Chương 33: Khoang sắt

Khoang sắt

Những lời đội phó nói tràn đầy khí khái anh hùng, giống như những lời diễn viên Trương Chí Kiệt thường nói trên phim, tiếc là tôi còn chưa kịp xúc động thì anh ấy đã rơi xuống, đột ngột đến nỗi khiến tôi trở tay không kịp. Trong sát na, tôi vội vàng thò tay ra định tóm lấy, thế nhưng sự việc xảy ra quá bất ngờ, đến lúc tôi ý thức được, thò tay ra kéo thì đã muộn rồi. Đội phó cứ thế dán người vào vách đập gần như dựng đứng và trượt thẳng xuống.

Tôi giật mình thất sắc, trong lúc hoảng hồn, suýt chút nữa cũng bị rơi theo anh ấy, cũng may là bức tường ngoài con đập vẫn hơi có độ dốc, nên anh ấy bị trượt khoảng hai, ba mét thì túm được một sợi dây từ chiếc thang dây thép, như thế mới không bị rơi tan xác. Nhưng, vì đột ngột chịu xung lực quá lớn, nên dẫu chiếc thang không bị đứt, thì nó cũng bị anh kéo bật ra khỏi bức tường bê tông. Gần như không thể bám được nữa, tay anh cứ thế trượt xuống dưới.

Tôi vội hét lên, bảo anh đừng hoảng, tôi sẽ kéo anh lên. Nói xong, tôi nằm rạp người xuống, ngặt nỗi tay tôi chưa với được một nửa khoảng cách từ chỗ tôi đến chỗ anh, tôi nhoài hơn nửa người ra ngoài thành đập, nếu cứ nhoài mãi thế này thì tôi sẽ bị trượt xuống luôn chứ chẳng chơi, thế mà vẫn còn cách một khoảng khá xa mới túm được tay đội phó.

Cũng may đội phó là lính chuyên nghiệp, nên sức khỏe dẻo dai hơn người, nhìn thấy tôi nhoài người xuống, anh vội vàng dồn hết sức đạp chân vào thành đập, rướn người bật lên và thật may đã túm được vào tay tôi.

Tôi tóm được tay anh liền vội vàng nín thở, lấy hết sức bình sinh kéo lên. Thế nhưng lúc trước đó, tôi đã lượng sai sức mình cũng như xác định sai vị trí đứng, tôi nhoài người xuống quá sâu, ban đầu thì có vẻ ổn, nhưng đến khi sức nặng của cả cơ thể anh ấy tập trung bám vào cánh tay của tôi, thì tôi mới thấy mình không chịu nổi. Vậy là, cả hai người liền bị kéo tuột xuống dưới.

Tôi luống cuống đưa tay tìm chỗ bám víu, nhưng với tư thế lúc ấy cho dù có túm được cái gì thì cũng không thể vận sức giữ lại nổi, và kết cục tất yếu là, chỉ trong một phút choáng váng đó, tôi bị đội phó lôi tuột xuống.

Tôi nhìn đội phó, thấy ánh mắt của anh thật khó tả, còn trong đầu tôi thì hoàn toàn trống rỗng, tất cả diễn ra quá nhanh.

Sau khi rơi xuống, cằm tôi bị cọ sát vào thành bê tông lởm chởm, sau đó tôi lộn nhào mấy vòng liền. Trán tôi cộc phải một thanh thép của thang dây khiến đầu tôi đau điếng.

Ngay lúc nhìn thấy sợi dây, tôi chợt nghĩ phải nắm bằng được lấy nó, nhưng vừa kịp nhìn thấy, thì người tôi đã trượt qua mất. Trong nháy mắt, hai chúng tôi đã trôi tuồn tuột xuống mười mấy mét, cứ thế trượt xuống tận chỗ chiếc đèn chiếu sáng. Trong thoáng chốc, tôi nhìn thấy một ô cửa sổ hình vuông trên sườn đập, ánh sáng trắng chiếu ra từ vuông cửa đó, chói lòa đến mức tôi không mở mắt ra nổi. Thời khắc ngắn ngủi đó diễn ra chưa đến một giây, tôi tiếp tục rơi xuống.

Thượng đế thánh thần phù hộ, đang lúc rơi tự do, tôi bỗng thấy mình khựng lại, bả vai như bị thít chặt, thế rồi tự nhiên dừng lại, dường như tôi bị mắc vào cái gì đó, tôi lắc lắc cái đầu đang trống rỗng của mình ngó lên, chỉ thấy bên ngoài bức tường, cứ một đoạn cách nhau chừng sải tay lại chìa ra một thanh sắt ngắn, chắc là lúc xây dựng người ta muốn đảm bảo an toàn nên các đoạn sắt bị uốn cong thành móc ở đầu đoạn, thật may dây quai chiếc bi đông mà tôi lấy trong phòng máy lúc nãy mắc vào cái móc nên đã giữ tôi ở lại.

Tôi không nhìn thấy đội phó đâu cả, chiếc đèn duy nhất sắp hết pin tôi mang theo cũng bị rơi mất, xung quanh tôi chỉ còn màn đêm tối thui, cũng may lại có ánh đèn chiếu, nếu không thì coi như hết đời ở đây. Không biết đội phó có được may mắn như tôi, cũng mắc lại ở một cái móc nào đó, hay là đang gặp nguy rồi.

Tôi định thần lại, bắt đầu nắm lấy dây quai bi đông để leo lên, những cái móc câu bằng sắt được đóng khá chắc, hai chân tôi run lẩy bẩy trèo về phía ô cửa phát ra ánh sáng, lúc tôi bám tay vào được khung cửa thì đã thấy tay mình không còn chút sức lực, cố gắng thế nào cũng không điều khiển được.

Cảm giác này tôi biết rất rõ, chắc chắn tôi đã bị gãy xương, đang lúc tuyệt vọng, bỗng tôi thấy một cánh tay từ trong khung cửa thò ra, cánh tay đó túm lấy tôi, rồi kéo tuột vào trong.

Tôi ngã vật ra mặt sàn, cảm giác đầu óc choáng váng quay cuồng, tôi không biết làm sao để ngóc đầu lên nhìn rõ người vừa kéo mình, chỉ thấp thoáng thấy một cái bóng thu mình sau ánh đèn, nhìn qua là biết vóc dáng người này gầy gò, thấp bé, chắc chắn không phải Vương Tứ Xuyên.

Lúc trước, tôi cứ đinh ninh rằng người bật đèn chiếu chính là Vương Tứ Xuyên, nên giờ nhìn thấy người này tôi còn ngỡ mình nhìn nhầm. Kẻ đứng trong bóng tối vội bước ra ngoài vùng sáng, tôi thấy người đó đang đeo chiếc mặt nạ chống độc kiểu cũ, anh ta nhìn tôi rồi cúi xuống đỡ lấy người tôi.

Tôi thầm hỏi không biết anh ta là ai? Lẽ nào lại là một tên lính Nhật còn sống sót? Nghĩ vậy, tôi liền tìm cách né tránh. Anh ta gọi tên tôi nhưng âm thanh phát ra từ sau chiếc mặt nạ nghe không rõ lắm, anh ta gọi liền mấy tiếng, nhưng tôi chỉ lắc đầu. Anh ta bất lực gãi gãi đầu rồi đành phải tháo chiếc mặt nạ ra. Tôi vừa nhìn đã há hốc miệng ngạc nhiên: Người này chính là cậu lính được đội phó giao trọng trách ở lại chăm sóc hai người Viên Hỷ Lạc và Trần Lạc Hộ.

Qua giây phút bất ngờ, tôi vui mừng định nhỏm dậy ôm lấy cậu ta, nhưng cánh tay của tôi không còn cảm giác và sức lực nữa. Tôi đành hỏi cậu ta tình hình hai người kia bây giờ thế nào? Nghe hỏi, sắc mặt cậu ta bỗng trở nên căng thẳng, chỉ bảo: “Để tôi đỡ dậy nào!”, nói rồi cậu ta lại đeo chiếc mặt nạ vào, sau đó dìu tôi vào phòng.

Tôi líu ríu bảo đội phó đang ngoài kia, không biết có mắc được lại như tôi hay đã rơi xuống vực rồi. Cậu ta gật đầu bảo đợi lát nữa sẽ đi tìm.

Nói rồi cậu ta đỡ tôi vào phòng, đèn báo khẩn cấp màu đỏ trong phòng chợt lóe sáng nhấp nháy. Đây có lẽ là tầng kĩ thuật của phòng máy, bên dưới nền nhà là một lớp lưới sắt được nối vào lớp bê tông, từ trên tấm lưới nhìn xuống có thể thấy được dòng nước bên dưới đang chảy rất mạnh, và cả những máy móc cũ kĩ, giống như những cuộn lõi sắt và các tấm bê tông được đổ lẫn vào nhau. Những ai chưa từng nhìn thấy trạm thủy điện thì sẽ không thể tưởng tượng được độ lớn của những loại máy này, từng bó dây cáp và đường ống hoen gỉ sắt đi từ dưới lên trên và giao nhau tại đây. Ở điểm tận cùng của căn phòng là bức tường được đúc hoàn toàn bằng sắt, bên trên có cánh cửa thép kín hơi hình tròn.

Đây là loại cửa “ba chống”[1] có tác dụng chống không khí bên ngoài tràn vào, giờ đã bị han gỉ loang lổ hết cả. Cậu lính vặn thanh chốt cửa hình bánh lái, cánh cửa này rõ ràng có hộp khóa trợ lực ở bên trong, cậu ta nhẹ nhàng mở được cửa ra, sau đó đỡ tôi vào bên trong.

[1] Cửa ba chống: là cách gọi dân gian; một loại cửa có ba chức năng: chống trộm, chống cháy, chống lạnh.

Bên trong là hành lang phụ, tôi nhìn thấy trên tường có treo những bộ quần áo bảo hộ kiểu Nhật, sau khi cậu ta đóng cửa, cả căn phòng bỗng thay đổi không khí, cậu ta chạy về phía cuối phòng chờ, ở đó lại có một cánh cửa “ba chống” giống hệt cánh cửa lúc nãy, cậu ta lại thao tác giống khi trước để mở nó ra.

Phía sau cánh cửa là một căn phòng kín mít, không một chỗ hở, bốc lên toàn mùi sắt gỉ, xung quanh chỉ thấy sắt thép, có cả bộ bàn ghế làm việc bằng sắt, đồ đạc trên bàn để vô cùng bừa bãi lộn xộn, bốn bức tường treo đầy bản đồ, vài bức biểu ngữ bằng tiếng Nhật, có hai chiếc đèn báo khẩn cấp đang nháy sáng. Cậu lính để tôi ở lại trong đó, dặn dò đừng đi đâu, rồi vội vã quay ra.

Tôi liếc mắt nhìn quanh và lập tức phát hiện thấy Viên Hỷ Lạc đang cuộn người trong một góc phòng, còn Trần Lạc Hộ đang ngồi trên ghế. Trông thấy tôi, sắc mặt cậu ta bỗng sáng bừng lên, cậu ta vụt đứng dậy. Đôi mắt cậu ta vằn đỏ mạch máu, mấp máy không hiểu đang định nói gì.

Tôi cũng không biết phải nói gì, việc nhìn thấy họ ở đây quả thực quá bất ngờ, dù chúng tôi mới tách nhau ra chưa đầy một ngày, thế nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi này, có quá nhiều sự việc đã phát sinh và mọi thứ cứ thay đổi đến chóng mặt.

Tôi hỏi tại sao hai người bọn họ lại đến được đây,

Trần Lạc Hộ kể lúc nước dâng lên, chính cậu lính kia đã cứu mình và Viên Hỷ Lạc. Họ đã bơm khí vào chiếc xuồng cao su, rồi thả xuống nước và nó cứ thế trôi xuôi dòng, chẳng ngờ nước lũ dâng lên quá nhanh, phía trần đá bên trên dòng sông ngầm thực ra có khá nhiều hang nhánh, chỉ có điều lúc trước chúng tôi đi qua nhưng không phát hiện ra. Lúc nước lũ dâng, họ không tài nào xoay sở được, đành phó mặc để dòng nước xô vào một nhánh hang rồi trôi đến nơi này.

Tôi thầm nghĩ hóa ra là thế. Quả thật, lúc chúng tôi đi dưới đáy sông ngầm đã không chú ý đến cấu tạo phía trên trần hang, chắc chắn sau khi mực nước tiếp tục dâng cao, các hang nhánh đều bị chìm dưới nước và trờ thành vô số khám động ngầm, chẳng trách lúc anh Miêu và các đồng chí khác đi qua, lại không hề phát hiện thấy.

Những chuyện về sau Trần Lạc Hộ không còn nói được trôi chảy nữa, có lẽ tinh thần của cậu ấy đã mệt mỏi, căng thẳng đến cực độ rồi. Đừng nói cậu ta, mà ngay cả đến tôi, nếu không trải qua cảm giác kinh hoàng khi bị rơi xuống thác nước, thì phản ứng của tôi khi đột ngột nhìn thấy chiếc Shinzan không khéo còn tệ hơn cậu ta ấy chứ.

Chúng tôi im lặng hồi lâu, cậu ta lại hỏi tôi về những người khác, có phải cấp trên đã cử người đến cứu viện chúng tôi?

Tôi không biết phải giải thích những gì mình vừa trải qua như thế nào, chỉ đại khái tóm tắt nội dung chính cho cậu ta nghe một lượt. Cậu ta nghe tôi kể đến anh Miêu thì gương mặt bỗng biến sắc, rồi đột nhiên thở hắt ra. Tôi nghĩ đến nếu như đây mới là điểm đến thực sự của chúng tôi,vậy thì bây giờ, cái máy điện báo quỷ tha ma bắt kia đang dẫn người đồng đội của tôi tới nơi nào dưới lòng đất sâu rồi?

Lúc tôi đang nói thì cánh cứa “ba chống” lại bật mở, cậu lính lúc nãy cõng đội phó chạy vội vào, một tay bịt mũi bịt mồm, miệng thở hổn hển nói: “Mau đóng cửa lại!”

Tôi vẫn chưa kịp định thần thì Trần Lạc Hộ vội vã chồm dậy đóng cửa, tôi và cậu ta cùng vặn chốt cửa, cứ vặn mãi tới mười mấy vòng, cho đến khi tôi nghe thấy tiếng “khục” từ bên trong ổ khóa phát ra mới dừng tay.

Từ lỗ thủy tinh trên cửa nhìn ra phòng chờ, tôi thấy cánh cửa kín hơi của phòng chờ vẫn chưa khép lại, một luồng khí màu xám đậm đặc đang chầm chậm nhả dần vào bên trong qua khe cửa.

Đại Mạc Thương Lang

Đại Mạc Thương Lang

Score 7
Status: Completed Author:

Những năm sáu mươi của thế kỉ trước, nhân vật “tôi” cùng các thành viên ưu tú trong ngành thăm dò địa chất của khắp Trung Quốc bất ngờ bị điều vào đại đội công trình địa chất bí mật.

Với tờ mật lệnh trong tay, họ không hề biết đích đến, không hề biết địa điểm cũng như nguyên nhân, họ bắt đầu bước chân vào cánh rừng rậm nguyên sinh ở biên giới Trung Quốc - Mông Cổ, nơi ngay cả những kĩ sư địa chất dày dạn kinh nghiệm nhất cũng chưa từng biết đến.

Cuốn tiểu thuyết là cuộc hành trình quái dị và rùng rợn vào chiếc hộp thời gian nơi đáy vực sâu. Và chiếc máy bay mà họ phát hiện, sau đó dùng để bay xuống vực sâu cũng chính là chiếc máy bay mà mấy chục năm trước quân Nhật đã từng dùng để bay xuống đó… Chiếc máy bay không ngừng lặp đi lặp lại nhiệm vụ đưa những con người tham vọng và tò mò đi gặp tử thần…

Vậy “tôi” có thể tác động được diễn tiến của quá trình và kết thúc tấn bi kịch này không hay anh càng gỡ càng rối, càng sa chân vào mớ bòng bong vô cùng vô tận của thời gian?

Sau bao nỗi lo lắng khi ngồi trong thùng xe tải kín mít đến nơi tập kết, họ được xem “thước phim số 0” tuyệt mật do lãnh đạo trung ương cung cấp. Cảnh tượng diễn ra trên màn hình khiến tất cả các thành viên đều không thể tin vào mắt mình: một chiếc máy bay ném bom hạng nặng của không quân Nhật xuất hiện trong lớp vỏ đá cách mặt đất 1.200 mét!

Đây là một âm mưu hay hiện tượng siêu tự nhiên? Nếu không phải không gian bị bóp méo thì sức mạnh điên rồ nào đã đưa chiếc máy bay xuống nơi đó?! Hay trước khi chiến bại, quân Nhật đã tiến hanh những hành động với mục đích vô cùng đen tối?

Trong thế giới con chữ đầy cạm bẫy nhưng rất mực mê hoặc, mỗi độc giả chạm tay vào tiểu thuyết của Nam Phái Tam Thúc đều sa chân vào những ngờ vực và ẩn số được bố trí khắp tiểu thuyết mà không thể tự thoát ra nổi!

Bộ tiểu thuyết Đại Mạc Thương Lang của tác giả Nam Phái Tham Thúc gồm hai tập là Thám hiểm cực địa và Chuyến bay tuyệt mệnh. Nam Phái Tam Thúc đã miệt mài suốt 3 năm mới hoàn thành bộ tiểu thuyết này. Nội dung của bộ truyện nói về chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm dưới hang động cách mặt đất 1.200 mét của các thành viên đội thám trắc địa chất đầu tiên Trung Quốc từ những năm 60 thuộc thế kỷ 20. Cả câu chuyện được diễn ra trong không gian đóng kín, tối tăm, đầy lo lắng, nghi hoặc, sợ hãi và cả ngộp thở. Đó là cuộc hành trình mà nhân vật chính suốt đời không thể nào quên, từng tầng bí mật nơi lòng đất sâu thẳm được hé lộ khiến người ta ngộp thở, nó thử thách lý trí của độc giả đến cực hạn.

Điều hấp dẫn nhất trong Đại Mạc Thương Lang chính là trí tưởng tượng tiệm cận đến điên cuồng và những cuộc thám hiểm tưởng chừng vô cùng điên rồ của các nhân vật trong tác phẩm, hai yếu tố đó liên tục kích thích hệ thần kinh độc giả, đặc biệt là những độc giả thích tìm hiểu những sự vật mới lạ và thần bí.

Vòng tuần hoàn chết trong bộ tiểu thuyết này khiến tôi liên tưởng đến bộ phim “Tam giác quỷ” (Triangle). Trong đó, chi tiết khiến tôi thấy rùng rợn nhất trong phim là đống thi thể của nữ vật chính được chất đầy trên một góc con tàu, còn trong Đại mạc thương lang là một đống “tôi” sống sót trong “trạm lánh nạn”...

Nam Phái Tam Thúc là cao thủ viết truyện phiêu lưu mạo hiểm. Cảm giác khi đọc Đại mạc thương lang gần giống với cảm giác khi xem phim “Mất tích” (Lost). Cũng chỉ hai tác phẩm này khiến tôi nảy sinh cảm giác như vậy, bởi cả hai đều có trí ý tưởng và tưởng tượng đạt đến độ điên cuồng...

Đọc câu chuyện của Nam Phái Tam Thúc thực sự thấy mất sức hơn tưởng tượng ban đầu. Bởi tư duy logic của tác giả vô cùng đặc biệt, nhìn thì có vẻ rất chặt chẽ và có đầu có cuối, nhưng thực tế lại vô cùng hỗn loạn. Kiểu truyện nhìn thì có vẻ rõ ràng nhưng thực chất lại rối rắm bao giờ cũng kinh dị hơn loại truyện vừa nhìn đã thấy rối rắm. Cũng nhờ thế mà nó trở nên thu hút hơn.

Hơn nữa, Nam Phái Tam Thúc lại sử dụng ngôi thứ nhất để kể truyện, khiến tôi có cảm giác như mình phải mò mẫm tư duy của một bệnh nhân tâm thần...

Tác giả

Nam Phái Tam Thúc

Nam Phái Tam Thúc có tên thật là Từ Lỗi, hiện sống ở Hàng Châu. Anh là người sáng lập ra trường phái tiểu thuyết Nam Phái và được mệnh danh là tiểu thuyết gia viết truyện giàu kịch tính, giàu trí tưởng tượng nhất Trung Quốc.

Nam Phái không chỉ là biệt danh của tác giả mà còn là tên của một trường phái tiểu thuyết đang thịnh hành ở Trung Quốc. Đó là trường phái mở ra một quan niệm hoàn toàn mới: "Hãy để trí tưởng tượng đạt tới cực hạn!", trường phái này sáng tạo nên một mô thức viết truyện theo lối tự do, với mô thức ấy các tác giả có thể thỏa sức viết ra những điều mình khát vọng nhất, viết ra những chuyện kỳ bí, phi thực tế nhất...

Anh đến với văn học mạng một cách tình cờ vào năm 2006 nhưng không ngờ đây lại là một duyên may, bởi nó đưa anh lên ngôi vị “Nhà văn giàu nhất Trung Quốc” vào năm 2011 với số thuế nộp cho nhà nước là 1580 vạn Nhân dân tệ (tương đương 55 tỷ 300 triệu VND). Từ đó trong con mắt của rất nhiều người, tiểu thuyết Trung Quốc chỉ còn tồn tại hai trường phái đó là Nam Phái và phi Nam Phái.

Đại Mạc Thương Lang là tác phẩm của cá nhân Nam Phái Tam Thúc nhưng thuộc quyền sở hữu của Nam Phái tiểu thuyết đường hội. Bộ tiểu thuyết hai tập này được xuất bản vào tháng 3 năm 2010 và trở thành màn chào hỏi thuyết phục nhất của Nam Phái đường hội. Tiểu thuyết của Nam Phái khiến độc giả hiểu thế nào là một tiểu thuyết dũng mãnh và thế nào là một tác giả cá tính!

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset