Trước khi đến dự, chúng tôi đều không biết tính chất của cuộc họp chỉ thị lần đó, bây giờ nghĩ lại thì thấy nó giống buổi học bồi dưỡng hơn.
Đó cũng là lần đầu tiên tôi gặp anh Điền dưới “lòng đất”.
Tôi và Vương Tứ Xuyên đều rất ngạc nhiên, không ngờ cả anh ấy cũng bị kéo vào chuyện này. Chúng tôi và anh Điền không quen nhau lắm, chỉ gặp vài lần trong trường Đảng hệ đại học.
Trong lều treo một tấm bảng đen, anh Điền đeo cặp kính mắt dày mang tính thương hiệu, ngồi phía trước sắp xếp tài liệu. Lúc tôi gặp anh ấy ở lớp dự bị Đảng, trông anh ấy cũng y chang như thế. Trong ấn tượng của tôi thì anh ấy chỉ hơn tôi bảy, tám tuổi, nhưng nhìn anh ấy như người thuộc thế hệ trước, nghe nói tổ chức giới thiệu cho anh ấy một cô vợ, nhưng có vẻ hôn nhân không khiến anh ấy thay đổi nên hôm nay nhìn anh ấy vẫn chẳng khá hơn trước chút nào.
Thời đó luôn sản sinh ra những con người khác thường như thế, hồi tưởng lại những năm tháng ấy, tôi thấy mình đúng là thuộc tuýp người sống khá tỉnh táo.
Sau khi lớp học đã đông đủ, chúng tôi đều rút cuốn sổ ghi chép bìa xi măng được phát từ trước ra, rồi cầm bút bi cán vàng chuẩn bị ghi chép. Thời ấy, những loại văn phòng phẩm này rất quý hiếm, chỉ dùng để phát thưởng, bởi vậy chúng tôi đều bắt đầu ghi chép từ tận đầu trang để viết được nhiều chữ hơn một chút.
Anh Điền rất giỏi ứng phó tình huống kiểu này, anh đứng dậy điểm danh, rồi bắt đầu giảng bài cho chúng tôi. Anh Điền vẽ một đường hình bậc thang trên bảng đen và nói hôm nay sẽ phổ cập cho chúng tôi một số thông tin về tình hình vực sâu ở đây.
Vương Tứ Xuyên liên tục ngáp như người nghiện, giọng miền bắc của anh Điền đôi lúc rất khó hiểu, nhưng tôi vẫn chăm chú lắng nghe vì tôi vô cùng có hứng thú với miệng vực sâu hun hút này.
Bài giảng của anh Điền chia ra làm mấy giai đoạn, nói thực, anh ấy thích hợp đi giảng địa chất học hơn. Ở một lớp bao gồm các phần tử tri thức hỗn hợp, mỗi mảng biết một ít như chúng tôi thì cần một giảng viên biết cách dựa vào tiết tấu để tạo ra không khí học tập, anh Điền quả thật không hợp với vai trò này.
Anh ấy nói cho chúng tôi biết, trong thời gian vừa rồi, thông qua một vài phương pháp họ đã tiến hành đo đạc độ sâu của vực, phát hiện phần đáy vực có kết cấu hình bậc thang.
Cách đập nước từ năm trăm đến một ngàn mét, thì độ sâu lớn nhất của con vực là chín mươi mét, nếu ngoài một ngàn mét thì độ sâu lớn nhất của nó là khoảng hai trăm ba mươi mét.
Hình dáng của nó hao hao giống một cầu thang, khu vực trong sương mù ở độ sâu chín mươi mét phía dưới con đập chính là “bậc thang” thứ nhất, độ dài của “bậc thang” một này là năm trăm đến một ngàn mét. Phương pháp đo đạc mà họ sử dụng là phương pháp trắc địa parabol, đây là phương pháp sử dụng pháo truy kích bắn xuống các góc khác nhau, sau đó đo tầm bắn đại khái của đạn pháo và thời gian nghe thấy tiếng nổ – cũng chính là thời gian tiếp đất – để tính ra độ sâu ước chừng của vực đá.
Chín mươi mét không phải khoảng cách sâu lắm, với kĩ thuật dò quặng hiện nay thì thậm chí chỉ cần dùng dây thừng là có thể xuống được tới nơi. Họ cảm thấy, tín hiệu điện báo có lẽ phát ra từ dưới lòng đất. Có lẽ quân Nhật đã đặt thiết bị ở đó, còn nhiệm vụ mới của chúng tôi là xuống “bậc thang” thứ nhất để thăm dò sơ bộ. Ngoài nhiệm vụ này ra còn phải ra rìa của “bậc thang” để thăm dò thông tin chính xác của “bậc thang” thứ hai và xem có tồn tại khả năng xuất hiện đường nứt thứ ba hay không. Từ đó, lãnh đạo mới cân nhắc được chuyện đưa lính công binh xuống.
Anh Điền đưa ra suy đoán, giả sử hang động này vốn là huyệt động nguyên thủy, thời kì đầu, có lẽ nó không rộng như bây giờ và nằm chìm trong địa tầng giống như một bóng khí lớn.
Hiện tượng sụt lở xung quanh bóng khí dường như khiến bóng khí bắt đầu phình to và ăn ruỗng vách đá xung quanh. Chẳng bao lâu sau, mức độ sụp lún ở bốn phía diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn. Đầu tiên các lỗ khí xuất hiện do sụt lở sẽ to lên một cách nhanh chóng, rồi nó to mãi cho đến khi đạt đến mức độ ổn định thì mới dừng lại.
Sau đó, những huyệt động mới hình thành xung quanh hang động nguyên thủy lại bắt đầu tiếp tục ăn ruỗng các vách đá xung quanh và bành trướng một vòng mới, chu trình ấy không ngừng lặp đi lặp lại rồi dần dần hình thành nên một khoảng hư không khổng lồ như bây giờ.
Những giả thuyết này có thể giải thích sơ bộ về nguyên nhân xuất hiện địa mạo hình bậc thang của vực sâu.
Căn cứ vào giả thuyết ấy có thể phán đoán thời điểm sự vận động ăn mòn đã tiến hành đến quy mô cỡ nào, trung tâm hang động bị sụp đổ khiến cả khoang rỗng khổng lồ sụp thành vô số hang động nhỏ dưới đất, nhưng chỉ cần cơ chế ăn mòn đá vôi vẫn còn tồn tại thì chẳng bao lâu nữa – thời gian chẳng bao lâu này được tính theo niên biểu địa chất – những khoang rỗng này sẽ còn tiếp tục ăn mòn bốn vách đá xung quanh và dần dần lại bắt đầu hòa nhập thành một thể.
Không những vậy, hiện giờ tổ chức cũng đã có kết quả phân tích về sương khí dưới vực sâu. Anh Điền nói trong sương khí chứa hàm lượng hơi thủy ngân rất cao, có lẽ đá vôi ở đây là loại đá quặng chứa nhiều thủy ngân, sau khi dòng sông ngầm chảy vào vực sâu, thì dòng khí lưu sẽ khiến sương thủy ngân ở dưới lòng đất bốc hơi ngược lên trên và vô tình hình thành nên một loại vũ khí giết người vô cùng nguy hiểm.
Hơi thủy ngân là một loại chất kịch độc, sau khi nhiễm độc sẽ lập tức cảm thấy các triệu chứng như: đầu óc quay cuồng, buồn nôn, mất trí nhớ, rối loạn thần kinh, trường hợp nghiêm trọng có thể tử vong. Các công trình được quân Nhật xây dựng vào thời kì đầu ở đây đều sử dụng lượng lớn đá chứa hàm lượng thủy ngân rất cao làm vật liệu xây dựng, những loại đá này được trộn lẫn với xi măng để tạo thành bê tông, bởi vậy hàm lượng thủy ngân trong cả con đập cao ngoài sức tưởng tượng.
Sau khi đá quặng chứa thủy ngân bị đèn pha chiếu vào, nó sẽ tỏa ra một lượng lớn hơi thủy ngân, lũ lính Nhật mà chúng tôi phát hiện trong khu vực khí độc đều tử vong vì nguyên nhân nhiễm độc thủy ngân, sau đó họ áp dụng phương pháp che các khe hở trên tường bằng các tấm sắt và kéo dài các đường dây trực giao để mắc thêm đèn, nhưng vì khu nhà ở bị nhiễm độc thủy ngân quá nghiêm trọng, nên cuối cùng họ đã niêm phong luôn khu này.
Lời đồn ma xuất hiện trong bóng chính là do hơi thủy ngân bốc lên làm ánh sáng bị gấp khúc, thể khí không màu không mùi này lan tỏa lên không trung và gây nhiễu loạn bóng sáng.
Vì sông ngầm nơi đây nằm trong khu vực địa nhiệt phong phú, nó hàm chứa một loại vật chất khoáng vật lưu huỳnh, mà lưu huỳnh có thể trung hòa thủy ngân, bởi vậy nó có thể dịu bớt tình hình ô nhiễm kim loại nặng ở một mức độ nào đó.
Nghe xong, tôi vẫn thấy lơ mơ chưa hiểu rõ, thám trắc địa chất và hóa học có mối quan hệ rất sâu sắc với nhau nhưng đáng tiếc là mối quan hệ ấy không được kế truyền đến tôi. Vào những năm ấy, những thành viên thám trắc địa chất như chúng tôi chỉ có mỗi than và dầu hỏa trong đầu, cùng lắm là nhét thêm được khoáng sắt và khoáng đồng, chứ chúng tôi thực sự chưa bao giờ chú ý đến các nguyên tố như thủy ngân.
Có đồng chí nghe vậy liền hỏi: “Nếu hàm chứa lưu huỳnh thì chẳng phải môi trường sông ngầm mang tính axit rất cao sao? Không biết nó có gây hại cho cơ thể người không?”
Anh Điền lắc đầu: “Các suối nước nóng thông thường đều là loại nước hàm chứa lưu huỳnh, loại nước này có thể dùng để dưỡng thương, trị các bệnh ngoài da và nhiễm độc, chỉ cần ta không uống trong thời gian dài, thì việc sử dụng một, hai tháng hoàn toàn không gây nguy hại gì cho cơ thể; chỉ có điều vì hàm lượng lưu huỳnh trong nước sông khá cao nên nhiều công trình kiến trúc ở đây bị ăn mòn rất nghiêm trọng, nhiều nơi còn xảy ra tình trạng sụp đổ, sụt lún.”
Anh Điền nói: “Mực nước ở đây chỉ lên cao vào mùa mưa, còn bình thường mực nước khá thấp, nhưng dẫu vậy thì môi trường ẩm ướt và mang tính axit vẫn khiến các công trình quân sự hóa kiên cố bị ăn ruỗng dần và hỏng hẳn, may mà chúng ta kịp thời phát hiện sớm, chỉ thêm mười năm nữa thôi thì cả cơ sở hạ tầng của con đập không khéo đều bị sụp đổ hết rồi.” Nói đến đây, anh Điền đưa mắt nhìn bốn phía, phát hiện bọn Nhật đã quét sơn chống axit ăn mòn ở nhiều nơi, bằng không thì tình trạng bào mòn diễn ra còn nghiêm trọng hơn.
Tôi nghĩ anh Điền quả là uyên bác, ngay cả chuyện này mà anh cũng biết, tôi hồi tưởng lại chặng đường đã qua, thì thấy đúng là phần lớn cửa sắt và lưới thép đều bị han gỉ khá nghiêm trọng, ban đầu tôi cho rằng đó là vì thời gian trôi qua đã lâu, chẳng ngờ lại còn có nguyên nhân khác nữa.
Anh Điền nói xong, chúng tôi đều vỗ tay cho phải phép, lòng nghĩ thầm cuối cùng cũng thoát, nhưng thấy anh ấy chỉ ra ngoài dặn dò vài lời, rồi một nhóm sĩ quan khác đi tới, khênh màn chiếu vào trong.
Cùng lúc ấy, tôi còn nhìn thấy một chiếc máy chiếu.
Viên sĩ quan nói vài câu, tôi hơi giật mình khi thấy anh ta ra hiệu cho chúng tôi giơ tay tuyên thệ.
Lúc này, tôi đã biết đích xác, phỏng đoán của mình là hoàn toàn đúng, chuyện này vẫn chưa kết thúc.
Sau đó, viên sĩ quan cho chúng tôi xem cuộn phim, nội dung của cuộn phim chính là nội dung mà chúng tôi từng xem trong phòng chiếu nằm trong con đập.
Lúc ấy, trạng thái tâm lý của tôi rất kì quái, có cảm giác như thể xem là chết, nên chỉ muốn đứng dậy bỏ ra ngoài, bởi hễ biết thông tin này có nghĩa là bạn đã trở thành thành viên trong chuyến hành động sắp sửa tiến hành dưới lòng đất mà không có quyền rút lui.
Nhưng cuộc họp chỉ thị lần này mang tính cưỡng chế, tôi không thể tự tiện bỏ ra ngoài được, dẫu nhắm mắt lại cũng chẳng tác dụng gì.
Máy chiếu phim hôm nay có chất lượng tốt hơn lần trước tôi xem nhiều lần, các cảnh quay cũng tương đối rõ ràng và ổn định, nhưng dẫu vậy tôi cũng không nhận ra thêm thông tin gì khác. Trong quá trình chiếu phim, tôi và Vương Tứ Xuyên đưa mắt nhìn nhau, mặt cậu ấy cũng tái như gà cắt tiết. Lúc này, tôi đã ý thức được vì sao lúc làm báo cáo, họ lại hoàn toàn không hề để tâm đến việc tôi và Vương Tứ Xuyên từng xem nội dung cuốn phim này hay chưa, bởi vì bản thân họ đã quyết định sẽ cho chúng tôi xem cuộn băng, thế nên hoàn toàn không cần thiết phải truy hỏi.
Tôi phấp phỏng đợi cuốn phim chiếu hết, mặt những người chưa được xem phim đều biến sắc chẳng khác gì lúc chúng tôi mới xem lần đầu, sau đó viên sĩ quan bắt đầu giảng giải về kế hoạch kế tiếp.
Đầu tiên, anh ta nói đến những suy đoán của cấp trên về nơi này, cấp trên đã cho kiểm tra phía trong con đập, ngoại trừ số đạn pháo trong xưởng để máy cẩu ra thì mọi nơi khác trong hầm băng đều là đạn đúc thủy ngân. Đạn đúc thủy ngân là loại đầu đạn đặc chủng vô cùng đáng sợ, sau khi loại đạn này phát nổ sẽ hình thành những đám mây hơi thủy tinh dày đặc, nó nặng hơn không khí sáu lần, có thể dồn tụ trong một khu vực nào đó, khiến mọi sinh vật thuộc khu vực đó nhanh chóng tử vong, không những vậy nó còn để lại tình trạng ô nhiễm kim loại nặng vô cùng nghiêm trọng, vĩnh viễn không thể trồng trọt hoặc chăn nuôi bất cứ thứ gì.
Đạn đúc thủy ngân thường được sử dụng trên các chiến trường tấn công và phòng thủ trọng yếu, có lẽ quân Nhật dự định sẽ dùng số đạn này trong chiến tranh cò cưa kéo dài ở biên giới Trung – Xô, chẳng ngờ bộ đội cơ giới hóa của Liên Xô kéo đến quá nhanh khiến chúng không kịp trở tay.
Họ còn phát hiện xưởng chiết xuất thủy ngân ở phía trong con đập, từ đó cấp cao phán đoán ban đầu bọn Nhật định khai thác quặng thủy ngân ở đây, sau này mới thấy hứng thú với vực đá sâu hun hút nằm cạnh đó.
Loạt công trình kiến trúc đầu tiên được xây dựng ở đây là những bệ đỡ đơn giản được gá bằng các tấm lưới thép bắc trên lòng chảo sông, sau đó là quần thể công trình kiến trúc bằng xi măng xây dọc theo hai bên bờ sông, cuối cùng là hệ thống đường sân bay giúp máy bay cất cánh được xây ở đập và phía sau đập.
Toàn bộ giấy tờ tài liệu giao nộp về đều đã được dịch sang tiếng Trung, đương nhiên họ không cần thiết phải nói cho chúng tôi tất cả những nội dung bí mật đó, mà chỉ tiết lộ cho chúng tôi về bức điện được phát trở về trạm từ dưới vực sâu, ý nghĩa của bức điện sau khi giải mã là: “Đã đến nơi an toàn.”
Ban đầu, cấp trên cho rằng có lẽ quân Nhật đã xuống được tới nơi, nhưng sau đó anh Điền sử dụng pháo truy kích để đo độ sâu thì phát hiện phía dưới con đập là một mặt bằng sâu chín mươi mét, có lẽ tín hiệu kia được phát về từ chỗ mặt bằng đó, phía dưới chắc chắn còn tồn tại các công trình kiến trúc của quân Nhật. Chính vì vậy, cấp trên quyết định tổ chức một đội tiếp tục xuống dưới vực sâu hơn để thăm dò.
Tất cả những người có mặt trong buổi họp chỉ thị hôm nay chính là những thành viên được chọn vào đội ngũ đó.
Nghe xong, tôi và Vương Tứ Xuyên đều tái mét mặt, lòng ngàn vạn lần không muốn đi.
Chỉ ở trên vực sâu đầu tiên mà chúng tôi đã thập tử nhất sinh, phía dưới đó sương khí giăng mù mịt, ngay cả người Nhật nổi tiếng với những hành vi quái đản mà còn không giải thích nổi thì có trời mới biết sau khi xuống dưới ấy sẽ xảy ra chuyện gì. Tôi thực sự không muốn lại bị rơi vào cảnh ngộ đó lần nữa.
Có điều tôi biết dẫu có phản đối cũng vô dụng, chúng tôi là nhóm người phù hợp nhất, nói cách khác, đây là nhiệm vụ mà chỉ chúng tôi mới có thể gánh vác nổi, trước đó lãnh đạo còn cho chúng tôi xem cả tài liệu mật, chứng tỏ họ chắc chắn không bao giờ đồng ý nếu ai đó có ý định rút lui, bây giờ chúng tôi chẳng còn đường nào để lui bước nữa cả.
Tôi đang thầm nghĩ xem có cách gì thoái thác được không thì một giọng nói khác trong đầu chợt vang lên, giả sử tôi may mắn hoàn thành nhiệm vụ thì có lẽ con đường tương lai sau này chắc chắn sẽ thuận lợi hơn nhiều, dựa vào lý lịch này thì khi trở về có lẽ sẽ được làm tiểu đoàn trưởng, như thế sẽ không cần phơi gió phơi sương nữa.
Nếu sự việc phát triển đúng theo hướng tôi nghĩ thì có lẽ sẽ có được kết quả ấy thật, nhưng chẳng ai ngờ đại cách mạng văn hóa lại nổ ra, cuộc đời con người bỗng chốc trở nên chẳng biết đâu mà lần, song đó là chuyện sau này.
Về sau, cuộc họp chỉ thị phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, tôi và Vương Tứ Xuyên tất nhiên là thành viên bắt buộc, tôi là đội trưởng, còn Vương Tứ Xuyên là đội phó, anh Điền là chuyên gia hỗ trợ, ngoài ra còn dẫn thêm ba cậu lính công binh nữa.
Xem ra họ đều là những thanh niên tuổi đời độ mười chín đôi mươi, tôi lại nhớ đến Mã Tại Hải, tuy sau đó cậu ta cũng được truy phong liệt sĩ và thăng chức tiểu đội trưởng, nhưng tất cả đều quá muộn. Giá như trước khi ra đi, cậu ấy có thể cảm nhận chút vinh dự này thì tốt biết mấy, đáng tiếc giờ đây vinh dự có lớn lao hơn nữa thì cậu ấy cũng chẳng thể nào biết được.
Tôi khá hài lòng với cách phân công của lãnh đạo, chỉ hơi lờ mờ nhận thấy anh Điền sẽ là một rắc rối cho chúng tôi. Đội ngũ phần tử trí thức vẫn là thành phần khó dẫn dắt nhất, nhưng anh ấy lại là thành viên bắt buộc phải tham gia, chúng tôi cần anh ấy đưa ra những tính toán chuẩn xác hơn cho mọi hành động lần này, anh ấy bắt buộc phải tự tay lấy đá mẫu và quan sát chi tiết; mặt khác, anh Điền cũng không muốn bỏ lỡ cơ hội, anh ấy biết rất rõ vì sao mình có vị trí như ngày hôm nay.
Tôi đang nghĩ, đợi khi thực sự xuống dưới đó, anh ấy nhất định sẽ hối hận về quyết định ngày hôm nay của mình.
Sau đó, anh Điền lại giảng giải về một số kiến thức cơ bản, còn tôi thì bắt đầu lơ mơ buồn ngủ, nhưng vì lãnh đạo đang ở đây nên không dám vô kỉ luật, đành cố gắng giương mắt lên chịu trận. Sau khi hội nghị kết thúc lại là màn trao đổi, lúc ra khỏi lều, tôi nhìn đồng hồ thì đã năm giờ chiều.
Tôi nghĩ vẫn chưa đến giờ khu cứu thương đóng cửa, phải tranh thủ thời gian đi xem có cơ hội gặp Viên Hỷ Lạc hay không. Trong vô thức, bước chân đã đưa tôi đến vòng ngoài khu cứu thương, đưa mắt nhìn lều của cô ấy từ đằng xa, tôi phát hiện y tá đang lũ lượt rủ nhau đi ăn cơm.
Tôi nhớ đến lời bà y tá trung tuổi nói mấy hôm trước, thực ra lời bà ấy cũng có lý, một mình tôi đến thăm cô ấy đúng là không được hợp lý lắm, hay là gọi mấy người đi cùng, rồi mang chút quà vào giả bộ như đến thăm bệnh nhân, nghĩ đi nghĩ lại cuối cùng tôi quyết định thôi không vào nữa, trong lòng lại càng thêm hụt hẫng, trống trải.
Đang định bỏ đi thì đột nhiên, tôi nghe thấy có người trong đám y tá gọi í ới câu gì đó.
Ban đầu tôi không nghĩ là gọi mình nên chuẩn bị rảo bước, nhưng phía đó kêu lên “Chờ chút đã!”
Tôi ngẩng đầu lên thì thấy bà y tá trung tuổi nọ vội vã đi về phía mình, vừa đi vừa gọi lớn, mấy cô y tá phía sau cũng tò mò nhìn về phía tôi.
Tôi chẳng hiểu gì nên chỉ đứng yên tại chỗ, nếu người nào hay ngại chưa biết chừng đã co giò bỏ chạy cũng nên, nhưng tính tôi vốn lì nên cứ nghênh mặt đi về phía cổng khu cứu thương, bà y tá trung tuổi cũng vừa đến nơi.
“Sao cậu cứ lảng vảng mãi ở đây thế?” – Bà ấy vẫn giữ vẻ mặt khiến người ta nhìn mà phát ớn.
“Tôi…” – Tôi chỉ về phía sau lều – “Vừa mới họp xong, trong đó khói thuốc nhiều quá nên tôi muốn ra ngoài cho thoáng.”
“Cậu đánh rơi đồ này, may quá gặp cậu ở đây, tôi đỡ mất công đi tìm, cậu cầm lấy đi!” – Nói xong bà ấy móc một vật trong túi ra và đưa cho tôi.
Thoáng nhìn tôi đã phát hiện vật đó chính là bao thuốc tôi ngầm giấu dưới gối của Viên Hỷ Lạc.
Nhất thời tôi không biết nên phản ứng thế nào, nên đành cầm lấy, bà y tá trung tuổi liền quay người bỏ đi.
Nhìn dáng dấp chị cả của bà ấy, tôi ước chừng chắc bà ấy phải làm tới cấp y tá trưởng, có lẽ bà ấy phát hiện thấy bao thuốc này trong lúc dọn dẹp giường cho bệnh nhân, chẳng lẽ Viên Hỷ Lạc vẫn chưa nhìn thấy bao thuốc lá mà tôi cố ý để lại? Hơn nữa, không khéo bà cô già kia nhìn thấy bao thuốc đã nhận ra được mục đích của tôi nên mới tịch thu và mang trả lại cho chủ nhân cũng nên.
Tôi nhìn bóng dáng bà ấy thấp thoáng đằng xa mà lòng bất giác thấy thật buồn, nghĩ mình sao ngốc thế, mấy hôm trước còn tự an ủi mình, nhưng giờ thì tất cả hóa ra chỉ là ôm ảo tưởng.
Thôi vậy, dẫu sao cũng vừa hết thuốc lá, càng đỡ mất tiền mua.
Tôi giở bao thuốc, định rút một điếu ra hút, nhưng bất ngờ phát hiện hình như trọng lượng của bao thuốc hơi khác thường, ngoài thuốc ra, có vẻ trong đó còn chứa thứ khác.
Tôi rút hết thuốc ra thì phát hiện phía dưới là một chiếc đồng hồ nữ tinh xảo, vừa nhìn tôi liền nhận ra đó là đồng hồ đeo tay của Viên Hỷ Lạc. Đồng thời, tôi còn nhìn thấy một mảnh giấy nhỏ, nhờ ánh sáng của đèn khí, tôi nhìn thấy trên mảnh giấy viết mấy chữ: “Em rất muốn gặp anh – Hỷ Lạc.”
Cô ấy viết cho tôi, trong phút chốc tôi kinh ngạc không nói nên lời, lẽ nào thần kinh của cô ấy đã hoàn toàn hồi phục rồi sao? Sau đó, tim tôi đập thình thịch như muốn ngạt thở, thời gian cơ hồ ngừng trôi, tôi ngây người đứng hồi lâu trong gió lạnh. Một cảm giác ngọt ngào không lời cứ thế trào dâng mà chẳng thể kiểm soát nổi, đột nhiên tôi rất muốn gặp cô ấy và ôm cô ấy vào lòng.