho sinh mạng mình đã cướp đi không cần thiết.

Ở nơi bãi biển lởm chởm đá chạy dài lên thành Vách đá Medusa, chúng ta phải chuyển hướng đi sâu vào đất liền qua những đồn điền chuối đến Đường mòn Pololu dẫn ra thung lũng phía bắc vào Vùng Đất Chết và cuối cùng là Ngón tay Ikat. Con đường mòn thu hẹp lại luồn qua hai tảng đá to màu đen, chúng ta chợt nghe một tiếng huýt giả tiếng chim. Meronym đưa tay vào trong áo choàng nhưng trước khi cô rút ra đồ bắn hình ống xương thì hai lính gác Kona đã nhảy xuống đỉnh hai tảng đá. Bốn mũi tên chết người và chuẩn xác ngắm thẳng vào đầu chúng ta, cách chỉ vài tấc. Qua những cây cao su ta thấy cả một toán quân Kona quỷ tha ma bắt! Khoảng một chục tên kị sĩ hoặc hơn đang ngồi quanh một cái lều và ta biết chúng ta thế là toi đời trong khi quá gần đích đến.

Mật mã là gì, kị sĩ? một tên lính canh oang oang hỏi.

Thế này là sao, tên lính kia, và tại sao? một tên khác chĩa cung tên vào ngực ta. Một tên Dâng Thung Lũng mà dám đặt mông lên ngựa chiến Kona hay sao? Chỉ huy của mi là ai, kị sĩ?

Ta sợ chết khiếp và biết nét mặt ta nói lên tất cả. Meronym phát ra một tiếng gầm gừ kỳ lạ đầy tức giận và nhìn bốn tên qua chiếc mũ giáp, sau đó hét lên một tiếng vang dội, khiến chim chóc bay vọt lên kêu hét tán loạn át cả tiếng cô. TẠI SAO LŨ CỨT CHUỘT QUỶ THA MA BẮT CÁC NGƯƠI DÁM VÔ LỄ NHƯ THẾ VỚI CHỈ HUY! CÁI MÔNg CỦA NÔ LỆ TA MUỐN NGỒI LÊN ĐÂU VÀ NHƯ THẾ NÀO THÌ NGỒI THEO LỆNH CỦA TA! CHỈ HUY CỦA TA LÀ AI Ư? CHỈ HUY CỦA TA LÀ CHÍNH TA ĐÂY ĐỒ SÂU BỌ NGU XUẨN! RỜI KHỎI TẢNg ĐÁ NGAY TỨC KHẮC RỒI ĐƯA ĐỘI TRƯỞNg CỦA CÁC NGƯƠI LẠI ĐÂY NGAY, BẰNg KHÔNg TA THỀ NHÂN DANH TẤT CẢ CÁC THẦN CHIẾN TRANH TA SẼ LỘT DA ĐÓNg CỌC CÁC NGƯƠI VÀO CÂY TỔ ONg GẦN NHẤT!

Một kế hoạch tuyệt vọng và bất thường. Màn kịch của Meronym giành thắng lợi trong khoảnh khắc và chỉ một khoảnh khắc là đủ. Hai tên lính canh mặt xanh như tàu lá hạ cung tên xuống và nhảy xuống lối đi. Hai tên còn lại biến mất về phía sau.Ksss! Ksss! Hai tên Kona trước mặt chúng ta không còn đứng dậy được nữa, Meronym đột nhiên thúc giày và con ngựa rống lên, đá hậu rồi lao vụt về trước khiến ta bị mất thăng bằng. Tay Sonmi giữ ta còn ngồi trên yên, vì nếu không phải là bà thì là ai? Tiếng la hét Dừng lại! và tiếng tù và dồn dập sau lưng chúng ta, con ngựa phi nước đại và một tiếng fisssssssss-kwanggggg vang lên khi mũi tên đầu tiên xuyên qua cành cây mà ta chạy phía dưới, rồi sau đó một cơn đau điếng xâm nhập bắp chân trái của ta ngay chỗ này này, ta cảm thấy choáng váng, như cơ thể nhận biết có gì đó bị tổn thương rất nặng không thể chữa trị. Nhìn đây, ta sẽ kéo ống quần lên và các con có thể thấy vết sẹo nơi mũi tên cắm vào… phải rồi, nó đau đớn không thể tả.

Chúng ta phi nước đại xuốn đường Pololu qua nền đất gồ ghề rễ cây, nhanh hơn cả trượt bên trong một đường ống, rất khó giữ thăng bằng, ta không thể làm gì trước cuộc truy đuổi thịnh nộ đó ngoài việc ôm chặt eo Meronym và cố gắng nhấp mình theo nhịp ngựa phi bằng chân phải nếu không sẽ bị rơi xuống, và chẳng còn thời gian để mà leo lên lưng ngựa lần nữa trước khi bọn Kona và những chiếc cung tên thấu xương của chúng đuổi kịp chúng ta.

Con đườn mòn chạy xuyên qua đường hầm tạo thành từ những hàng cây đến cây cầu của Người Xưa bắc qua sông Pololu đổ ra biển, nơi đánh dấu cực bắc của Thung lũng. Lúc này ta chỉ còn vài trăm bước là đến cây cầu thì mặt trời lộ ra khỏi đám mây, ta nhìn về trước và tấm ván cầu đã sờn bừng sáng vàng rực, còn những trụ chống gỉ sét ngả màu đồng tối. Cơn đau của ta làm long ra một ký ức, đúng vậy, lời tiên báo thứ ba của ta. Đồng đang bốc cháy, chớ băng qua cầu. Ta không thể giải cho thích cho Meronym trên con ngựa đang phi nước đại vì thế ta chỉ hét lên vào tai cô, Tôi bị bắn!

Cô dừng ngựa lại cách cây cầu chỉ một quãng ngắn.

Ở đâu?

Bắp chân trái, ta đáp. Meronym quay lại nhìn đầy lo lắng. Chưa có dấu hiệu của những kẻ đuổi theo, vì vậy cô nhảy xuống ngựa để nhìn kỹ vết thương. Cô chạm vào nó khiến ta rên lên. Lúc này mũi tên đang cắm vào vết thương, ta phải đến được nơi an toàn đã rồi tôi sẽ…

Tiếng vó ngựa dồn dập đổ đến gần đường Pololu.

Lúc đó ta nói với cô, chúng ta không thể vượt qua cây cầu đó. Cái gì? Cô quay phắt lại để nhìn vào mắt ta. Zachry, ý cậu nói là cây cầu đó không an toàn?

Đến lúc đó ta biết rằng cây cầu đủ chắc, ta thường đưa Jonas đi nhặt trứng chim ở phía bắc khi nó còn bé và McAulyff của Nhà Last Trout thường đi săn hải cẩu qua cây cầu đó với chiếc xe thồ trong nhiều con trăng, nhưng một giấc mơ ở Biểu Tượng Tháp không nói dối, chưa bao giờ, và Trưởng lão đã dặn ta ghi nhớ những lời tiên báo của ta để đến một ngày đặc biệt và ngày đó là hôm nay. Ý tôi là, ta đáp, Sonmi đã nói với tôi đừng đi qua cây cầu này.

Sợ hãi khiến Meronym phát cáu, cô ta cũng là con người như các con và ta thôi. Vậy Sonmi có biết là chúng ta bị một đạo quân Kona hung hãn truy đuổi bén gót không?

Sông Pololu mở rộng ra ở vùng giáp biển, ta chỉ cho cô thấy, vì thế nó không quá sâu và dòng chảy cũng không quá xiết. Con đường mòn chia làm hai ngay trước cây cầu ở ngay nơi chúng ta đang đứng, nó dẫn xuống một đường nối dài có thể đến được con sông. Tiếng vó ngựa vang lên mỗi lúc một gần và bọn Kona sẽ sớm phát hiện ra chúng ta.

Ái chà, Meronym tin vào lời nói ngớ ngẩn của ta, ta không biết tại sao nhưng cô đã nghe theo, ngay sau đó dòng Pololu chói chang lạnh buốt đã làm tê dại vết thương của ta nhưng con ngựa trượt xuống đầy khó nhọc trên bờ sông đầy đá cuội. Padddooom padddooom, ba tên Kona cưỡi ngựa lên cầu và nhìn thấy chúng ta, không khí xung quanh chúng ta rung lên và bị xé toạc với một mũi tên, hai mũi tên, mũi thứ ba trúng nước làm văng nước lên chúng ta. Ba tên Kona mới đến bắt kịp ba tên trước và không ngừng bắn, chúng đang rầm rập chạy qua cây cầu Pololu để cắt đường chúng ta ở bờ bên kia. Tuyệt vọng, ta nguyền rủa bản thân, Đúng vậy, chúng ta sẽ chết tốt như lũ vịt hoang, ta thầm nghĩ.

Bây giờ các con biết khi mình chặt một cái cây để xẻ gỗ chứ gì? Tiếng động sau nhát rựa cuối cùng, tiếng gỗ răng rắc và toàng thân cây rên lên thê thảm khi nó ngã xuống? Đó là những gì ta nghe thấy. Rõ ràng một hoặc hai Dân Thung Lũng nhẹ nhàng băng qua cầu cùng với chiếc xe đẩy là một chuyện, nhưng một con ngựa phi nước đại lại là chuyện khác, và sáu-bảy-tám con ngựa chiến Kona mặc giáp phi nước đại là quá nhiều. Cây cầu đó vỡ nát như được làm bằng rơm rạ, trụ cầu gãy răng rắc, ván cầu chẻ đôi còn dây treo thì đứt phựt.

Đó không phải là cú rơi nhẹ nhàng. Có mười lăm người hoặc hơn trên cầu Pololu. Những con ngựa rơi xuống, ngửa bụng xoay vòng vòn, những kẻ cưỡi ngựa thì chới với, và như ta đã nói sông Pololu không phải là một cái ao an toàn ngã xuống là nổi lên được, không hề, nó là một dòng nước lổn nhổn những tảng đá bằng phẳng lẫn nhọn hoắt khiến những cú rơi của chúng thật thảm hại, thật sự thảm hại. Không tên Kona nào trồi lên, chỉ có hai-ba con ngựa đáng thương nằm giãy dụa nhưng chẳng còn thời gian để lo lắng cho sinh mạng loài vật nữa.

Thế đấy, chuyện kể của ta đã gần hết rồi. Meronym và ta đến được bờ bên kia và ta thầm cảm tạ Sonmi dù không còn Văn minh Thung Lũng để cứu vớt nữa, bà đã cứu mạng ta lần cuối cùng. Ta nghĩ những kẻ còn lại trong toán quân Kona quá bận rộn với những binh sĩ bị ngã và chìm nên chúng không đuổi theo chúng ta. Chúng ta băng qua Cồn cát Lornsome và cuối cùng đến được Ngón Tay Ikat mà không gặp trở ngại gì. Không có chiếc kayak nào đợi ở đó nhưng chúng ta vẫn xuống ngựa và Meronym dùng Trí Thông Minh của cô trên bắp chân bị trúng tên của ta. Khi cô rút mũi tên ra, cơn đau chạy lên người ta và phủ lên hết mọi giác quan nên thật tình mà nói ta không nhìn thấy những chiếc kayak của Maui đến cùng với Duophysite. Lúc này bạn ta cần phải lựa chọn, đó là đưa ta lên chiếc kayak đó hoặc để ta ở lại Đảo Lớn, không thể đi lại hoặc làm bất kỳ chuyện gì, ở cách chỗ bọn Kona không xa. Và rồi, ta đang ngồi đây kể chuyện cho các con nghe, vì vậy các con biết Meronym đã chọn gì rồi đấy, có lúc ta cũng hối hận về quyết định của cô, có lúc thì không. Tiếng hát của những người chèo thuyền trong bộ lạc mới của ta đánh thức ta dậy khi đã ở nửa đường băng qua eo biển. Meronym đang thay miếng băng đắp lên vết thương của ta, cô đã dùng một ít thuốc Thông Minh để làm tê vết thương đi rất nhiều.

Ta nhìn những đám mây trôi bồng bềnh từ sàn chiếc kayak đó. Linh hồn bay ngang đời như mây băng qua trời, và dù hình thù hoặc màu sắc hoặc kích cỡ một đám mây luôn thay đổi nhưng nó vẫn là một đám mây và linh hồn cũng thế. Ai có thể nói mây được thổi đến từ đâu hay linh hồn sẽ thành ai vào ngày mai? Chỉ có Sonmi là phương đông và phương tây và la bàn và bản đồ, phải, chỉ có bản đồ mây.

Duophysite thấy ta đã mở mắt nên chỉ Đảo Lớn cho ta, màu tím trên nền xanh ở phía đông nam và Mauna Kea che đầu như một cô dâu e thẹn. Phải, toàn thể Thế giới của ta và toàn bộ cuộc đời ta thu nhỏ lại vừa đủ để chui lọt vào chữ O giữa ngón cái và ngón trỏ của ta ấy vậy.

* * * *

Ông bố già Zachry của tôi là một người kỳ quặc, tôi sẽ không nói khác đi cho dù giờ này ông đã khuất. Hầu hết những chuyện kể của ông cũng chỉ là cái rắm vịt thi vị và khi ở tuổi gần đất xa trời ông thậm chí còn tin rằng Meronym Người Tiên Tri chính là Sonmi thiêng liêng tông quý của ông, phải, ông khẳng định như thế, ông nói ông biết bởi vết chàm hình sao chổi.

Tôi có tin chuyện kể của ông về Kona và cuộc chạy trốn của ông từ Đảo Lớn không? Hầu hết chuyện kể đều có một chút sự thật, một số chuyện kể có một số sự thật, và chỉ một ít chuyện kể có rất nhiều sự thật. Chuyện về Meronym Người Tiên Tri gần như là thật, tôi nghĩ thế. Số là, sau khi bố mất, chị tôi và tôi đã lục lọi đồ đạc của ông và tôi tìm thấy quả trứng bạc mà ông gọi là “orison” trong chuyện kể của ông. Như bố đã kể, nếu bạn làm ấm quả trứng trong tay, một ma nữ xinh đẹp sẽ hiện ra trong không trung và nói bằng thứ tiếng của Người Xưa mà không ai còn sống hiểu được, lúc này hoặc mãi mãi. Đó không phải là Trí Thông Minh mà bạn có thể sử dụng vì nó không giết chết những tên cướp biển Kona hay làm no bụng, nhưng có những buổi hoàng hôn, anh em họ hàng tôi lại đánh thức ma nữ dậy để xem cô lơ lửng và tỏa sáng. Cô thật đẹp và làm cho bọn trẻ con thích mê tơi, còn những lời thì thầm của cô thì ru ngủ những bé sơ sinh.

Hãy ngồi xuống đây một lát.

Đưa tay của bạn ra.

Nhìn xem

Bản Đồ Mây

Bản Đồ Mây

Score 8
Status: Completed Author:

Bản Đồ Mây, tác phẩm đạt được giá trị về giải trí lẫn trí tuệ

Nếu đại dương được tạo thành từ vô số giọt nước thì nhân loại được cấu thành từ muôn vàn số phận lẻ loi. Sự hóa khí của mỗi giọt nước để kết tinh thành những đám mây cũng giống như tiến trình văn minh của loài người chạm tay tới những giấc mơ.

Lịch sử nhân loại là lịch sử của những giấc mơ tan vỡ để quay lại điểm xuất phát ban đầu, trong vòng tròn của thăng trầm luẩn quẩn.

Với ý tưởng ấy, David Mitchell đã dệt tấm bản đồ xuyên thời gian, xuyên lục địa bằng sáu câu chuyện khác nhau kéo dài hơn 5 thế kỷ tại 3 lục địa, bắt đầu từ Nam Thái Bình Dương thế kỷ XIX cho tới thời hậu tận thế ở Hawaii. Sáu câu chuyện, kết dính bằng một sợi dây mỏng manh gần như không thấy rõ, được sinh ra từ những va chạm tình cờ của các nhân vật đang lạc trong mê cung – cuộc đời của chính họ. Cuốn sách dựa theo kết cấu của bản nhạc mà Frobisher, nhân vật trong câu chuyện thứ hai viết nên: bản Lục tấu Vân Đồ soạn cho sáu loại nhạc cụ biểu diễn một cách chồng lấn: piano, clarinet, allo, sáo, kèn oboe và violin. Sáu thang âm, màu sắc riêng tương ứng với sáu cuộc đời ở các thời đại và địa điểm khác nhau.

Mỗi câu chuyện đều bỏ dở để chuyển sang câu chuyện khác cho đến chuyện cuối cùng được kể trọn vẹn rồi bắt đầu đi ngược lại các câu chuyện trước, để những con người xa lạ “đọc” được nhau. Đó là cách David Mitchell nối sáu câu chuyện thành vòng tròn. Đó chính là nguồn cảm hứng người đời trước truyền lại cho đời sau, dù giấc mơ đời họ có dở dang hay đến đích thì tinh thần họ để lại là vĩnh cửu.

Trong sự đan cài tưởng chừng rối rắm, Mitchell vẫn là tay lái vững vàng, lường trước mọi khả năng cũng như định vị được vai trò của các nhân vật. Tất cả những hình ảnh ông xây dựng đều mang hàm ý cao, từ cái bớt hình ngôi sao chổi trên cơ thể các nhân vật ẩn ý về sự đầu thai cho đến hành động mang tính nhân quả đời trước gieo. Bối cảnh xã hội của câu chuyện sau luôn được xây dựng dựa trên tiềm năng sẵn có của câu chuyện trước. Mỗi nhân vật xuất hiện, từ chính đến phụ, không phải để trang điểm cho bối cảnh. Họ ở đó như một mắt xích mà thiếu họ, mọi thứ sẽ khác đi, sẽ dẫn đến một kết cục rất khác. Họ, chỉ nhỏ bé như những giọt nước trong đại dương, nhưng đại dương cần những giọt nước.

Bản đồ mây còn đặt ra vô số câu hỏi về giá trị sống, về trách nhiệm của mỗi người trong chuỗi tiến hóa nhân loại, về tính thiện và ác, sự phân biệt chủng tộc, ngưỡng tâm linh của người phương Đông, khát vọng về sự khải huyền, về sức mạnh và sự hủy diệt của nền văn minh, về cái giá phải trả khi con người hiến mình cho khoa học.

...

Tác phẩm đã lọt vào shorlist của giải Man Booker năm 2004, đồng thời được Tom Tykwer, Lana Wachowski, Lilly Wachowski chuyển thể thành phim vào năm 2012.

Về tác giả David Mitchell, anh Là một trong những tiểu thuyết gia người Anh được yêu thích nhất hiện nay, với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, khả năng khắc họa tài tình tính cách nhân vật. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Ghostwritten được xuất bản năm 1999, ngay lập tức David Mitchell được xem như tiểu thuyết gia triển vọng và được trao giải Betty Trask. Hai tác phẩm tiếp theo number9dream và Cloud Atlas đều được vào shortlist của giải Man Booker. Cuốn sách có tên Black Swan Green cũng được TIME bình chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm 2006.

_Nguồn giới thiệu: Tạp chí Phái Đẹp ELLE

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset