Tiểu thư Tư Đằng nghĩ hay quá, còn bảo “mang Tần Phóng đi nghỉ ngơi”, cứ như nơi này là hoàng cung, chỉ cần ra cửa rẽ ngoặt một cái là có thể leo lên long sàng luôn vậy.
Cửa nhà đóng lại, ánh sáng chiếu ra từ bên trong miễn cưỡng soi sáng được nửa khoảng sân. Đằng trước là chiếc xe mười sáu chỗ ngã chỏng chơ, còn có Chu Vạn Đông thỉnh thoảng co giật. Bên cạnh là chuồng dê, lũ dê không biết đã đi đằng nào, nhưng mùi thì vẫn còn nồng nặc.
Nhan Phúc Thụy hết nhìn đông lại nhìn tây, dặn Tần Phóng: “Cậu chờ chút! ”
Ông chạy đến sau thùng xe, ôm chồng sách mang đến cho Tần Phóng làm ghế ngồi, lại đến chỗ buồng lái lục lọi một hồi, lấy được cây kìm, khăn và cốc nước. Trước tiên ông kẹp gãy dây kẽm trói tay Tần Phóng, cúi đầu nhìn thấy cổ tay anh đã máu thịt nhầy nhụa thì tức giận mắng to: “Làm như vậy có phải là người không thế! ”
Sau khi nghiến răng nghiến lợi mắng một lúc, bỗng nhớ ra kẻ gâychuyện đang nằm bẹp ở gần đấy, ông hùng hổ đi qua định đạp gã, trút giận cho Tần Phóng. Nhưng chân vừa nhấc lên đã nghe thấy Chu Vạn Đông rên rỉ, Nhan Phúc Thụy hoảng hốt lại chạy về.
Ra vẻ hùng hổ rồi lại nhát gan quay về, Tần Phóng cảm thấy hơi buồn cười, Nhan Phúc Thụy ngượng ngùng: “Đó là người mà, không giống Xích Tán là yêu quái… Tôi không thể xuống chân…”
Cởi dây trói tay chân cho Tần Phóng xong, thấy tay Tần Phóng bị thương không tiện, ông lại cầm khăn lông thấm nước lau mặt cho anh. Lau một hồi lòng lại sôi trào căm hận: “Tại sao gã lại đánh cậu chứ? Liệu có còn nhân quyền hay không? Lúc ấy tôi không có mặt, chứ nếu tôi mà ở đó nhất định sẽ đánh chết gã!”
Biết rõ ông chỉ nói cho hả giận, nhưng Tần Phóng lại thấy lòng ấm áp. Nhan Phúc Thụy và Tư Đằng với anh chỉ là bèo nước gặp nhau, ban đầu gặp gỡ rất lạnh nhạt, ngay cả chút cảm tình cũng không có, nhưng hiện tại lại cảm thấy vô cùng thân thiết.
Có một từ rất đúng để hình dung việc này, đó là “Người mình”.
Lau chùi sạch sẽ xong không có chỗ nào để đi, cái gọi là ‘nói chuyện một chút’ của Tư Đằng và Giả Quế Chi thấy mãi không xong. Nín thở lắng nghe cũng không thấy động tĩnh gì. Không biết là do vách nhà cách âm tốt hay là bên trong vốn im lặng, thật khiến người ta lo lắng bất an.
Qua một lát Nhan Phúc Thụy buồn chán ngẩng đầu nhìn trời: “Tần Phóng, cậu nhìn chòm sao kia đi. Cậu nói xem đó có phải là bảy ngôi sao Bắc Đẩu không? Chỗ giống cái thìa đấy!”
Tần Phóng bực mình: “Hai người đàn ông với nhau mà ngắm sao cái gì!”
Đúng là vô tình, không phải là do thấy cậu bị đánh đáng thương nên tôi mới tốt bụng lôi kéo cậu nói chuyện giải buồn sao, lại còn chê này chê nọ nữa.
Nhan Phúc Thụy không buồn để ý đến anh nữa, nhưng đêm hôm khuya khoắt không ai nói chuyện cũng rất dễ buồn ngủ. Ông không chống đỡ được bao lâu đã bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài, qua một lúc đầu đã nghiêng nghiêng rồi tựa vào vai Tần Phóng.
Tần Phóng chán ghét hất bả vai, đẩy đầu ông ra.
Cứ tuần hoàn như thế, buồn ngủ, tựa vào vai, bị đẩy ra, tỉnh dậy lại ngáp, tiếp tục buồn ngủ, tựa vai, lại bị đẩy ra… Tần Phóng thầm định nhích ra xa một chút, nhưng nghĩ sao lại vẫn thôi. Nếu Nhan Phúc Thụy bị ngã cắm đầu xuống đất thì sẽ không hay, dù sao… cũng là người mình mà.
Cũng không biết bao lâu trôi qua, chính bản thân anh cũng bắt đầu thấy buồn ngủ, mí mắt dần khép lại, đến khi… cánh cửa cót két vang lên.
Tần Phóng giật mình, ngay lập tức tỉnh táo hẳn, ngẩng đầu lên. Trời đã tờ mờ sáng tự lúc nào, sương sớm đìu hiu lạnh lẽo thấm vào da thịt, định cựa quậy nhấc chân mới phát hiện hai chân đã tê cóng rồi.
Giả Quế Chi đứng ở cửa, trông e dè sợ sệt hơn cả lúc trước: “Tần Phóng, tiểu thư Bạch Anh bảo cậu vào.”
Bạch Anh? Sao Giả Quế Chi vẫn gọi Tư Đằng là Bạch Anh nhỉ?
***
Trong nhà, ngọn đèn dầu trên cao đã tắt, lửa ở dây mây cũng nhỏ đi nhiều, tro bụi rơi rớt trên mặt đất. Sắc trời ửng chiếu vào nhà càng làm lộ vẻ tĩnh mịch hơn.
Tư Đằng đứng quay lưng về phía anh, đang ngẩng đầu nhìn một bức tranh trên tường. Bức tranh này lúc trước không hề có, bốn góc đều có dây mây đính vào tường, chắc do Tư Đằng mới treo lên.
Cô gái trong tranh không phải là Tư Đằng sao? Sườn xám, mũi giày cao gót đính trân châu, như cười như không, đôi môi dẩu lên, hữu tình lại vô tình. Không, không, không, tướng mạo giống cô nhưng chưa bao giờ anh thấy được biểu cảm này trên gương mặt Tư Đằng cả. Huống chi búi tóc của người phụ nữ trong tranh kia là kiểu đã có chồng.
Trong chớp mắt, Tần Phóng chợt thốt lên: “Bạch Anh?”
Tư Đằng quay đầu lại nhìn anh: “Cậu cũng biết Bạch Anh à?”
Biết chứ! Những thứ mà ông anh để lại nào là hình ảnh, nhật ký đều có người phụ nữ này. Tần Phóng bỗng có một dự cảm xấu: “Dáng vẻ của người tên Bạch Anh biết ông tôi trông giống hệt như cô sao? Cô ta đã gả cho Thiệu Diễm Khoan làm bà hai à? Cô ta là gì của cô? Chị em song sinh hả?”
Tư Đằng cười khanh khách: “Chị em song sinh? Xưa nay tôi chưa từng có chị em song sinh nào cả. Có nhớ tôi từng nói với cậu tôi là bán yêu không?”
Nhớ chứ! Tần Phóng nhớ Tư Đằng từng đề cập đến từ bán yêu hai lần. Một lần là ở đáy vực Nang Khiêm, một lần là ở khách sạn Kim Mã. Lúc cô nói giọng vô cùng yếu ớt, Tần Phóng vẫn cho rằng ý của từ bán yêu lúc đó là nói yêu lực của cô bị tổn hao đến mức chỉ còn lại phân nửa. Anh từng tìm trên mạng, ở đó nói từ bán yêu là chỉ con lai giữa yêu quái và con người, nhân vật tiêu biểu chính là: Khuyển Dạ Xoa – Inu Yasha. Dĩ nhiên đây chỉ là trong phim hoạt hình mà thôi.
Sao bây giờ cô lại nhắc đến chuyện bán yêu này? Trong đầu Tần Phóng nảy sinh một ý niệm, giống như một tia lửa, sáng lên lập lòe hồi lâu, rồi vẽ nên một đường liền mạch…
Tư Đằng lại hỏi anh: “Vậy còn nhớ bộ phim tôi đã xem ở sân bay lần đó không?”
Nhớ, trước khi cô nói ra anh cũng vừa nghĩ đến việc này. Cô rất tò mò về cái gọi là “mười nhân cách” trong phim, liền tìm hiểu cặn kẽ. Tần Phóng nhớ khi đó anh thấy vô cùng khó chịu nói đốp lại: “Yêu quái bọn cô cũng có phân liệt nhân cách sao?”
Khi ấy cô nói thế nào? Cô nói: “Rất ít, rất hiếm thấy… nhưng sẽ có. Tuy nhiên, cũng là hai nhân cách… không phải là hai ‘yêu’ cách.”
Sắc mặt Tần Phóng dần thay đổi.
Tư Đằng cười lên: “Lúc ấy, tôi nói chưa hết, có một điểm rất quan trọng tôi không nói cho cậu biết, loài người bọn cậu có hai nhân cách cũng được, hai mươi nhân cách cũng thế, nhưng thân thể chỉ có một. Động vật bị đứt một chân chỉ có thể chịu cảnh què quặt, nhưng tôi không giống, mây của bọn tôi gãy cành có thể mọc lại, khi đó tôi đã phân thể.”
Yết hầu của Tần Phóng trượt lên xuống, bàn tay đặt bên chân bất giác run rẩy, rõ ràng định nói gì đó nhưng đầu óc lại trống rỗng. Lời nói kế tiếp của Tư Đằng tuy nghe du dương rõ ràng nhưng tựa hồ lại xa xăm.
“Tôi và Bạch Anh, không ai là Tư Đằng chân chính cả. Chúng tôi chỉ là… một nửa của yêu quái Tư Đằng kia thôi.”
***
Có lẽ trong mỗi con người đều có một bản thể mâu thuẫn với chính mình, ở hướng đông lại muốn hướng tây, cầm lên lại muốn đặt xuống, trái ôm lại muốn phải bồng. Nhưng bởi vì không làm được vì vậy thế gian xưa nay mới không có cách nào vẹn toàn, để vừa không phụ Như Lai lại không phụ nàng; con người vì thế phải khắc chế, phải thu lại dục vọng, nhưng nội tâm dằn vặt, mỗi bước đều khó khăn.
Về điểm này, có lẽ yêu quái thật sự đỡ hơn. Lúc đối chọi gay gắt đến cùng, không thể chọn lựa, thì cứ đơn giản lỗ mãng, ngang nhiên mà… phân thể.
Năm 1910 biến thành tinh, nghe theo lệnh Khưu Sơn hai mươi năm, đến thuở u mê được Thiệu Diễm Khoan dạy cô biết chữ, rồi đến quãng thời gian trốn chui trốn nhủi tìm đọc sách cổ, cho đến sau này gặp lại ở sàn nhảy Bách Lạc Môn, lúc tỉnh lúc mê như mộng như ảo, sự đấu tranh trong nội tâm chưa hề dừng lại. Kiểu dằn vặt này đến cực hạn khi Thiệu Diễm Khoan cầu hôn cô tại rạp hát.
Khi đó cô đang ở căn phòng thượng hạng trên đường Hà Phi khu người Pháp, nhớ mang máng chuyện xảy ra là lúc cô đang nhìn vào gương tháo trang sức.
Bàn trang điểm kiểu Tây khắc hoa phức tạp, đường nét uốn lượn trang nhã như của những quý cô trong dinh thự Châu Âu. Cô rút khăn lụa đặt lên môi khẽ lau, rồi tiện tay vứt sang một bên.
Trong lúc vô tình nhìn lại thấy vết son môi kia đột nhiên biến ảo mấp máy. Trên chiếc khăn quái lạ hiện lên tai, mắt và mũi, tiếng thì thầm nho nhỏ như là từ lòng đất, từ trần nhà, từ khe cửa không ngừng vang lên, lải nhải khuyên cô: Gả cho Thiệu Diễm Khoan, không cần tiếp tục làm yêu quái, yêu quái chẳng có gì tốt, bị đạo môn đuổi giết, bị mọi người căm ghét, sống mãi nghìn năm vạn năm chi bằng tận hưởng lạc thú hồng trần trước mắt. Châm ngôn đều nói, chỉ mong làm uyên ương không làm tiên…
Đột nhiên ngẩng đầu, lại thấy trong gương có một khuôn mặt phẫn nộ khác của mình: Yêu quái thì cứ là yêu quái đi, xưa Bạch Tố Trinh như thế nào, đạo hạnh nghìn năm cũng chỉ vì tham vui nhất thời mà mãi mãi bị nhốt trong tháp Lôi Phong. Người và yêu vốn trời đã định phải khác đường, yêu quái mãi nên là yêu quái, bày đặt yêu đương làm gì? Hơn nữa, con người Thiệu Diễm Khoan đến tột cùng như thế nào, lần đó khi hiện hình cô còn chưa rõ hay sao? Chỉ vài câu ngon ngọt đã khiến cô mê mẩn tâm hồn, đầu óc hồ đồ rồi à?
Đầu óc như ầm ầm rung chuyển, tưởng sẽ nổ tung ngay tức khắc. Trong phút luống cuống, cô cầm chiếc khăn kia cố xé toạc nó ra, nhưng không thể xé được, cô liền ném cốc nước vào mặt kính…
Vào thời điểm đó, trước mắt cô đột nhiên tối sầm. Chỉ trong chốc lát, cánh tay cô khẽ run, vội vịn vào bàn trang điểm, thở hổn hển kịch liệt, cô bỗng phát giác ra… có gì đó không đúng. Ở ngay bên cạnh cô còn có tiếng thở của một người khác nữa.
Phát hiện bất ngờ này khiến tim cô đập như trống trận, sửng sốt hồi lâu mới chậm rãi quay đầu lại nhìn. Cùng lúc đó, cô gái bên cạnh cũng chầm chậm quay mặt lại.
Cách ăn mặc, trang điểm, búi tóc, thậm chí làn môi đương bong tróc vì lau son đi đều giống nhau như đúc. Trong hai đôi mắt giống nhau in bóng hai gương mặt đồng dạng.
Thì ra sau này cô gái đó đã sửa tên lại là Bạch Anh.