Thứ Hai, ngày 9 tháng 12 –

Thứ Hai, ngày 9 tháng 12 –

Kể tiếp chuyện ngày hôm qua. Trường dạy hút thuốc đã tan (vài học sinh đang nghiêng ngả & nôn ọe, nhưng giáo viên của họ, một lái buôn thuốc lá lưu động, trấn an chúng tôi, “Họ sẽ mắc câu lúc nào không hay ấy chứ!”), cái nóng đã dịu, dù Mũi Nazareth vẫn hầm hập dưới ánh nắng chói chang. Wagstaff tản bộ với tôi dọc một dải đất rừng chạy về phía bắc từ Vịnh Bethlehem. Là con út của một cha phó ở Gravesend, người hướng dẫn của tôi đã bị lôi kéo vào nghề truyền giáo từ khi còn ẵm ngửa. Hiệp hội, theo thỏa thuận với linh mục Horrox, đã gửi anh ta đến đây để lấy một góa phụ xứ Nazareth, Eliza, nhũ danh là Mapple, & làm cha đứa con trai của cô ta, Daniel. Anh ta đến đây vào tháng năm Năm ngoái.

Thật may mắn khi được sinh sống ở một Vườn địa đàng như thế này, tôi nói, nhưng lời pha trò của tôi đã xát muối vào tinh thần chàng trai trẻ. “Tôi cũng đã tin như thế trong những ngày đầu, thưa ông, nhưng giờ thì tôi chẳng biết có đúng không nữa. Ý tôi là, Địa đàng là một nơi đẹp đẽ, nhưng mọi thứ có sự sống ở đây đều hoang dã, nó cắn & cào xé. Một kẻ tà giáo đến với Chúa là một linh hồn được cứu rỗi, tôi biết điều đó, nhưng mặt trời không bao giờ ngưng thiêu đốt & sóng biển & đất đá lúc nào cũng chói lòa, mắt tôi đau buốt cho đến khi trời tắt nắng. Có những khi, tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ cho sương mù Bắc Hải. Nơi này bóp nghẹt linh hồn chúng ta, thật lòng mà nói đấy ông Ewing. Bà nhà tôi đã ở đây từ khi còn bé, nhưng điều đó cũng chẳng giúp bà ấy dễ sống hơn. Ông sẽ nghĩ những người dã man này sẽ biết ơn, ông biết đấy, chúng ta mở trường học cho họ, chữa lành họ, đem lại công ăn việc làm & cuộc sống bất tử cho họ! Ô, họ nói, ‘Xin ông vui lòng,’ và ‘Xin cám ơn ông’ khá đầy đủ, nhưng ông chẳng cảm thấy gì hết,” Wagstaff đập vào tim mình, “ở đây. Phải, nó có thể trông giống như Địa đàng, nhưng Raiatea là mội nơi điêu tàn, giống như mọi nơi khác, đúng, không phải lũ rắn, mà là Ác quỷ đang hoành hành ở đây như ở bất kỳ nơi nào khác. Lũ kiến! Kiến ở khắp mọi nơi. Trong thức ăn, quần áo, kể cả trong mũi nữa. Chừng nào chúng ta chưa cải đạo được những con kiến đáng nguyền rủa này, thì những hòn đảo này sẽ mãi mãi không thực sự thuộc về chúng ta.”

Chúng tôi đến nơi ở giản dị của anh ta, do chồng quá cố của vợ anh ta dựng nên. Wagstaff không mời tôi vào, chỉ lấy nước uống cho chuyến đi của chúng tôi. Tôi quay lại và nhìn thấy một khu vườn khiêm tốn trước nhà, có một người làm vườn da đen đang cuốc đất. Tôi hỏi ông ta đang trồng gì.

“David bị câm,” một người phụ nữ nói với tôi từ cửa ra vào, chị ta khoác một chiếc tạp dề lỏng lẻo, bẩn thỉu. Tôi e rằng chỉ có thể mô tả ngoại hình và thái độ của chị ta là nhếch nhác. “Ông là ông bác sĩ người Anh đang ở nhà Horrox.”

Tôi giải thích tôi là công chứng viên người Mỹ & hỏi có phải tôi đang được tiếp chuyện bà Wagstaff không.

“Hôn lễ nhà thờ và hôn thú của tôi nói vậy, phải.”

Tôi nói bác sĩ Goose đang thực hiện một ca phẫu thuật phát sinh tại nhà Horrox, nếu chị ta muốn đến khám bệnh. Tôi trấn an chị ta về sự mát tay của Henry.

“Có đủ mát tay để trừ tà cho tôi, lấy lại những năm tôi đã lãng phí ở đây, & đưa tôi về London với tiền trợ cấp ba trăm bảng một năm không?”

Yêu cầu như vậy nằm ngoài năng lực của bạn tôi, tôi thừa nhận.

“Vậy thì ông bác sĩ mát tay của ông chẳng làm được gì cho tôi rồi, thưa ông.”

Tôi nghe tiếng cười khúc khích trong bụi cây sau lưng, quay lại, & thấy một đám bé trai da đen (tôi tò mò khi thấy nhiều trẻ da sáng từ những hôn nhân khác chủng tộc.) Tôi phớt lờ bọn trẻ & quay lại thì thấy một cậu bé da trắng mười hai hoặc mười ba tuổi, cũng bẩn thỉu giống mẹ nó, chạy vụt qua vợ Wagstaff, chị ta cũng chẳng buồn gọi nó lại. Cậu con trai nô đùa vui vẻ hệt như các bạn người bản xứ vậy! “Này, anh bạn trẻ,” tôi quở mắng, “cháu không sợ bị say nắng khi chạy nhảy lung tung như thế à?” Đôi mắt xanh của cậu bé ánh lên vẻ láu cá & câu trả lời, mang nặng âm hưởng tiếng Polynesia, khiến tôi chẳng hiểu mô tê gì nhưng khiến những cậu bạn da đen bé xíu khoái chí, rồi tất cả ùa chạy đi như bầy sẻ lục.

Wagstaff bước ra sau cậu con trai, đầy giận dữ.

“Daniel! Quay lại đây! Daniel! Bố biết con nghe thấy! Bố sẽ cho con ăn đòn! Con có nghe không? Bố sẽ cho con ăn đòn!” Anh ta quay sang vợ. “Cô Wagstaff! Cô có muốn con trai mình lớn lên cũng thành người dã man không? Ít nhất cũng phải bắt thằng bé mặc quần áo chứ! Ông Ewing sẽ nghĩ gì đây?”

Sự coi thường mà cô vợ Wagstaff dành cho anh chồng trẻ, nếu đóng chai được, hẳn có thể sánh với thuốc diệt chuột. “Ông Ewing muốn nghĩ thế nào thì nghĩ. Rồi ngày mai, ông ta sẽ ra đi trên chiếc tàu đẹp đẽ ấy, đem theo những suy nghĩ của ông ta. Không như anh & tôi, ông Wagstaff à, chúng ta sẽ chết ở đây. Sớm thôi, tôi cầu Chúa như vậy đấy.” Chị ta quay sang tôi. “Chồng tôi học mãi không xong được, thưa ông, vì vậy tôi xin lỗi cứ phải giải thích những chuyện hiển nhiên, mười lần mỗi ngày.”

Không muốn chứng kiến sự bẽ mặt của Wagstaff trong tay vợ, tôi cúi đầu chào & bước ra khỏi hàng rào. Tôi nghe tiếng càu nhàu của đàn ông bị giẫm đạp bởi sự khinh bỉ của đàn bà & tập trung sự chú ý vào một chú chim cạnh bên đang hát đoạn điệp khúc, mà theo tai tôi, nghe như thế này: – Toby không nói ra, khônggg… Toby không nói ra…

Người dẫn đường của tôi đuổi kịp tôi, lộ rõ vẻ cau có. “Xin thứ lỗi, ông Ewing, tinh thần bà Wagstaff nhà tôi hôm nay nóng nảy đáng sợ. Cô ta chẳng ngủ được bao nhiêu do nóng và nhiều ruồi quá.” Tôi trấn an anh ta rằng “buổi chiều bất tận” của miền Nam Hải khiến ngay cả những người cường tráng nhất cũng đuối sức. Chúng tôi rảo bước dưới những cây lá lược lấm bùn, dọc mũi biển búp măng, đất đai ngập ngụa phì nhiêu, & những con sâu bướm lông lá, béo múp míp bằng ngón tay cái, rơi xuống từ cuống những cây chuối pháo đẹp lạ lùng.

Người thanh niên kể lại khi xưa hội truyền giáo đã trấn an gia đình Wagstaff về sự giáo dục hoàn hảo của người vợ sắp cưới. Linh mục Horrox làm lễ cưới cho họ một ngày sau khi anh đến Nazareth, khi cảm giác mơ màng về vùng Xích đạo vẫn còn khiến anh hoa mắt. (Tại sao Eliza Mapple đồng ý với một cuộc hôn nhân sắp đặt như thế vẫn là điều khó hiểu: Henry phỏng đoán vĩ độ & mảnh đất này “làm rối trí” giới tính yếu hơn & khiến họ trở nên dễ bảo hơn.) Tính “yếu đuối” của cô dâu nhà Wagstaff, độ tuổi thật & tính khí bất trị của Daniel lộ rõ khi chữ ký của họ trên tờ hôn ước vừa mới ráo mực. Ông bố dượng đã cố gắng chống chọi với gánh nặng mới nhưng điều này dẫn đến “những lời tố cáo ác độc” từ cả người mẹ & đứa con ghẻ khiến anh không biết phải tìm đến đâu để cầu cứu. Không những không giúp đỡ Wagstaff, linh mục Horrox còn trách móc anh vì quá nhu nhược & sự thật là, mười ngày thì hết chín ngày anh khốn khổ như thánh Job[72]. (Cho dù nỗi khổ của Wagstaff là gì, có nỗi khổ nào sánh bằng một con giun ký sinh ăn dần mòn những đường ống trong não của người ta chứ?)

Suy nghĩ tìm cách làm cho người thanh niên ủ rũ quên đi nỗi buồn với những vấn đề logic hơn, tôi hỏi tại sao lại có nhiều sách Kinh thánh chẳng ai động đến (& thực sự chỉ những con mọt sách mới đọc) trong nhà thờ. “Đúng ra linh mục Horrox mới có quyền giải thích chuyện này, nhưng nói ngắn gọn là, Hội truyền giáo Vịnh Matavia lần đầu tiên dịch lời dạy của Chúa ra tiếng Polynesia & các hội truyền giáo bản xứ đã sử dụng những quyển Kinh thánh đó để cải đạo được rất nhiều người, đến nỗi Elder Whitlock – một trong những người sáng lập ra Nazareth nhưng nay đã khuất – đã thuyết phục hội truyền giáo áp dụng lại thử nghiệm đó ở đây. Ông ta từng học việc với một thợ khắc bản ở Highgate. Vì vậy cùng với súng & công cụ, những hội truyền giáo đầu tiên đã đem theo máy in, giấy báo, mực in, khay xếp chữ & những tập giấy. Trong vòng mười ngày sau khi thành lập Vịnh Bethlehem, ba nghìn quyển sách đã được in cho trường học của Hội truyền giáo, thậm chí trước cả khi họ đào vườn. Tiếp theo là sách phúc âm Nazareth & Kinh thánh lan truyền từ quần đảo Society đến đảo Cooks đến Tonga. Nhưng lúc này máy in đã gỉ sét, chúng tôi có hàng nghìn quyển Kinh thánh cầu khẩn người sở hữu & tại sao?”

Tôi không đoán được.

“Không đủ thổ dân. Tàu thuyền đem theo mầm mống bệnh tật đến đây, những người da đen hít phải & họ trương phình lên vì bệnh & ngã lăn quay như con vụ. Chúng tôi dạy những người sống sót về chế độ một vợ một chồng & hôn nhân, nhưng những sự kết hợp của họ không đem lại kết quả.” Tôi nhận ra mình đang thắc mắc đã bao nhiêu tháng qua Wagstaff chưa mỉm cười. “Triệt tiêu những gì ông từng trân trọng & chữa trị,” anh nói, “đó dường như là giải pháp của mọi vấn đề.”

Con đường kết thúc ở đoạn dẫn xuống bãi biển tại một “thỏi” san hô đen vỡ nát, dài gần hai mươi mét & cao bằng hai người. “Cái này gọi là marae,” Wagstaff nói. “Tôi nghe nói ông sẽ nhìn thấy chúng trên khắp vùng Nam Hải.” Chúng tôi leo lên & tôi thấy Prophetess, cách đấy chỉ một lần “quẫy chân” đối với người khỏe mạnh biết bơi. (Finbar trút một thùng to qua lan can tàu & tôi thấy bóng đen của Autua trên nóc cột buồm phía lái, đang cuộn buồm trước lên.)

Tôi hỏi thăm về nguồn gốc & mục đích của marae & Wagstaff giải thích vắn tắt, “Chỉ cách đây một thế hệ, thổ dân vẫn còn gào thét & cắt máu & hiến tế cho những thần thánh giả tạo của họ ngay trên những tảng đá mà chúng ta đang đứng.” Suy nghĩ của tôi trôi về bãi biển Yến tiệc trên đảo Chatham. “Bây giờ bất kỳ người da đen nào đặt chân lên đây đều bị các Cận vệ của Chúa đánh đòn. Hoặc kẻ nào nhăm nhe định thế. Trẻ con bản xứ thậm chí còn không biết tên các thần thánh cũ nữa. Giờ đây tất cả chỉ còn là ổ chuột & rác rến thôi. Đó là điều mà một ngày nào đó mọi đức tin sẽ trở thành. Ổ chuột & rác rến.”

Những cánh hoa sứ và hương hoa bao trùm lấy tôi.

Người ngồi cạnh tôi tại bàn ăn tối là bà Derbyshire, một góa phụ đã bước sang thập niên thứ sáu của cuộc đời, cay đắng & cứng nhắc như một quả đấu xanh. “Tôi thừa nhận không thích người Mỹ,” bà ta bảo tôi. “Họ đã giết ông chú Samuel đáng kính của tôi, một đại tá trong Pháo binh Hoàng gia, trong trận chiến 1812.” Tôi ngỏ lời chia buồn (không mong muốn), nhưng nói thêm rằng cho dù người cha kính yêu của tôi đã bị người Anh giết chết trong cùng trận chiến đó, nhưng tôi vẫn có một số bạn thân là người Anh. Bác sĩ cười rất to & thốt lên, “Hoan hô, Ewing!”

Bà Horrox bẻ lái cuộc nói chuyện trước khi chúng tôi đâm phải đá ngầm. “Các ông chủ của ông đặt niềm tin to lớn vào tài năng của ông đấy, ông Ewing ạ, chẳng thế mà họ đã tin cậy giao cho ông công việc đòi hỏi một hành trình dài & vất vả như thế.” Tôi đáp rằng, phải, tôi là công chứng viên cao cấp đủ để tin cậy với nhiệm vụ hiện nay, nhưng cũng là một người quản lý văn khế thừa non trẻ để buộc phải nhận nhiệm vụ ấy. Những tiếng cười cảm thông tưởng thưởng cho sự khiêm tốn của tôi.

Sau khi nói xong lời cầu nguyện trước những bát xúp rùa & cầu xin Hồng ân cho sự hợp tác kinh doanh mới với thuyền trưởng Molyneux, linh mục Horrox giảng đạo về một chủ đề rất được yêu thích trong lúc chúng tôi ăn. “Tôi đã luôn có niềm tin không suy suyển, rằng Đức Chúa, trong Thế giới Văn minh của chúng ta, không phải hiển lộ qua những Phép lạ của Thời đại Kinh thánh, mà trong Tiến trình. Chính Tiến trình là điều dẫn Nhân loại lên nấc thang cao hơn tiến về phía Chúa. Đây không phải là Chiếc thang Jacob, không hề, mà chính là

‘Chiếc thang Văn minh’. Cao hơn tất thảy mọi chủng tộc trên chiếc thang này là người Anglo-Saxon. Người Latin ở dưới một, hai bậc. Thấp hơn nữa là người Á châu – một chủng tộc chăm chỉ, không ai có thể phủ nhận, nhưng thiếu lòng quả cảm của chủng tộc Aryan. Các nhà Hán học khẳng định họ từng có tham vọng bá chủ, nhưng Shakespeare da vàng của các người ở đâu, hử, hay da Vinci mắt xếch của các người đâu? Đây là chuyện hai năm rõ mười nhé. Thấp hơn nữa, chúng ta có người da đen. Những kẻ tính khí đàng hoàng một chút thì có thể được dạy dỗ để lao động sinh lời, dù kẻ cứng đầu khác nào ác quỷ đầu thai! Người da đỏ cũng thế, có thể làm được những việc vặt có ích ở vùng lân cận California, không phải thế sao, ông Ewing?”

Tôi thừa nhận là đúng.

“Bây giờ, người Polynesia của chúng ta. Khách đến Tahiti, O-hawaii, hay Bethlehem chẳng hạn, sẽ kết luận rằng cư dân đảo Thái Bình Dương có thể, với sự hướng dẫn cẩn thận, học được “A–B–C”, chút số học & lòng mộ đạo, từ đó tiến hóa vượt qua người da đen để cạnh tranh với người Á châu về sự chăm chỉ.”

Henry cắt ngang để nhận xét rằng người Maori đã tiến đến “D–E–F” về buôn bán, ngoại giao & chủ nghĩa thực dân.

“Càng chứng minh quan điểm của tôi. Cuối cùng, thấp nhất & kém nhất chính là những ‘Chủng tộc không thể cải tạo’, Thổ dân Úc, người Patagonia, nhiều dân tộc Phi châu, & v.v., vươn lên từ loài khỉ & quá bướng bỉnh trước Tiến trình đến nỗi, như loài voi răng mấu & ma mút, tôi e rằng một cuộc ‘đánh bật khỏi nấc thang’ nhanh chóng – sau những anh em họ của họ – người Guanche, dân đảo Canary & Tasmania – là viễn cảnh tử tế nhất.”

“Ý ông là,” thuyền trưởng Molyneux ăn hết bát xúp của mình, “tuyệt chủng?”

“Đúng thế, thuyền trưởng ạ, đúng thế. Tiến trình & Luật tự nhiên chuyển động đồng thời mà. Thế kỷ này của chúng ta sẽ chứng kiến các bộ lạc của nhân loại hiện thực hóa những lời tiên tri viết sẵn trong đặc tính chủng tộc của họ. Tầng lớp ưu việt hơn sẽ giảm trừ những người dã man đông đúc xuống con số tự nhiên của họ. Có thể sẽ diễn ra những cảnh không mấy dễ chịu, nhưng người có lòng dũng cảm trí thức không được nao núng. Một trật tự vẻ vang sẽ tiếp nối, khi mọi chủng tộc sẽ biết & tự hào về vị trí của họ trên chiếc thang văn minh của Chúa trời. Vịnh Bethlehem đem đến viễn cảnh về một bình minh sắp đến.”

“Amen cho điều đó, thưa linh mục,” thuyền trưởng Molyneux đáp. Một anh Gosling nào đấy (hôn phu của con con gái đầu lòng của linh mục Horrox) siết chặt tay bày tỏ sự ngưỡng mộ. “Nếu con được phép bày tỏ, thưa cha, thì có cảm tưởng như… vâng, một sự mất mát khi định lý của cha không được xuất bản rộng rãi. ‘Chiếc thang Văn minh Horrix’ sẽ làm vẻ vang Hiệp hội Hoàng gia!”

Linh mục Horrox nói, “Không, anh Gosling ạ, công việc của tôi là ở đây. Thái Bình Dương phải tự tìm kiếm cho họ một Descartes khác, một Cuvier khác.”

“Rất sáng suốt đấy, thưa linh mục,” Henry đập một con côn trùng bay qua & xem xét cái xác của nó, “khi ông giữ lại những suy nghĩ đó cho riêng mình.”

Chủ nhà của chúng tôi không thể che giấu sự bực bội. “Tại sao?”

“Thì đấy, nhìn kỹ sẽ thấy rõ mà, một ‘định lý’ là dư thừa khi một quy luật đơn giản đã đủ.”

“Thế quy luật đó là gì?”

“Quy luật đầu tiên trong ‘Hai quy luật sống sót của Goose.’ Đó là, ‘Kẻ yếu làm mồi cho kẻ mạnh ăn thịt.’”

“Nhưng “quy luật đơn giản” của ông chưa xét đến điều huyền bí cơ bản, “Tại sao các chủng tộc da trắng lại thống lĩnh thế giới?”

Henry bật cười & lắp đạn vào một khẩu súng hỏa mai tưởng tượng, ngắm xuống nòng súng, nheo mắt, rồi khiến cả bàn giật mình với một tiếng “Bang! Bang! Bang! Thấy chưa? Bắn trúng ông ta trước khi ông ta hút ống tẩu!”

Bà Derbyshire thốt lên một tiếng “Ối!” sợ sệt.

Henry nhún vai. “Huyền bí cơ bản ở chỗ nào?”

Linh mục Horrox mất đi sự hài hước vốn có. “Ông ngụ ý rằng các chủng tộc da trắng thống trị địa cầu không phải nhờ ân điển thiêng liêng mà bằng súng hỏa mai ư? Nhưng một nhận định gán ghép như vậy chẳng qua cũng chỉ là điều huyền bí tương tự khoác trên nó một bộ quần áo vay mượn mà thôi! Làm thế nào súng hỏa mai đến tay người da trắng & không đến tay, chẳng hạn như, người Esquimeau hay người Pygmy, nếu không nhờ thánh ý của Đấng Toàn Năng?”

Henry nhã nhặn. “Vũ khí không tự nhiên được thả lên đùi chúng ta vào một buổi sáng nào đó. Nó không phải là manna từ bầu trời Sinai. Từ thời Agincourt, người da trắng đã hoàn thiện & phát triển khoa học thuốc súng cho đến khi các quân đội hiện đại của chúng ta có thể làm ra hàng chục nghìn súng hỏa mai! ‘À ha!’ vâng, ông sẽ hỏi, ‘Nhưng tại sao lại là người Aryan chúng ta? Tại sao không phải là người Uniped xứ Ur hay người Mandrake ở Mauritius?’ Bởi vì, linh mục ạ, trong tất cả các chủng tộc trên thế giới, tình yêu của chúng ta – hay nói đúng hơn là sự tham lam của chúng ta – dành cho của cải, vàng, gia vị & quyền lực thống trị, ô, chủ yếu là quyền lực thống trị ngọt ngào – là mạnh mẽ nhất, khát khao nhất, vô lương tâm nhất! Sự tham lam này, vâng, quyền lực của Tiến trình; vì mục đích thấp hèn hay cao cả tôi không biết. Cũng như ông không biết. Cũng như tôi chẳng quá bận tâm. Tôi chỉ cảm thấy biết ơn vì Tạo hóa đã đặt tôi nằm ở bên thắng cuộc.”

Sự thẳng thắn của Henry bị hiểu lầm thành thái độ bất lịch sự & linh mục Horrox, vị Napoleon của Elba xích đạo của riêng mình, đã đỏ bừng bừng vì phẫn nộ. Tôi khen ngợi món xúp của gia chủ (dù kỳ thực cơn thèm thuốc xổ giun khiến tôi khó tiêu hóa bất kỳ món ăn nào dù là đơn giản nhất) & hỏi loại rùa này được bắt ở vùng biển gần đó hay được nhập khẩu từ xa.

Sau đó, nằm trên giường trong bóng tối nhập nhoạng, bị lũ thạch sùng nghe trộm, Henry thừa nhận cuộc phẫu thuật ngày hôm đó thực ra là “một cuộc diễu hành của những người đàn bà bị cháy nắng lên cơn kích động, những người không cần thuốc men chi cả, mà cần cửa hàng dệt kim, cửa hàng thời trang, cửa hàng mũ bê rê, hiệu nước hoa & những món trang sức linh tinh dành cho giới tính của họ”! Ông ta giải thích việc “bắt mạch” của mình chỉ có một phần là kê thuốc, chín phần là tán gẫu linh tinh. “Họ thề rằng các ông chồng đang ăn nằm với đàn bà bản địa & sống trong nỗi sợ hãi chết người rằng họ sẽ mắc ‘bệnh gì đó.’ Khăn mùi soa phất lên trong không khí cứ gọi là hết chiếc này đến chiếc khác.”

Sự thừa nhận của ông ta khiến tôi thấy không thoải mái & tôi đánh liều nói rằng Henry nên tập giữ mồm giữ miệng khi bất đồng ý kiến với chủ nhà. “Adam thân mến ơi, tôi đã kiềm chế rồi còn gì & nhiều hơn cần thiết ấy chứ! Tôi chỉ muốn hét lên câu này với lão già ngu ngốc đó: – Tại sao lại thích thú với sự thật hiển nhiên rằng chúng ta đẩy những chủng tộc da sậm hơn đến mồ chôn của họ nhằm chiếm đoạt đất đai & của cải của họ? Loài lang sói còn không ngồi trong hang, dựng nên những định luật tào lao về chủng tộc để biện minh cho việc ăn tươi nuốt sống một đàn cừu! ‘Lòng dũng cảm trí thức’ ư? ‘Lòng dũng cảm trí thức’ thực sự là cái cớ che đậy & thừa nhận rằng mọi dân tộc đều là thú săn mồi, nhưng những con thú săn mồi da trắng, với cặp bài trùng chết người mầm bệnh & vũ khí, là tiêu biểu cho đệ nhất săn mồi, & còn gì nữa?”

Tôi cảm thấy buồn khi một bác sĩ tận tụy & tín đồ Cơ đốc nhã nhặn như thế lại bị khuất phục trước lòng hoài nghi. Tôi hỏi Quy luật sống sót thứ hai của Goose là gì. Henry cười trong bóng tối & hắng giọng, “Quy luật sống sót thứ hai nói rằng không có quy luật thứ hai nào cả. Ăn hoặc bị ăn. Thế thôi.” Chẳng bao lâu sau ông ta đã ngáy đều, nhưng con Giun trong người khiến tôi thao thức cho đến khi những vì sao bắt đầu mờ nhạt. Thạch sùng kiếm ăn & bò nhẹ nhàng qua ga trải giường của tôi.

Bình minh ẩm ương & đỏ rực như quả chanh dây. Đàn ông & đàn bà bản địa lũ lượt kéo nhau đi lên “Phố Chính” đến các đồn điền của nhà thờ trên đỉnh đồi, nơi họ làm việc đến khi cái nóng buổi chiều trở nên quá sức chịu đựng. Trước khi xuồng nhỏ đến để đưa Henry & tôi quay về Prophetess, tôi đi xem những người thợ xước xơ cùi dừa khô. Thật tình cờ anh Wagstaff là người giám sát họ sáng nay & có một bé trai bản xứ đem đến cho chúng tôi nước dừa. Tôi dằn lòng không hỏi thăm về gia đình anh & anh cũng không nhắc đến họ. Anh cầm một cây roi, “nhưng tôi hiếm khi dùng đến nó, đó là việc của ông hoàng Cận vệ của Chúa. Tôi chỉ trông chừng những kẻ giám sát mà thôi.”

Ba trong số những con người danh giá này quan sát những người lao động, xướng những bài thánh ca (“bài hò thủy thủ trên cạn”) & quát nạt những kẻ chểnh mảng. Wagstaff ít hào hứng trò chuyện hơn hôm qua & để cho những lời pha trò của tôi rơi vào thinh lặng, sự im lặng chỉ bị phá vỡ bởi những tiếng động của núi rừng & người lao động. “Có phải ông đang nghĩ rằng chúng tôi biến những người tự do thành nô lệ không?”

Tôi né tránh câu hỏi này bằng cách nói ông Horrox đã giải thích những người lao động đang trả công cho những lợi ích Tiến trình do hội truyền giáo đem lại. Wagstaff không nghe tôi. “Có một bộ lạc kiến tên là kiến chiếm hữu. Chúng tấn công các đàn kiến thông thường, ăn cắp trứng về tổ của chúng, & sau khi trứng nở thì những nô lệ bị ăn cắp trở thành công nhân cho đế chế vĩ đại, & không bao giờ ngờ rằng chúng từng bị ăn cắp. Bây giờ nếu ông hỏi tôi, thì Thiên Chúa Jehovah đã tạo ra những con kiến này như một hình mẫu đấy, ông Ewing ạ.” Ánh mắt của Wagstaff ẩn chứa tương lai xưa cũ. “Cho những kẻ có mắt nhìn thấy.”

Những người có tính cách dễ thay đổi khiến tôi bất an & Wagstaff là một người như thế. Tôi cáo lỗi & tiến đến điểm tiếp theo, trường học. Ở đây, trẻ con Nazarene thuộc cả hai màu da học chữ, số học và A–B–C về cuộc sống. Bà Derbyshire dạy con trai & bà Horrox dạy con gái. Vào buổi chiều trẻ con da trắng học thêm ba giờ với giáo trình phù hợp với địa vị của chúng (dù Daniel Wagstaff tỏ ra miễn nhiễm trước những lời khuyên dỗ của các thầy cô giáo) trong khi những bạn da màu sậm hơn đến chỗ bố mẹ trên đồng trước giờ kinh chiều mỗi ngày.

Một vở kịch ngắn được diễn để chào đón tôi. Mười bé gái, năm da trắng, năm da đen, diễn lại một đoạn trong Điều răn của Chúa. Sau đó tôi được nghe bài “Ô! Nhà là nơi ta được yêu thương nhất”, có sự tham gia của bà Horrox trên một chiếc đàn piano cánh mở từng có quá khứ vẻ vang hơn hiện tại. Các bé gái sau đó được mời đặt câu hỏi cho khách, nhưng chỉ những cô bé da trắng giơ tay lên. “Thưa ông, ông có quen George Washington không?” (Trời ơi, không.) “Có bao nhiêu con ngựa kéo cỗ xe của ông?” (Ông nhạc phụ của ta có xe tứ mã, nhưng ta thích cưỡi một con ngựa hơn.) Đứa bé nhất hỏi tôi, “Con kiến có bị đau đầu không?” (Nếu những tiếng cười khích khích của bạn học không khiến tác giả câu hỏi khóc òa lên, thì tôi có lẽ vẫn còn đứng đó suy ngẫm về câu hỏi này.) Tôi bảo các cháu học sinh sống theo lời dạy của Kinh thánh & vâng lời người lớn, rồi ra về. Bà Horrox cho tôi hay những vị khách trước đây từng được tặng một vòng hoa sứ, nhưng những người cao tuổi trong hội truyền giáo cho rằng vòng hoa là trái với thuần phong mỹ tục. “Nếu hôm nay chúng tôi cho phép vòng hoa, thì ngày mai sẽ đến lượt nhảy múa. Nếu ngày mai là nhảy múa…” Bà nhún vai.

Thật đáng tiếc.

Đến xế trưa, cánh đàn ông đã chất xong hàng hóa & Prophetess từ từ tiến ra khỏi vịnh ngược chiều gió. Henry & tôi đã trở về phòng ăn tập thể để tránh sóng biển lẫn tiếng văng tục. Bạn tôi đang sáng tác một đoạn thơ trong thiên sử thi kiểu Byron nhan đề “Lịch sử thật sự của Autua, người Moriori cuối cùng” & cắt ngang việc viết nhật ký của tôi để hỏi vần nào đi với nhau thì hợp: – “Máu dòng tuôn”?; “Ngập ngụa bùn”?; “Robin Hood”?

Tôi nhớ đến những tội ác mà Melville đã gây ra cho các hội truyền giáo Thái Bình Dương trong câu chuyện kể gần đây của ông ta về Typee. Giống như đầu bếp, bác sĩ, công chứng viên, giáo sĩ, thuyền trưởng & vua chúa, liệu những người truyền giáo cũng có người tốt, người xấu không? Có lẽ những thổ dân của quần đảo Society & Chatham sẽ hạnh phúc nhất khi “không bị phát hiện”, nhưng nói như thế thì chẳng khác nào muốn mặt trăng làm của riêng mình. Chúng ta nên hay không nên cổ vũ nỗ lực của ông Horrox & và thầy dòng trong việc giúp đỡ thổ dân leo lên “Chiếc thang Văn minh”? Chẳng lẽ tiến lên là sự cứu rỗi duy nhất của họ?

Tôi không biết câu trả lời, cũng như không biết tự khi nào sự chắc chắn của tôi về những năm tháng trẻ trung hơn đã bay đi mất.

Trong đêm tôi ở lại nhà Horrox, một tên trộm đã đột nhập vào buồng tôi & khi kẻ vô lại này không thể tìm thấy chìa khóa chiếc hòm gỗ mít của tôi (tôi đeo nó trên cổ), hắn đã tìm cách phá ổ khóa. Nếu hắn thành công, thì các khế ước & tài liệu của ông Busby giờ đây đã thành cỏ khô cho cá ngựa rồi. Tôi ước gì thuyền trưởng của chúng tôi cũng được tạo thành từ chất liệu làm nên thuyền trưởng Beale đáng tin cậy! Tôi không dám gửi tư trang quý giá cho thuyền trưởng Molyneux & Henry đã cảnh báo tôi đừng “chọc tổ ong bầu” bằng cách kể lại vụ ăn trộm với lão Boerhaave, e rằng một cuộc điều tra sẽ kích thích mọi kẻ trộm cắp trên tàu thử vận may mỗi khi tôi lơ là. Tôi cho rằng ông ta nói đúng.

===== =====

[72] Tác giả có lẽ mượn hình ảnh trong Kinh thánh, sách Job, câu 29:12 và 29:13 – Ấy vì tôi giải cứu kẻ khốn cùng kêu cầu, Và kẻ mồ côi không ai giúp đỡ. Kẻ gần chết chúc phước cho tôi, Và tôi làm cho lòng người góa bụa nức nở vui mừng.

Bản Đồ Mây

Bản Đồ Mây

Score 8
Status: Completed Author:

Bản Đồ Mây, tác phẩm đạt được giá trị về giải trí lẫn trí tuệ

Nếu đại dương được tạo thành từ vô số giọt nước thì nhân loại được cấu thành từ muôn vàn số phận lẻ loi. Sự hóa khí của mỗi giọt nước để kết tinh thành những đám mây cũng giống như tiến trình văn minh của loài người chạm tay tới những giấc mơ.

Lịch sử nhân loại là lịch sử của những giấc mơ tan vỡ để quay lại điểm xuất phát ban đầu, trong vòng tròn của thăng trầm luẩn quẩn.

Với ý tưởng ấy, David Mitchell đã dệt tấm bản đồ xuyên thời gian, xuyên lục địa bằng sáu câu chuyện khác nhau kéo dài hơn 5 thế kỷ tại 3 lục địa, bắt đầu từ Nam Thái Bình Dương thế kỷ XIX cho tới thời hậu tận thế ở Hawaii. Sáu câu chuyện, kết dính bằng một sợi dây mỏng manh gần như không thấy rõ, được sinh ra từ những va chạm tình cờ của các nhân vật đang lạc trong mê cung – cuộc đời của chính họ. Cuốn sách dựa theo kết cấu của bản nhạc mà Frobisher, nhân vật trong câu chuyện thứ hai viết nên: bản Lục tấu Vân Đồ soạn cho sáu loại nhạc cụ biểu diễn một cách chồng lấn: piano, clarinet, allo, sáo, kèn oboe và violin. Sáu thang âm, màu sắc riêng tương ứng với sáu cuộc đời ở các thời đại và địa điểm khác nhau.

Mỗi câu chuyện đều bỏ dở để chuyển sang câu chuyện khác cho đến chuyện cuối cùng được kể trọn vẹn rồi bắt đầu đi ngược lại các câu chuyện trước, để những con người xa lạ “đọc” được nhau. Đó là cách David Mitchell nối sáu câu chuyện thành vòng tròn. Đó chính là nguồn cảm hứng người đời trước truyền lại cho đời sau, dù giấc mơ đời họ có dở dang hay đến đích thì tinh thần họ để lại là vĩnh cửu.

Trong sự đan cài tưởng chừng rối rắm, Mitchell vẫn là tay lái vững vàng, lường trước mọi khả năng cũng như định vị được vai trò của các nhân vật. Tất cả những hình ảnh ông xây dựng đều mang hàm ý cao, từ cái bớt hình ngôi sao chổi trên cơ thể các nhân vật ẩn ý về sự đầu thai cho đến hành động mang tính nhân quả đời trước gieo. Bối cảnh xã hội của câu chuyện sau luôn được xây dựng dựa trên tiềm năng sẵn có của câu chuyện trước. Mỗi nhân vật xuất hiện, từ chính đến phụ, không phải để trang điểm cho bối cảnh. Họ ở đó như một mắt xích mà thiếu họ, mọi thứ sẽ khác đi, sẽ dẫn đến một kết cục rất khác. Họ, chỉ nhỏ bé như những giọt nước trong đại dương, nhưng đại dương cần những giọt nước.

Bản đồ mây còn đặt ra vô số câu hỏi về giá trị sống, về trách nhiệm của mỗi người trong chuỗi tiến hóa nhân loại, về tính thiện và ác, sự phân biệt chủng tộc, ngưỡng tâm linh của người phương Đông, khát vọng về sự khải huyền, về sức mạnh và sự hủy diệt của nền văn minh, về cái giá phải trả khi con người hiến mình cho khoa học.

...

Tác phẩm đã lọt vào shorlist của giải Man Booker năm 2004, đồng thời được Tom Tykwer, Lana Wachowski, Lilly Wachowski chuyển thể thành phim vào năm 2012.

Về tác giả David Mitchell, anh Là một trong những tiểu thuyết gia người Anh được yêu thích nhất hiện nay, với nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, khả năng khắc họa tài tình tính cách nhân vật. Cuốn tiểu thuyết đầu tay Ghostwritten được xuất bản năm 1999, ngay lập tức David Mitchell được xem như tiểu thuyết gia triển vọng và được trao giải Betty Trask. Hai tác phẩm tiếp theo number9dream và Cloud Atlas đều được vào shortlist của giải Man Booker. Cuốn sách có tên Black Swan Green cũng được TIME bình chọn là một trong 10 cuốn sách hay nhất năm 2006.

_Nguồn giới thiệu: Tạp chí Phái Đẹp ELLE

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset