Chương 59: Nơi đây yên nghỉ Brom

Nơi đây yên nghỉ Brom

Người từng là Kỵ Sỹ Rồng

Và như một người cha

Của tôi.

Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.

Nó mỉm cười đau đớn rằng nó đã nói gần đúng sự thật biết bao. Rồi nó khẽ nói bằng cổ ngữ, quan sát bề mặt kim cương sáng lên, uốn lượn thành một hàng kí tự mới. Khi nó hoàn thiện, hàng chữ đã trở thành:

NƠI ĐÂY YÊN NGHỈ BROM

Người từng là

Kị sĩ của rồng Saphira

Con trai Holcomb và Nelda

Người dấu yêu của Selena

Cha Eragon Khắc tinh của Tà thần

Người sáng lập nên Varden

Và Tai ương của Kẻ Phản Nghịch

Mong tên ông sẽ sống mãi trong vinh quang.

Stydja unin mor’ranr.

Đó là lời tựa ít cá nhân hơn, nhưng Eragon thấy vẫn thích hợp hơn. Rồi nó ếm bùa lên để bảo vệ lớp kim cương khỏi lũ trộm và những kẻ phá hoại.

Nó đứng trước ngôi mộ hồi lâu, lưỡng lự chưa quay đi, cảm thấy như thể nên có gì đó nữa – chuyện gì đó, hoặc cảm xúc hoặc nhận thức nào đó khiến nó có thể dễ dàng từ biệt cha nó và rời đi.

Cuối cùng nó đặt tay lên lớp kim cương mát rượi, ước rằng có thể xuyên qua chạm vào Brom lần cuối. Rồi nó nói, “Cảm ơn vì tất cả những gì cha đã dạy con.”

Saphira khịt mũi, cúi đầu chạm mõm vào ngôi mộ.

Rồi Eragon quay đi, cảm thấy dứt khoát, nó chầm chậm leo lên mình Saphira.

Nó vẫn thấy buồn rười rượi khi Saphira cất cánh bay theo hướng Đông Bắc về Urû’baen. Khi hình bóng ngọn đồi sa thạch mờ dần dưới đường chân trời, nó thở ra một hơi dài ngước nhìn bầu trời xanh thẳm.

Nụ cười hé ra trên gương mặt nó.

Có gì mà buồn cười vậy anh? Saphira nghoe nguẩy đuôi.

Miệng em đang to ra đấy.

Cô nàng rõ là vui sướng. Rồi cô nàng khịt mũi, Em biết nó sẽ như thế mà? Sao lại không chứ? Tuy nhiên, nó cảm thấy bên sườn cô nàng rung lên dưới gót chân khi cô rồng ngâm nga vui sướng, nó vỗ nhẹ rồi áp ngực xuống cổ cô nàng, cảm nhận luồng ấm áp truyền qua nó.

Những công việc không tên (Pieces on the Board)

Trở lại Urû’baen cùng Saphira, Eragon ngạc nhiên thấy Nasuada đã phục hồi cái tên Ilirea, như cách tôn trọng lịch sử và di sản nó mang lại.

Đồng thời nó thấy buồn khi biết Arya đã rời đến Ellesméra cùng Däthedr và rát nhiều tiên nhân khác, mang theo quả trứng rồi màu lục tìm thấy trong tòa thành.

Nasuada chuyển cho nó một bức thư cô viết. Trong đó Arya giải thích cô cần hộ thống thi hài mẹ mình về Du Weldenvarden để chôn cất đàng hoàng. Còn về quả trứng rồng cô viết:

… và bởi Saphira đã chọn cậu, một con người, làm Kỵ Sỹ của nó, sẽ hợp lý nếu một tiên nhân trở thành Kỵ Sỹ tiếp theo, nếu con rồng trong quả trứng đồng ý. Tôi ước điều đó có thể thành hiện thực ngay. Nó đã ở quá lâu trong vỏ rồi. Bởi còn rất nhiều trứng ở nơi khác – tôi không tiện nói tên –hy vọng cậu sẽ không tin rằng tôi đã quá táo bạo hoặc có thành kiến tốt cho giống loài của mình. Tôi đã hỏi ý các Eldunarí chuyện này, họ đồng ý với quyết định của tôi.

Dù sao, khi cả Galbatorix và thân mẫu đã trở thành hư vô, tôi không còn muốn làm đại sứ ở Varden nữa. Thay vào đó, tôi sẽ quay lại nhiệm vụ mang quả trứng rồng khắp vùng đất này như với quả trứng của Saphira. Dĩ nhiên, giữa giống loài chúng ta vẫn cần một đại sứ. Vì vậy, Däthedr và tôi đã cử ra một tiên nhân trẻ thay thế tên Vanir, người cậu đã gặp khi còn ở Ellesméra. Cậu ta cũng bày tỏ niềm ham muốn được học hỏi thêm về giống loài cậu, tôi thấy đó là một lý do tốt để giữ vị trí ấy – ít nhất cho đến khi cậu ta tỏ ra không có năng lực.

Bức thư còn thêm một vài dòng, nhưng Arya không ngụ ý khi nào, hoặc có khi nào, cô sẽ trở lại miền Tây Alagaësia. Eragon mừng cô đã nghĩ đến nó, nhưng nó ước cô có thể chờ họ trở lại rồi mới rời đi. Giờ đây không có cô, nó cảm thấy vô cùng hụt hẫng, dù có dành nhiều thời gian với Roran và Katrina hay Nasuada, cảm giác trống rỗng quặn thắt trong người nó vẫn không lui. Cùng với cảm giác ngày qua ngày, nó thấy mình như bị tách rời ra. Cứ như nó đang quan sát bản thân từ bên ngoài vậy. Nó hiểu nguồn cơn cảm giác ấy, nhưng nó không biết cách nào chữa trị hơn chờ đợi.

Trong một chuyến đi gần đây, nó nhận ra rằng – bằng quyền năng với cổ ngữ có được từ tên của các tên – nó có thể xóa bỏ hẳn tàn dư lời chúc phúc, mà hóa ra lại là lời nguyền rủa của mình. Thế là nó tới chỗ cô bé, lúc này đang sống trong tòa nhà lớn của Nasuada, nói suy nghĩ của nó và hỏi ý kiến cô bé.

Cô bé không mừng rỡ như nó tưởng, mà ngồi nhìn trân trối lên sàn, khuôn mặt nhợt nhạt nhăn lại. Cô bé cứ ngồi như vậy im lặng cả tiếng – còn nó ngồi một bên chờ đợi không phàn nàn gì hết.

Rồi cô bé nhìn nó nói, “Không. Tôi có thể nói mình rất … vui mừng khi anh đã hỏi, nhưng khả năng này đối với tôi rất có ý nghĩa, và tôi không thể từ bỏ nó. Nếu không thể cảm nhận nỗi đau của người khác, tôi sẽ chỉ là một con bé ngốc nghếch lạc loài, chẳng có ích gì ngoài việc thỏa mãn nỗi tò mò hèn kém của những người cho phép tôi ở bên, của những người khoan dung tôi. Với nó, tôi vẫn là kẻ lạc loài, nhưng tôi cũng có ích nữa, và tôi có sức mạnh khiếc kẻ khác sợ và nắm được số phận chính mình, thứ rất nhiều nữ giới không hề có.” Cô bé chỉ lên căn phòng lộng lẫy xunh quanh. “Ở đây tôi sống rất thoải mái – tôi được sống bình yên – và vẫn làm được gì đó tốt đẹp bằng cách giúp đỡ Nasuada. Nếu anh lấy đi khả năng ấy thì tôi còn lại cái gì? Tôi sẽ làm gì? Tôi sẽ là thứ gì? Xóa bỏ bùa chú ấy không phải chuyện tốt đẹp đâu Eragon. Không, tôi sẽ vẫn giữ nguyên, chịu đựng thử thách từ món quà bằng ý chí tự do của mình. Nhưng tôi cảm tạ anh.”

Hai ngày sau khi nó và Saphira hạ cánh xuống Ilirea, Nasuada điều họ ra ngoài, tới Gil’ead rồi Ceunon – hai thành phố các tiên nhân chiếm được – rồi Eragon có thể dùng tên của các tên xóa sạch bùa chú của Galbatorix.

Cả hai đều thấy không vui khi quay lại Gil’ead. Nó gợi họ nhớ lại nơi Urgal đã bắt Eragon theo lệnh Durza lẫn cái chết của Oromis.

Eragon và Saphira nghỉ tại Ceunon thêm ba ngày. Nơi đây không giống bất kì thành phố nào họ từng thấy. Những tòa nhà phần lớp bằng gỗ, mái cao vút, và ở những tòa nhà lớn còn có nhiều lớp. Đỉnh mái thường trang trí bởi hình chạm đầu rầu, còn cửa khắc hoặc vẽ lên những hình cầu kì xoắn lại.

Lúc rời đi, Saphira có ý muốn đổi đường. Cô nàng không phải cố thuyết phục Eragon, nó vui vẻ đồng ý khi cô nàng giải thích chuyến đi sẽ không mất nhiều thời gian.

Từ Ceunon, Saphira bay về phía Tây, qua vịnh Fundor: một mảng nước rộng bao la viền cát trắng. Những chiếc lưng xám hay đen của cá biển thường nhấp nhô trên mặt nước như những hòn đảo nhỏ bằng da. Rồi chúng phụt ra những cột nước từ cái lỗ trên lưng, đầu nhô cao lên không rồi hụp xuống lòng nước sâu thẳm lặng lẽ.

Vượt vịnh Fundor, họ bay qua những cơn gió lạnh dữ dội tới rặng Spine mà Eragon biết rõ tên từng ngọn núi, từ đó quay lại thung lũng Palancar lần đầu tiên từ khi rời đi đuổi theo lũ Ra’zac cùng Brom, chuyến đi tưởng như đã cách cả đời người.

Với Eragon. thung lũng dậy lên mùi như quê hương vậy, mùi hương của những cây thông, cây liễu hay cây bạch dương trong tuổi thơ nó, rồi vị đắng của không khí khi mùa đông sắp cận kề.

Họ đáp xuống bãi tro tàn khu làng Carvahall, rồi Eragon đi dọc theo những con đường mọc đầy cỏ dại.

Một đàn chó hoang phóng qua cây bạch dương gần đó. Chúng dừng lại khi thấy Saphira, gầm gừ, sủa ăng ẳng chạy trốn. Saphira cũng gầm lên xịt khói nhưng không đuổi theo chúng.

Một mẩu gỗ cháy nứt dưới chân Eragon khi nó bước trên đống tro tàn. Cảnh ngôi làng bị tàn phá khiến nó buồn lòng. Nhưng hầu hết những dân làng thoát được vẫn còn sống. Nếu trở lại, Eragon biết họ sẽ tái thiết Carvahall còn đẹp hơn xưa. Những ngôi nhà trong tuổi thơ nó đã không còn nữa. Dân làng vắng bóng càng khiến nó cảm thấy không còn thuộc về thung lũng Palancar, nhìn những khoảng trống vắng vẻ càng làm nó thấy có cảm giác sai trái, như thể nó đang trong một giấc mơ lộn xộn.

“Thế giới này chẳng có gì liền lạc cả,” nó lẩm bẩm.

Eragon dựng một đống lửa nhỏ cạnh nơi từng là quán rượu của Morn, nấu nồi thịt hầm lớn. Trong lúc nó ăn, Saphira lảng vảng xung quanh, khịt mũi khi thấy cái gì đó thú vị.

Ăn hết nồi thịt, nó mang nồi, bát và thìa ra dòng Anora rửa trong dòng nước băng giá. Ngồi xổm lên bờ sông đầy đá, nó nhìn chăm chăm lên đỉnh thung lũng: dòng thác Igualda trắng xóa, kéo dài lên nửa dặm trước khi biến mất trong những phiến đá trên đỉnh Narnmor. Ngắm nhìn đỉnh núi, nó hồi tưởng lại ngày mang trứng Saphira từ rặng Spine, không biết gì về những điều sẽ xảy ra giữa hai đứa, hay thậm chí sẽ có hai đứa.

“Đi nào,” nó đi tới bên cô nạng cạnh miệng giếng giữa thị ngôi làng.

Anh có muốn thăm lại nông trại không? cô nàng hỏi khi nó đang leo lên lưng.

Nó lắc đầu. “Không. Anh muốn nghĩ về nó như trước kia, không phải bây giờ.”

Cô nàng đồng ý. Tuy nhiên, cô nàng tay về phương nam theo hướng họ từng rời thung lũng Palancar. Trên đường, Eragon thấy rõ nơi từng là nhà nó, nhưng bởi quá xa và mây mù che phủ, nó vẫn có thể vờ như ngôi nhà và khu trại vẫn còn nguyên xi.

Tại rìa phía Nam thung lũng, Saphira lướt trên một luồng khí bốc lên từ đỉnh ngọn núi trơ trụi Utgard, nơi các Kỵ Sỹ từng dựng một tháp canh để trông chừng vị vua Palancar điên rồ. Cái tháp từng được biết đến như Edoc’sil, giờ mang tên Ristvak’baen hay “Cõi U buồn,” vì đó là nơi Galbatorix đã giết chết Vrael.

Cạnh đống đổ nát của tháp canh, Eragon, Saphira và các Eldunarí đi theo cùng tưởng niệm Vrael. Umaroth đặc biệt tỏ ra sầu não, nhưng ông nói, Cảm ơn Saphira, vì đã mang ta tới đây. Ta không bao giờ nghĩ có thể nhìn thấy nơi Kỵ Sỹ của mình ngã xuống.

Rồi Saphira sải cánh bay khỏi tháp canh, phi khỏi và cánh đồng đầy cỏ xa xa.

Nửa đường tới Ilirea, Nasuada liên lạc với họ qua một pháp sư Varden điều họ gia nhập một binh đoàn lớn đang hành quân từ thủ đô tới Teirm.

Eragon vui mừng biết Roran chỉ huy binh đoàn đó, trong hàng ngũ có Jeod và Baldor – cánh tay đã hồi phục hoàn toàn sau khi được các tiên nhân ghép lại – và vài dân làng khác.

Eragon ngạc nhiên khi người dân thành Teirm từ chối đầu hàng, kể cả sau khi nó giải phóng họ khỏi lời thề với Galbatorix, và dù hiển nhiên là với sự giúp đỡ của Saphria và Eragon, quân Varden có thể dễ dàng chiếm thành phố nếu muốn. Thay vào đó, thị trưởng thành Teirm, Lãnh chúa Risthart yêu cầu họ được trở thành một khu tự trị được tự do chọn lãnh chúa và luật pháp.

Sau vài ngày đàm phán, Nasuada chấp thuật điều kiện của ông, đổi lại Lãnh chúa Risthart thề trung thành với nữ hoàng là cô, và cũng như vua Orrin, chấp thuận tuân theo luật dành cho pháp sư.

Từ Teirm, Eragon và Saphira hộ tống các chiến binh về phương nam, qua bờ biển hẹp, cho tới khi đến thành phố Kuasta. Họ vây hãm thành phố, nhưng không như Term, thị trưởng Kuasta nhanh chóng đầu hàng và chấp thuận gia nhập vương quốc mới của Nasuada.

Eragon và Saphira một mình bay tới Narda ở miền Bắc, thu được lời hứa y hệt rồi trở lại Ilirea, rồi nghỉ lại vài tuần trong một căn nhà lớn gần nơi ở Nasuada.

Khi thời gian lại cho phép, nó và Saphira liền rời thành phố tới lâu đài nơi Blödhgarm và các pháp sư đang trông coi các Eldunarí thu được của Galbatorix. Eragon cùng Saphira giúp đỡ chữa lành tâm trí của lũ rồng. Họ cũng có tiến triển nhưng khá chậm chạp, có một vài Eldunarí phản ứng sớm hơn. Eragon lo lắng khá nhiều rồng đơn giản không hề để tâm đến cuộc sống nữa, hoặc đã lạc lối trong mê cung tâm trí quá lâu để có thể giao tiếp với chúng có ý nghĩa, thậm chí kể cả với những con rồng tiền bối như Valdr. Để ngăn cản hàng trăm con rồng áp đảo tâm trí những người đang giúp chúng, các tiên nhân giữ phần lớn Eldunarí nửa mê man, chỉ chọn ra một vài con rồng để giao tiếp cùng thời điểm.

Eragon cũng làm việc bên những pháp sư của Con Đường Lãng Du nhằm dọn dẹp kho báu trong tòa thành. Hầu hết công việc đổ lên đầu nó, bởi các pháp sư không đủ kinh nghiệm hay hiểu biết để xử lý những món đồ vật bị yểm bùa Galbatorix để lại. Nhưng Eragon không ngại lắm: nó vui vẻ khám phá những pháo đài hư hại, thám hiểm những bí mật ẩn giấu bên trong. Galbatorix đã thu giữ hàng đống báu vật trong suốt thế kỉ, vài thứ khá nguy hiểm, song tất cả đều rất thú vị. Eragon thấy thích thú nhất cái máy đo thiên thể, khi đặt mắt lên nó có thể thấy rõ những ngôi sao kể cả vào ban ngày.

Nó giữ bí mật về những món đồ nguy hiểm nhất cho mình, Saphira và Nasuada, ngăn ngừa rủi ro tin tức bị lan truyền.

Nasuada cũng sử dụng ngay vô số báu vật thu được trong tòa thành để cho các chiến binh cái ăn cái mặc, cũng như tái thiết phòng thủ của những thành phố họ chiếm được trong cuộc chiến tranh. Thêm nữa, cô ban tặng một món vàng tương đương năm chiếc mũ vàng cho mọi thần dân: tuy chỉ là một món nhỏ với các quý tộc nhưng thực sự vô giá với các nông dân nghèo. Eragon biết hành động ấy đã thu được sự ủng hộ và trung thành theo cách Galbatorix không bao giờ hiểu được.

Họ cũng thu được hàng trăm thanh gươm của các Kỵ Sỹ: các thanh gươm đủ màu sắc kiểu dáng, làm bởi con người lẫn tiên nhân. Đó thực sự là một khám phá ngoạn mục. Eragon và Saphira tự mình mang chúng tới lâu đài nơi đang giữ các Eldunarí, phòng một ngày chúng lại được các Kỵ Sỹ cần tới.

Eragon tự nhủ Rhunön sẽ rất mừng khi biết nhiều sản phẩm của bà vẫn còn tồn tại.

Và còn đó hàng ngàn cuộn giấy và sách vở Galbatorix đã thu thập, được các tiên nhân và Jeod sắp xếp lại, xếp riêng ra những thứ có chứa bí mật về các Kỵ Sỹ và thành quả nghiên cứu sâu về phép thuật.

Khi họ đang đang sắp xếp kho tàng kiến thức đồ sộ của Galbatorix, Eragon vẫn hy vọng tìm ra gợi ý về nơi nhà vua giấu những quả trứng Lethrblaka còn lại. Tuy nhiên, thứ duy nhất nhắc đến Lethrblaka hay Ra’zac là trong một thư tịch cổ của các tiên nhân và Kỵ Sỹ của thời đại trước, bàn luận về mối đe dọa của bóng tối và băn khoăn làm thế nào với kẻ địch không thể phát giác bằng bất kì loại pháp thuật nào.

Khi nó có thể nói chuyện thoải mái, Eragonthường xuyên bỏ ra hàng với Jeod, kể cho ông nghe những gì xảy ra với các Eldunarí và những quả trứng, kể cả quá trình tìm ra tên thật của mình ở Vroengard. Nó thấy rất thoải mái khi nói chuyện với Jeod, đặc biệt khi ông là một trong số ít người biết Brom đủ để gọi ông là bạn.

Eragon thấy rất thú vị theo cách trừu tượng khi quán sát vương quốc Nasuada được cai trị và tái thiết từ đống tro tàn của Đế chế. Cần nỗ lực khổng lồ để quản lý đất nước rộng lớn và đa dạng nhường ấy, và công việc dường như không bao giờ dứt: luôn có nhiều thứ hơn phải làm. Eragon biết nó sẽ ghét những đòi hỏi của vị trí này, nhưng Nasuada phải dựa vào chúng rất nhiều. Cô dường như không bao giờ xuống sức, cũng như biết cách giải quyết mọi vấn đề. Ngày ngày qua ngày khác, nó thấy tầm vóc của cô lớn dần với các sứ thần, quan chức, quý tộc và những thường dân mình cai quản. Cô có vẻ phù hợp hoàn toàn với vai trò mới, dù nó lo lắng vì không chắc cô có thực sự hạnh phúc không.

Nó quan sát cô phán xét các quý tộc đã tuân theo Galbatorix – dù tự nguyên hay không – hài lòng thấy sự công bằng và nhân từ của cô, cũng như những hình phạt nếu cần thiết. Hầu hết cô tước bỏ đất đai, danh hiệu hoặc một phần lớn tài sản bẩn thỉu của chúng, nhưng Eragon mừng vì cô không hành quyết ai hết.

Nó đứng bên cạnh khi cô ban cho Nar Garzhvog một dải đất lớn bên bờ Bắc của rặng Spine, cả vùng đồng bằng màu mỡ giữa hồ Fläm và sông Toark, nơi hiếm có con người sinh sống. Eragon tán thành quyết định ấy.

Nar Garzhvog cũng thề trung thành với Nữ hoàng Nasuada như vua Orrin và Lãnh chúa Risthart. Tuy nhiên, gã Kull khổng lồ nói, “Dân tộc tôi sẽ đồng ý, Công Nương Báo-săn-đêm, nhưng họ có dòng máu nồng và trí nhớ ngắn ngủi, lời nói sẽ không giữ họ mãi mãi.”

Nasuada đáp lạnh lùng, “Ý ông là dân tộc ông sẽ phá hoại hòa bình hả? Tôi có nên hiểu giống loài chúng ta sẽ là kẻ địch nữa không?”

“Không,” Garzhvog lắc cái đầu vĩ đại. “Chúng tôi không muốn chiến đấu với các người. Chúng tôi biết Hỏa Kiếm sẽ giết mình. Nhưng … khi các con đực trưởng thành, chúng sẽ muốn chiến đấu để chứng tỏ bản thân. Nếu không có, chúng sẽ tự khơi mào chiến đấu. Tôi xin lỗi, Báo-săn-đêm, nhưng chúng tôi không thể thay đổi bản thân được.”

Những lời ấy làm Eragon – cũng như Nasuada đau đầu – nó mất vài đêm nghĩ về các Urgal, cố tìm giải pháp phù hợp.

Hàng tuần trôi qua, Nasuada tiếp tục điều nó và Saphira đến nhiều nơi trong Surda và vương quốc, thường với tư cách dại diện cá nhân cô tới gặp vua Orrin, Lãnh chúa Risthart, các quý tộc và nhóm binh lính trên khắp lãnh thổ.

Đến nơi nào họ cũng tìm một nơi có thể làm nhà cho các Eldunarí cũng như nuôi dưỡng những quả trứng giấu ở Vroengard trong hàng thể kỉ tới. Có một khu vực ở rặng Spine có vẻ hứa hẹn, nhưng quá gần chỗ con người lẫn Urgal, hoặc quá xa về phương Bắc đến nỗi sống quanh năm ở đó rất khổ sở. Ngoài ra, Murtagh và Thorn cũng đi về phía Bắc, Eragon và Saphira không muốn gây cho họ thêm khó khăn nào nữa.

Rặng Beor có vẻ hoàn hảo, nhưng nó ngờ rằng những người lùn sẽ không hoan nghênh hàng trăm con rồng đói ngấu nở ra trong lãnh thổ của mình. Từ bất cứ nơi nào trong khu vực dãy Beors, chỉ cần bay một quãng ngắn là có thể đến một thành phố người lùn nào đó, mà những con rồng nhỏ sẽ làm cỏ những đàn Feldûnost mất – Eragon rút kinh nghiệm từ Saphira.

Nó cho là các tiên nhân sẽ không phản đối lũ rồng sống ở những ngọn núi tại Du Weldenvarden, nhưng Eragon vẫn băn khoăn về việc ở gần thành phố tiên nhân. Thêm nữa, nó không khoái ý tưởng để lũ rồng và các Eldunarí trong lãnh thổ của bất kì giống loài nào. Điều đó sẽ có vẻ như họ đặc biệt thiên vị. Các Kỵ Sỹ trong quá khứ sẽ không bao giờ làm điều đó – Eragon tin tưởng – và cả các Kỵ Sỹ trong tương lai cũng thế.

Nơi duy nhất đủ xa khỏi mọi thành phố mà chưa có loài nào chiếm lấy là quê hương cổ xưa của loài rồng: sâu trong lòng sa mạc Hadarac, nơi ngọn Du Fells Nangoröth, rặng Núi-Nguyền-Rủa sừng sững. Eragon chắc chắn đó là nơi tuyệt vời để nuôi những con rồng non. Tuy nhiên có ba điểm bất cập. Đầu tiên, gần như sẽ không có đủ thức ăn trong sa mạc cho những con non. Saphira sẽ phải mất phần lớn thời gian vác hươu nai và các động vật hoang khác đến rặng núi. Và dĩ nhiên, khi những con non lớn hơn, chúng sẽ bắt đầu tự bay, khiến chúng dễ tới gần con người, tiên nhân hoặc người lùn hơn. Thứ hai, những người lữ hành rộng khắp – và cả những người khác – đều biết những ngọn núi nằm ở đâu. Thứ ba, rõ ràng không khó để tới được dãy núi, nhất là trong mùa đông. Hai điểm cuối khiến Eragon lo lắng nhất, băn khoăn không biết làm sao có thể bảo vệ những quả trứng, lũ rồng nong và các Eldunarí.

Sẽ tốt hơn nhiều nếu chúng ta lên hẳn những đính núi Beors, nơi chỉ những con rồng có thể bay tới, Nó nói với Saphira. Thì sẽ không kẻ nào có thể mò lên, trừ Thorn, Murtagh lẫn các pháp sư.

Các pháp sư, như bất kì tiên nhân nào ấy à? Với cả nơi đó lạnh quanh năm nữa!

Anh ngỡ em không ngại lạnh lắm.

Em thì không. Nhưng em không muốn sống với tuyết cả năm. Cát tốt cho vảy bọn em hơn; Glaedr bảo vậy. Cát giúp đánh bóng và làm sạch vảy.

Hmm.

Mỗi ngày trời một trở lạnh. Cây cối dần rụng lá, những đàn chim bay về phương Nam, rồi mùa đông tràn về. Đó là một mùa đông khắc nghiệt như thể toàn bộ Alagaësia đang chìm trong giấc ngủ sâu. Ngay khi tuyết bắt đầu rơi, Orik và quân đội của ông trở về ngay rặng Beor. Các tiên nhân còn ở Ilirea – trừ Vanir và Blödhgarm cùng mười pháp sư – đều trở về Du Weldenvarden. Các Urgal đã khởi hành trước đó. Ma mèo rời đi cuối cùng. Chúng chỉ đơn giản biến mất, khong ai thấy chúng bỏ đi, rồi một ngày không ai thấy con ma mèo nào nữa, trừ con ma mèo to béo tên Mắt-vàng nằm trên tấm nệm bên cạnh Nasuada, suốt ngày nằm ngủ, rên rỉ, lắng nghe mọi việc trong cung điện.

Không có các tiên nhân và người lùn, Eragon cảm thấy cả thành phố trống rỗng buồn bã, nó đi dọc qua những con phố, hàng đụn tuyết rơi xuống từ kẽ hở của phiến đá trên đầu.

Nasuada vẫn tiếp tục điều nó đi làm nhiệm vụ. Nhưng cô chưa bao giờ điều họ tới Du Weldenvarden, nơi Eragon tha thiết muốn tới. Họ vẫn chưa nhận được tin gì từ các tiên nhân về người kế tục Islanzadí, khi được hỏi, Vanir chỉ đơn giản nói, “Chúng tôi không phải những kẻ vội vã, đối với chúng tôi, bổ nhiệm tân vương luôn là một quá trình khó khăn phức tạp. Ngay khi biết quyết định của hội đồng trưởng lão, tôi sẽ báo cho cậu.

Eragon đã không gặp mặt hay nghe tin gì từ Arya quá lâu rồi, tới mức nó cân nhắc dùng tên của cổ ngữ để vượt qua lưới phòng hộ quanh Du Weldenvarden để có thể liên lạc trực tiếp hay ít nhất qua cầu thủy tinh. Tuy nhiên nó biết các tiên nhân sẽ không vui vì bị xâm phạm, nó cũng sợ Arya sẽ không thông cảm việc liên lạc với cô mà không có việc gì bức thiết.

Do vậy, nó viết cho cô một bức thư ngắn, hỏi thăm và nói cho cô biết tình hình nó và Saphira. Nó đưa bức thư cho Vanir, ông hứa sẽ gửi Aryan gay. Eragon chắc chắn Vanir giữ lời – họ nói chuyện bằng cổ ngữ – nhưng mãi nó vẫn không nhận được hồi âm từ Arya sau nhiều tháng, nó bắt đầu nghĩ vì một vài lý do gì đó, cô quyết định chấm dứt tình bạn giữa họ. Ý nghĩ ấy làm nó hoảng sợ, khiến nó tập trung vào công việc Nasuada giao phó hơn bao giờ hết, hy vọng quên được nỗi u sầu ấy.

Tới giữa mùa đông, khi những ngọn bặng treo trên trần đá phía trên Ilirea và những tuyết rơi dày trên cánh đồng xung quanh, những con phố tắc nghẽn và bữa ăn ngày một hao hụt đi, ba vụ ám sát Nasuada diễn ra, như Murtagh cảnh báo.

Những vụ tấn công rất khéo léo và lên kế hoạch chu toàn, và vụ thứ ba – có cả một tấm lưới đầy đá rơi lên Nasuada – suýt nữa thành công. Nhưng được lưới phòng hộ của Eragon và Elva bảo vệ, Nasuada vẫn sống sót, dù vụ tấn công cuối làm cô bị gãy vài cái xương.

Trong vụ thứ ba, Eragon và các lính Chim-ưng-Đêm giết được hai kẻ tấn công – có bao nhiêu tên còn lại vẫn còn là ẩn số – nhưng đồng bọn chúng thoát được.

Sau đó Eragon và Jörmundur tiến một bước dài để đảm bảo an toàn của Nasuada. Họ tăng cường số lính gác, và dù cô đi đâu cũng có ba pháp sư theo hộ tống. Nasuada càng ngày càng cẩn trọng hơn, Eragon thấy vẻ cứng cỏi của cô trở nên rất rõ ràng.

Kể từ đó không còn vụ tấn công nào nhằm vào Nasuada nữa, nhưng chỉ một tháng sau khi mùa đông lui, những con phố lại quang đãng, một bá tước tên Hamlin, gom được vài trăm lính cũ của Đế chế, bắt đầu công hãm Gil’ead và tấn công những người đi tới đó.

Cùng lúc, một cuộc nổi dậy nhỏ nổ ra ở phương nam, dẫn đầu bởi Thoros Nhanh nhẹn ở Aroughs.

Vụ nổi loạn chỉ như gãi ngứa, nhưng họ vẫn mất vài tháng để đàn áp, có những trận chiến khá ác liệt bất ngờ, dù Eragon và Saphira cố giải quyết hòa bình hết mức. Sau những trận chiến họ tham gia, không ai muốn có thêm máu phải đổ cả.

Một thời gian ngắn sau khi vụ nổi dậy kết thúc, Katrina sinh hạ một bé gái bụ bẫm khỏe mạnh, mang một chóp tóc đỏ trên đầu như mẹ nó. Con bé khóc to hơn tất cả những đứa trẻ sơ sinh Eragon từng nghe, và có năm tay mạnh như thép. Roran và Katrina đặt tên đứa bé Ismira theo tên mẹ Katrina, mỗi khi họ nhìn mặt con bé, nét rạng ngời trên mặt họ khiến Eragon cũng cười toe toét theo.

Sau ngày Ismira sinh thành, Nasuada triệu hồi Roran tới cung điện, gây ngạc nhiên lớn khi ban cho anh danh hiệu bá tước và toàn bộ thung lũng Palancar làm lãnh thổ riêng.

“Cho đến khi anh và con cháu mình vẫn còn phù hợp, thung lũng sẽ là của các bạn,”

Roran cúi người nói, “Cảm tạ Nữ hoàng.” Eragon có thể thấy món quà ấy có ý nghĩ với Roran nhiều như sự ra đời của con gái anh vậy, bởi sau gia đình thứ quý giá nhất với Roran chính là quê hương.

Nasuada cũng muốn phong cho Eragon tước vị và đất đai, nhưng nó từ chối, “Đối với tôi được là Kỵ Sỹ cũng quá đủ rồi, tôi không cần gì khác.”

Vài ngày sau, Eragon thảo luận cùng Nasuada bên cạnh bản đồ Alagaësia về những vấn đề quan trọng khắp vương quốc, cô nói, “Giờ khi mọi chuyện đã ổn hơn, tôi nghĩ đã đến lúc xác lập vai trò của các pháp sư ở Surda, Teirm và vương quốc này.”

“Ồ?”

“Đúng vậy. Tôi đã nghĩ rất nhiều về chuyện này và đi tới quyết định, rằng tôi sẽ thành lập một nhóm, tương tự các Kỵ Sỹ, nhưng là cho các pháp sư.”

“Thế nhóm ấy sẽ làm gì?”

Nasuada nhặt cây bút lông lên, xoay xoay trong kẽ ngón. “Cũng giống với Đoàn Kỵ Sỹ: du hành khắp nơi, giữ gìn hòa bình, giải quyết xung đột về luật phát, và quan trọng nhất, trông chừng các pháp sư khác, để đảm bảo họ không sử dụng khả năng vào mục đích sai trái.”

Eragon nhăn mày khẽ. “Sao không để nó cho đoàn Kỵ Sỹ?”

“Bởi sẽ mất hàng năm trước trước khi có thêm, và kể cả như thế sẽ không đủ người để ý tới tất cả phù thủy hay pháp sư lẩn quất… Cậu vẫn chưa tìm ra nơi nuôi nấng lũ rồng, phải không?

Eragon lắc đầu. Cả nó lẫn Saphira đều cảm thấy mất kiên nhẫn, bởi họ và Eldunarí không thể đồng thuận về địa điểm được. Chuyện này ngày càng nhức nhối với họ, bởi những quả trứng cần được ấp càng sớm càng tốt.

“Tôi nghĩ là không. Chúng ta phải làm chuyện này, Eragon à, và chúng ta không chờ thêm được nữa. Nhìn những gì Galbatorix gây ra xem. Pháp sư là sinh vật nguy hiểm nhất trên đời, thậm chí hơn cả loài rồng, và họ phải bị kiểm soát. Nếu không chúng ta sẽ luôn phải cầu xin lòng nhân từ của họ.”

“Cô có thực sự tin rằng có khả năng tuyển đủ pháp sư để trong nom toàn bộ các pháp sư khác ở đây lẫn Surda không?”

“Tôi nghĩ vậy, nếu cậu yêu cầu họ. Đó là một lý do tôi muốn cậu lãnh đạo nhóm đó.”

“Tôi à?”

Cô gật đầu. “Ai khác chứ? Triana chắc? Tôi không hoàn toàn tin tưởng cô ta, mà cô ta cũng chẳng có đủ sức mạnh cần thiết. Một tiên nhân? Không, đó phải là giống loài chúng ta. Cậu biết tên của cổ ngữ, cậu là một Kỵ Sỹ,đằng sau cậu là trí tuệ và quyền lực từ những con rồng. Tôi không nghĩ ra ai hợp hơn để lãnh đạo các pháp sư. Tôi đã bàn với Orrin rồi, ông ta đồng ý.”

“Tôi không cho rằng ý tưởng ấy khiến ổng vui đâu.”

“Không, nhưng ông ta hiểu rằng nó cần thiết.”

“Thật không?” Eragon nắm lấy cạnh bàn, băn khoăn. “Cô định sẽ coi chừng những pháp sư không thuộc nhóm ấy trong bao lâu?”

“Tôi hy vọng cậu sẽ có vài đề nghị. Tôi cho rằng có lẽ với thần chú và gương cầu, chúng ta có thể theo dõi và giám sát họ sử dụng phép thuật, không cho họ làm lợi mình hại người.”

“Và nếu có?”

“Thì ta sẽ bắt chúng đền tội, bắt chúng phải thề bằng cổ ngữ từ bỏ sử dụng phép thuật.”

“Thề bằng cổ ngữ không chắc sẽ ngăn ai đó dùng phép thuật đâu.”

“Tôi biết, nhưng đó là điều tốt nhất có thể làm.”

Anh gật đầu. “Còn nếu pháp sư đó từ chối bị giám sát thì sao? Làm thế nào? Tôi không tưởng tượng được nhiều cách để thám thính họ đâu.”

Nasuada thở dài, đặt cây bút lông xuống. “Cái đó mới khó. Cậu sẽ làm gì hả Eragon, nếu cậu là tôi?”

Nó không có giải pháp nào hay hơn cả. “Tôi không biết ….”

Nét mặt cô buồn bã. “Tôi cũng thế. Đó là một vấn đề khó khăn, đau đớn và lộn xộn, dù tôi có chọn lựa gì, ai đó cũng sẽ bị tổn thương. Nếu tôi không làm gì, các pháp sư sẽ tự do thao túng người khác bằng thần chú. Nếu tôi ép họ đồng ý bị giám sát, rất nhiều người sẽ thù ghét tôi. Dù sao, tôi nghĩ cậu cũng đồng ý với tôi rằng tốt hơn phải bảo vệ đa số thần dân của mình với tổn thất của số ít.”

“Tôi không thích lắm,” nó lẩm bẩm.

“Tôi cũng đâu có thích.”

“Cô đang nói về việc trói buộc tất cả pháp sư người theo ý muốn, bất kể họ là ai.”

Cô không chớp mắt. “Vì lợi ích của đa số.”

“Thế những người chỉ có thể nghe ý nghĩ thôi thì sao? Đó cũng là một dạng phép thuật.”

“Cả họ nữa. Khả năng họ lạm dụng quyền năng ấy là rất lớn.” Nasuada thở dài. “Tôi biết chuyện này không dễ dàng gì. Dù Galbatorix điên khùng hay ma quỷ, nhưng lão cũng đúng một điều: các pháp sư phải bị kìm chế. Nhưng không phải như Galbatorix muốn. Dù sao vẫn phải làm gì đó, và tôi nghĩ kế hoạch của mình là giải pháp tốt nhất có thể. Nếu cậu có thể có cách khác tốt hơn để áp đặt luật pháp đối với pháp sư, tôi sẽ mừng lắm. Nếu không thì đây là điều duy nhất chúng ta có thể làm … Vậy, cậu có chấp nhận đứng đầu nhóm đó, vì vương quốc này, và cũng vì toàn thể giống nòi chúng ta không?”

Eragon im lặng một hồi lâu, rồi nói, “Nếu cô không phiền, tôi muốn suy nghĩ một lát. Và tôi muốn hỏi ý Saphira nữa.”

“Dĩ nhiên. Nhưng đừng nghĩ quá lâu Eragon à. Nhiều thứ đã bắt đầu được sửa soạn rồi, sẽ cần đến cậu sớm thôi.”

Sau đó, Eragon không đi thẳng đến chỗ Saphira mà lang thang qua những con phố Ilirea, lờ đi những người trên đường chào nó hay cúi người. Nó thấy … khó ở, với cả đề nghị của Nasuada lẫn cuộc sống nói chung. Nó và Saphira đã nhàn rỗi quá lâu. Thời đại sắp thay vần rồi, hoàn cảnh không cho phép họ chờ thêm nữa. Họ phải qyết định sẽ làm gì, và lựa chọn nào cũng sẽ ảnh hưởng đến suốt đời họ.

Nó dành vài giờ vừa đi vừa suy nghĩ, chủ yếu về những ràng buộc và nghĩa vụ của nó. Đến chiều muộn, nó quay trở lại chỗ Saphira, không nói gì trèo lên lưng cô nàng.

Cô nàng phóng vụt ra khỏi sân nhà, bay thẳng lên bầu trời Ilirea, có thể phóng mắt xa hàng trăm dặm. Rồi cô nàng cứ lượn vòng một chỗ.

Họ không nói chuyện bằng lời mà trao đổi những trạng thái suy nghĩ. Saphira chia sẻ những băn khoăn của nó, nhưng cô nàng không lo lắng như nó về ràng buộc với những người khác. Nhưng Eragon biết không thể chỉ lờ đi hệ quả của lựa chọn của họ dù xét về khía cạnh chính trị hay cá nhân.

Cuối cùng nó nói, Chúng ta nên làm gì?

Saphira chíu xuống khi luồng gió dưới cánh cô nàng chậm lại. Điều chúng ta cần phải làm, như mọi trường hợp. Cô nàng không nói gì nữa, nhưng quay đi hạ dần xuống thành phố.

Eragon cảm kích sự im lặng của cô nàng. Quyết định ấy sẽ khó khăn với nó hơn nhiều so với cô nàng, và nó cần tự mình suy nghĩ về chuyện đó.

Rồi khi họ đáp xuống sân đình, Saphira huých nhẹ mõm cô nàng vào nó, Nếu anh muốn nói chuyện, em sẽ ở đây.

Nó mỉm cười, gãi gãi bên cổ cô nàng, rồi chầm chậm bước về phòng mình, nhìn chăm chú sàn nhà.

Đêm đó, khi vầng trăng khuyết vừa hiện ra trên bờ tường Ilirea, Eragon đang ngồi cuối giường đọc sách về kĩ thuật làm yên cương trong thời kì Kỵ Sỹ sơ khai, một ánh sáng bập bùng bên khóe – như tấm màn vung vẩy – khiến nó chú ý.

Nó phóng xuống sàn, rút thanh Brisingr khỏi bao.

Rồi trên cửa sổ đang mở, nó thấy một con thuyền ba buồm bện từ cỏ. Nó mỉm cười đút kiếm trở lại. Nó dang tay ra, con thuyền trôi vào trong phòng hạ lên lòng bàn tay nó, nằm nghiêng về một phía.

Con thuyền này khác so với cái Arya đã làm trong hành trình của họ trong lòng Đế chế. Nó nhiều cột buồm hơn, những cánh buồm cũng kết nên từ lá cỏ. Dù những lá cỏ có rũ xuống đượm màu vàng, chúng vẫn không khô hết, khiến nó nghĩ chúng mới chỉ được ngắt cách một hai ngày mà thôi.

Một miếng giấy giấp buộc vào giữa sàn thuyền. Eragon cẩn thận gỡ nó ra, tim đập thình thịch khi mở miếng giấy. Trên đó những nét chữ viết bằng cổ ngữ:

Eragon,

Chúng tôi đã quyết định được người lãnh đạo, tôi đang trên đường tới Ilirea để sắp xếp giới thiệu với Nasuada. Tôi sẽ nói chuyện với cậu và Saphira trước. Thông điệp này sẽ tới tay cậu bốn ngày trước nửa con trăng. Nếu cậu tới, gặp tôi một ngày sau khi nhận được nó, ở bờ cực Đông sông Ramr. Đến một mình thôi, và đừng nói cho ai khác biết cậu đi đâu.

Arya

Eragon tự động mỉm cười. Cô đã căn thời gian cực kì chuẩn, con thuyền đến chính xác như cô dự định. Rồi nụ cười của nó nhạt dần, nó đọc lại bức thư vài lần. Cô đang giấu chuyền gì đó, hiển nhiên rồi. Nhưng chuyện gì? Vì sao phải gặp bí mật?

Có lẽ Arya không chấp thuận người lãnh đạo kế tiếp của tiên nhân, nó nghĩ. Hoặc có thể là vấn đề nào khác đó. Dù Eragon nôn nóng gặp lại Arya, nó cũng không thể quên cô đã lờ tịt nó và Saphira như thế nào. Nó cho rằng từ quan điểm Arya, ba tháng chỉ là khoảng thời gian vặt vãnh, nhưng nó vẫn không khỏi cảm thấy bị tổn thương.

Nó đợi khi tia nắng đầu tiên ló ra trên bầu trời, rồi vội đi xuống thức Saphira dậy nói cho cô nàng biết. Cô nàng cũng tò mò như nó, nhưng không hưng phấn bằng.

Nó buộc yên cương, rồi cả hai rời thành phố bay theo hướng Đông Bắc mà không nói với ai hết, kể cả Glaedr và các Eldunarí.

FÍRNEN

Khi họ tới địa điểm Arya hẹn trước thì trời đã ngả về chiều: một khoảng sông Ramr uốn lượn đánh dấu quãng ngoặt về phía đông.

Eragon căng mắt nhìn qua cổ Saphira xem có ai ở dưới hay không. Khoảng đất phía dưới không có ai ngoài một đàn bò rừng. Khi thấy Saphira chúng cắm đầu chạy bụi tung mù mịt. Trừ vài loài động vật khác rải rác khắp vùng đồng cỏ, Eragon không cảm nhận được sinh vật nào khác. Thất vọng tràn trề, nó quay ra nhìn về phía chân trời nhưng không thấy bóng dáng Arya.

Saphira hạ cánh xuống một mô đất cách bờ sông chừng năm mươi thước. Cô nàng và Eragon ngồi xuống, nó dựa lưng vào cô nàng nghỉ ngơi.

Bề mặt mô đất là một vùng đá cằn cỗi màu xanh đen. Trong khi chờ đợi, Eragon giải trí bằng cách nghiền những viên đá to bằng ngón tay thành hình mũi tên. Những mũi tên đá quá mềm để làm gì ngoài trang trí, nhưng nó khoan khoái với thử thách ấy. Khi nó thỏa mãn với một hình tam giác đơn giản, nó bỏ sang một bên, bắt đầu một viên lớn hơn thành con dao lưỡi hình lá, tương tự vũ khí của các tiên nhân.

Họ không phải chờ lâu như nó nghĩ.

Khoảng một giờ sau, Saphira nghển cổ nhìn qua trảng cỏ dài về phía không-xa-lắm sa mạc Hadarac.

Thân thể cô nàng dốc cứng lại, nó cảm thấy một cảm xúc kì lạ trong cô nàng: từa tựa một chuyện gì đó rất khẩn yếu sắp xảy đến.

Nhìn kìa, cô nàng nói.

Vẫn cầm trên tay con dao làm nửa chừng, nó lồm cồm bò dậy quay qua nhìn về phía Đông.

Nó không thấy gì ngoài cỏ, đất và một vài bụi cây rì rào trong gió trước đường chân trời. Nó cố nhìn chăm chú nhưng không thấy gì đáng chú ý cả.

Cái gì – nó vừa định hỏi thì im bặt lại, ngước lên trên.

Mãi trên cao về phía đông, nó thấy một ngọn lửa màu xanh nhất nháy, như viên ngọc lục bảo lấp lánh dưới ánh mặt trời. Điểm sáng bay vòng qua màn trời xanh ngắt, tiến lại rất nhanh, tỏa sáng như ngôi sao đêm.

Eragon thả rơi con dao đá xuống đất, mắt vẫn dán về phía ánh sáng lấp lóe, trèo lên lưng Saphira buộc nhanh đai vào yên cương. Nó muốn cô nàng xem điểm sáng kia là gì –buộc cô nàng xác nhận điều nó đang nghĩ – nhưng nó không thể khiến cô nàng hé miệng thêm.

Saphira vẫn đứng nguyên, dù đôi cánh dang rộng nửa chừng, sẵn sàng cất cánh.

Điểm sáng lớn hơn, nở rộng ra thành hàng tá, rồi hàng trăm, rồi hàng nghìn điểm sáng nhỏ li ti. Sau vài phút hình sáng của nó lộ diện, họ nhìn thấy đó là một con rồng.

Saphira không thể chờ thêm. Cô nàng phát ra một tiếng kêu vang dội, nhảy lên rồi phi xuống.

Eragon bám chặt mấu nhọn trước mặt khi cô nàng lao vụt lên gần như thẳng đứng, háo hức chặn con rồng kia lại nhanh nhất có thể. Cả nó và cô nàng đều bừng lên cảm giác vừa phấn chấn lẫn cảnh giác, thứ hình thành qua bao cuộc chiến. Cẩn thận xem lại, họ mừng vì mặt trời đang ở phía sau.

Saphira tiếp tục bay lên cho tới khi cô nàng hơi cao hơn so với con rồng xanh, từ đó cô nàng có thể hạ độ cao tập trung vào tốc độ.

Tiến gần hơn, Eragon thấy con rồng, tuy khá lớn, nhưng trông vẫn còn khá trẻ – các chi của nó vẫn chưa có được khối lượng đồ sộ như Glaedr hay Thorn – và nó còn nhỏ hơn Saphira nữa. Mảng vảy phía bên sườn và lưng nó có màu xanh thẫm, trong khi phía bụng và bàn chân sáng hơn, có chỗ vẫn còn trăng trắng. Khi khép vào, cánh của nó có màu cây nhựa ruồi, nhưng khi ánh sáng xuyên qua, chúng có màu lá rồi khi vào xuân.

Trên điểm nối giữa cổ và lưng là một cái yên rất giống của Sahira, trên đó Arya đang ngồi, máu tóc đen óng ả tung bay. Cảnh tượng khiến Eragon vui sướng khôn cùng, sự trống vắng phải chịu đựng bao ngày biến mất như ánh mặt trời xua tan màn đêm.

Rồi hai con rồng nhào qua nhau, Saphira gầm lên, con rồng kia cũng gầm lên đáp trả. Chúng quay ngược lại, bắt đầu bay vòng quanh– như thể đang đuổi theo đuôi của nhau – Saphira ở cao hơn con rồng xanh một chút, lúc này đang cô trèo lên người cô. Nếu nó làm được, Eragon sợ nó sẽ cố lấy lợi thế trước khi tấn công.

Nó cười toe toét, la hét bạt gió. Arya giơ tay hét trả. Rồi Eragon chạm vào tâm trí cô, để chắc chắn, và nó biết ngay lập tức đó thực sự là Arya, cô và con rồng cũng không có ý làm bị thương họ. Nó lui lại ngay, bởi sẽ rất thô lỗ nếu kéo dài tiếp xúc tâm trí mà không được cô đồng ý; cô sẽ trả lời những câu hỏi của nó khi họ xuống nói chuyện dưới mặt đất.

Saphira và con rồng xanh lại gầm lên, rồi con rồng xanh vẫy cái đuôi hình roi, chúng đuổi nhau cho tới khi đến sông Ramr. Từ đó Saphira dẫn trước, lao xoáy hình trôn ốc hạ cánh xuống mô đất hai đứa vừa ngồi đợi.

Con rồng xanh hạ cánh cách gần trăm thước, cúi đầu thấp khi Arya nhảy xuống khỏi yên cương.

Eragon tháo đai chân nhảy xuống đất, vỏ thanh Brisingr đập vào chân nó. Hai người cùng chạy tới, gặp nhau ở khoảng giữa hai con rồng, đang đi lại chậm rãi hơn, dậm huỳnh huỵch lên mặt đất.

Khi họ tới gần, Eragon nhìn thấy trên mảng tóc từng là một sợi dây da chắn lại, giờ là một chiếc vòng vàng đeo phía trên trán. Ở giữa vòng vàng, một viên kim cương hình giọt lệ lóa sáng từ trong sâu thắm. Trên hông cô đeo thanh kiếm chuôi xanh trong vỏ bao cũng màu xanh, nó nhận ra đó là thanh Támerlein mà vị tiên nhân Fiolr muốn tặng nó để thay thế thanh Zar’roc, từng thuộc về Kỵ Sỹ Arva. Tuy nhiên, chuôi kiếm hơi khác so với trí nhớ của nó, nhẹ hơn, duyên dáng hơn và bao kiếm cũng nông hơn nữa.

Phải mất một lúc nó mới nhận ra chiếc mũ miện có nghĩa gì. Nó nhìn Arya kinh nhạc. “Nàng!”

“Là tôi,” cô gật nhẹ đầu. “Atra esterní ono thelduin, Eragon.”

““Atra du evarínya ono varda, Arya … Dröttning?” Nó không thể không nghĩ rằng cô đã chọn gặp mặt nó đầu tiên.

“Dröttning,” cô xác nhận. “Dân tộc tôi đã lựa chọn phong cho tôi tước vị của mẫu thân, và tôi chọn cách chấp thuận.”

Phía trên họ, Saphira và con rồng xanh thò đầu gần nhau đánh hơi. Saphira cao hơn, con rồng xanh phải nghển cổ để vươn tới cô nàng.

Dù Eragon đang rất muốn nói chuyện với Arya, nó không thể nhịn được nhìn chăm chú con rồng xanh. “Còn nó?” Eragon ngước đầu lên hỏi.

Arya mỉm cười, khiến nó ngạc nhiên khi cầm tay nó dẫn tới. Con rồng xanh khịt mũi, hạ thấp đầu xuống ngay trên họ, khói và hơi nước xộc ra từ sâu trong lỗ mũi sâu.

“Eragon,” cô nóng, đặt nay lên chiếc mõm ấm áp của con rồng, “đây là Fírnen. Fírnen, đây là Eragon.”

Eragon ngước nhìn lên con mắt sáng lấp lánh của Fírnen. Những sợi cơ sâu trong tròng mắt rồng có màu xanh nhạt và vàng như những phiến cỏ tươi.

Rất hân hạnh được gặp anh, Eragon-bằng-hữu-Khắc-tinh-của-Tà-thần à, Fírnen nói. Giọng nói bằng ý nghĩ của nó sâu hơn Eragon tưởng, thậm chí còn hơn Thorn hay Galedr hay bất kì Eldunarí nào từ Vroengard. Kỵ Sỹ của tôi đã kể rất nhiều về anh. Rồi con rồng nháy mắt, với một tiếng động nhỏ, sắc lẻm như vỏ sò đạp vào tảng đá.

Trong tâm trí rộng rãi, sáng sủa của Fírnen, Eragon có thể cảm thấy con rồng đang rất phấn khích.

Trong lòng Eragon dâng nên một băn khăn, wonder that such a thing had come to pass.“Tôi cũng rất hân hạnh được gặp cậu, Fírnen-finiarel. Tôi không bao giờ nghĩ mình còn sống để thấy cậu nở và thoát khỏi bùa chú của Galbatorix.”

Con rồng lục khịt mũi nhẹ. Nó trông tự hào, tràn trề năng lượng như một con hươu mùa thu. Rồi nó quay về phía Saphira. Giữa chúng có rất nhiều thứ lướt qua; qua Saphira, Eragon có thể cảm thấy những luồn suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác, nhưng rồi chúng hòa trộn, trôi vào nhau như một cơn sóng ào đi.

Arya cười nhẹ. “Chúng có vẻ thích nhau đấy nhỉ.”

“Cái đấy thì hẳn rồi.”

Như hiểu nhau mà không cần nói nên lời, nó và Arya rời bước khỏi Saphira và Fírnen, để hai con rồng lại với nhau. Saphira không ngồi như mọi khi mà thu mình cúi xuống như thể sắp nhảy chồm lên một con hươu. Fírnen cũng tương tự. Đầu đuôi của chúng xoắn lại với nhau.

Arya nhìn vẫn ổn: Eragon nghĩ còn tốt hơn từ những ngày còn ở cùng nhau tại Ellesméra. Không có lời nào thích hợp khác, nó có thể nói cô trông rất hạnh phúc.

Vừa nhìn lũ rồng, không ai cất tiếng một hồi lâu. Rồi Arya quay sang nó nói, “Tôi xin lỗi vì đã không liên lạc với cậu sớm hơn. Cậu chắc phải nghĩ về tôi tệ lắm vì đã lờ cậu lẫn Saphira và giữ bí mật về Fírnen trong thời gian dài như vậy.”

“Nàng có nhận được bức thư của ta không?”

“Tôi đã.” Nó ngạc nhiên thấy cô thò tay vào trong áo choàng lấy ra một mảnh giấy, sau một vài giây nó nhận ra đó là gì. “Tôi có thể trả lời, nhưng Fírnen vừa nở ra và tôi thì không muốn nói dối cậu, kể cả bằng cách tảng lời đi chuyện đó.”

“Vì sao phải giấu nó đi?”

“Có quá nhiều tay sai của Galbatorix vẫn còn bên ngoài, mà có quá ít rồng sót lại, tôi không muốn mạo hiểm để ai đó biết về Fírnen cho tới khi nó đủ lớn để tự bảo vệ.”

“Nàng có thực sự nghĩ rằng một con người có thể lẩn vào Du Weldenvarden giết nó không?”

“Những chuyện kì lạ đã từng xảy ra rồi. Khi loài rồng đang ở bên bờ tuyệt chủng thì rủi ro như vậy không đáng chấp nhận. Nếu có thể, tôi sẽ giữ Fírnen tại Du Weldenvarden trong mười năm tới, cho đến khi nó đủ lớn tới mức không ai dám tấn công nữa. Nhưng nó muốn đi đây đi đó, còn tôi không thể từ chối được. Ngoài ra, đã đến lúc tôi phải gặp Nasuada và Orik trên cương vị mới.”

Eragon có thể cảm thấy Fírnen đang kể cho Saphira lần đầu tiên nó bắt một con hươu thế nào. Nó biết Arya cũng nhận thấy điều đó, khi vành môi cô mím nhẹ đáp lại hình ảnh Fírnen đang nhảy bật đuổi theo con hươu đang giật mình bởi vấp phải một nhành cây.

“Nàng đã là nữ hoàng bao lâu rồi?”

“Từ một tháng sau khi tôi trở về. Vanir cũng không biết. Tôi yêu cầu thông tin giữ kín khỏi ông lẫn sứ thần với người lùn, để có thể chuyên tâm nuôi nấng Fírnen mà không bị quấy rầy bởi những chuyện ngoại giao sẽ đổ lên đầu mình nếu không làm vậy … Cậu sẽ rất vui đấy: tôi nuôi nó trên Vách đá Tel’naeír, nơi Oromis sống cùng Glaedr. Như thế thực phù hợp.”

Một khoảng dài im lặng. Rồi Eragon ra hiệu về phía mũ miện Arya lẫn Fírnen nói, “Tât cả những chuyện này xảy ra thế nào?”

Cô mìm cười. “Trong hành trình trở lại Ellesméra, tôi chú ý thấy Fírnen bắt đầu cựa quậy bên trong, nhưng tôi không nghĩ gì hết, như Saphira cũng thường làm thế. Tuy nhiên khi chúng tôi tới Du Weldenvarden và vượt qua lưới phòng hộ, nó nở luôn. Đó là lúc gần tối, tôi đang mang quả trứng trong vạt áo như khi mang Saphira, tôi đang nói chuyện với nó, kể cho nó nghe về thế giới và đảm bảo nó vẫn an toàn, thì đột nhiên thấy quả trứng rung lên và…” Cô run nhẹ, vuốt mái tóc, một dòng lệ tuôn ra từ khóe mắt. “Mối liên kết đúng như tất cả những gì tôi tưởng tượng. Khi chúng tôi chạm vào nhau… Tôi luôn muốn trở thành Kỵ Sỹ rồng, Eragon à, để có thể bảo vệ nhân dân mình và trả thù cái chết của cha mình dưới tay Galbatorix và những Kẻ Phản Tặc, nhưng mãi cho tới khi nhìn thấy vết nứt đầu tiên trên vỏ Fírnen, tôi chưa bao giờ cho mình tin tưởng chuyện đó thực sự sẽ xảy ra.”

“Khi nàng chạm vào, có …”

“Có.” Cô ngửa bàn tay trái ra, cho nó thấy dấu màu bạc trong lòng bàn tay, giống như gedwëy ignasia của nó. “Nó như thể …” Cô ngừng lại tìm từ thích hợp.

“Như thể dòng nước lạnh như băng châm châm chích và chồm lấy,” nó gợi ý.

“Chính xác như vậy.” Có vẻ lơ đãng, cô khoanh tay như thể bị lạnh.

“Rồi nàng trở lại Ellesméra,” Eragon nói. Lúc này Saphira đang kể cho Fírnen nghe cô nàng bơi cùng Eragon trong hồ Leona trên dường tới Dras-Leona cùng Brom.

“Rồi chúng tôi trở lại Ellesméra.”

“Rồi nàng lên sống ở Vách đá Tel’naeír. Nhưng sao lại trở thành nữ hoàng khi nàng đã là Kỵ Sỹ?”

“Đó không phải là ý của tôi. Däthedr và các tiền bối khác trong giống loài đã tới vách đá, họ hỏi tôi xem có muốn kế thừa danh hiệu của mẫu thân hay không, rồi một ngày sau, rồi mọi ngày trong tuần, mỗi lần họ lại đưa ra những lý lẽ mới vì sao tôi nên chấp nhận ngôi báu. Cuối cùng, họ thuyết phục được tôi rằng đó là điều tốt nhất cho dân tộc.”

“Nhưng sao phải là nàng? Có phải vì nàng là con gái Islanzadí, hay vì nàng đã trở thành Kỵ Sỹ rồng?”

“Chuyện này không chỉ vì Islanzadí là mẹ tôi, nhưng đúng là có một phần. Cũng không phải chỉ vì tôi đã là Kỵ Sỹ. Nền chính trị của chúng tôi phức tạp hơn nhiều so với con người và người lùn, chọn ra tân vương không bao giờ dễ dàng cả. Nó bao gồm gom được sự đồng thuận của hàng tá những gia đình và dòng tộc, cũng như những tiền bối của giống loài, mỗi lựa chọn của họ là một phần của trò chơi tinh tế chúng tôi đã thực hiện với nhau trong hàng ngàn năm… có nhiều lý do vì sao họ muốn tôi cho thành nữ hoàng, mà không phải tất cả chúng đều hiển nhiên.”

Eragon nghiêng mình, nhìn về phía giữa Saphira và Arya, không thể thuyết phục bản thân mình đồng tình với quyết định của Arya. “Làm sao nàng vừa là Kỵ Sỹ lẫn nữ hoàng được?” no hỏi. “Các Kỵ Sỹ không được ủng hộ giống loài nào hơn cả. Nếu không những giống loài ở Alagaësia sẽ không thể tin tưởng chúng ta. Và làm sao nàng có thể xây dựng thành viên đoàn Kỵ Sỹ cũng như nuôi nấng thế hệ rồng tiếp theo nếu nàng bận bịu với trách nhiệm ở Ellesméra được?”

“Thế giới không còn giống như trước nữa,” cô nói. “Kể cả các Kỵ Sỹ cũng không thể đứng tách biệt như đã từng. Chúng ta có quá ít để có thể đứng một mình, và còn rất lâu nữa mới có đủ thành viên để trở lại vị thế trước kia. Dù sao đi nữa, chẳng phải cậu cũng đã thề trung thành với Nasuada, và với Orik lẫn Dûrgrimst Ingeitum, nhưng không phải với chúng tôi, không phải với älfakyn. Sẽ hợp lý nếu chúng tôi cũng có Kỵ Sỹ và rồng thôi.”

“Nàng biết Saphira và tôi sẽ chiến đấu vì tiên nhân cũng y như vì người lùn và con người mà,” nó phản đối.

“Tôi thì có, nhưng người khác thì không đâu. Vẻ bề ngoài cũng quan trọng đấy Eragon à. Cậu không thể thay đổi thực tế là cậu đã thề trung thành với Nasuada cũng như bộ tộc của Orik … Dân tộc tôi đã chịu nhiều đau khổ lớn lao trong một trăm năm qua, và có thể cậu không biết rõ, chúng tôi cũng không còn như như trước đây nữa. Khi vận mệnh của loài rồng suy vong, chúng tôi cũng thế. Chúng tôi có ít đứa trẻ ra đời hơn, và sức mạnh thì ngày càng sụt giảm. Thêm nữa, có người nói trí óc của chúng tôi cũng không sắc sảo như trước đây, dù rất khó để chứng minh điều đó.”

“Glaedr cũng nói với chúng tôi điều tương tự về loài người.” Eragon nói.

Cô gật đầu. “Ông ấy đúng đấy. Cả hai giống loài sẽ phải mất thời gian phục hồi, và điều đó phụ thuộc vào sự trở lại của loài rồng. Thêm nữa, kể cả khi giống loài của cậu cần Nasuada dẫn dắt, dân tộc tôi cũng cần người lãnh đạo. Một khi Islanzadí mất đi, tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải tự mình làm chuyện đó.” Cô chạm nhẹ lên vai phải, nơi hình xăm chữ yawë ẩn khuất. “Tôi đã thề sẽ phục vụ người dân của mình khi không lớn hơn cậu bao nhiêu. Tôi không thể bỏ mặc họ bây giờ, khi họ rất cần tôi.”

“Họ sẽ luôn cần nàng mà.”

“Và tôi sẽ luôn đáp lại lời kêu gọi của họ,” cô đáp. “Đừng lo, Fírnen và tôi sẽ không lờ đi nghĩa vụ của rồng và Kỵ Sỹ đâu. Chúng tôi sẽ giúp cậu tuần tra và hòa giải những tranh chấp có thể, và dù ở đâu những con rồng được nuôi nấng tốt nhất, chúng tôi sẽ tới thăm và hỗ trợ thường xuyên nhất có thể, kể cả ở tận cùng rặng Spine đi chăng nữa.

Những lời của cô làm Eragon phiền lòng, nhưng nó cố giấu đi. Những gì cô hứa sẽ không thể nếu nó và Saphira làm như đã quyết định trong chuyến bay tới đây. Dù mọi điều Arya nói giúp xác nhận con đường họ đã chọn là đúng đắn, nó băn khoăn rằng Arya và Fírnen sẽ không thể theo được con đường họ đã chọn.”

Nó hơi cúi đầu, chấp nhận Arya có quyền và đã quyết định trở thành nữ hoàng. “Tôi biết nàng sẽ không từ chối trách nhiệm,” nó nói. “Chưa bao giờ nàng làm vậy cả.” Nó không muốn làm cho câu nói có vẻ thẳng thừng; đó đơn thuần là sự thực, vì thế nó tỏ ra tôn trọng cô. “và tôi hiểu tại sao nàng không liên lạc trong thời gian dài như vậy. Tôi cũng sẽ làm như thế nếu ở vị trí của nàng.”

Cô lại mỉm cười. “Cảm ơn.”

Nó ra hiệu vào thanh gươm của cô. “Tôi cho là Rhunön đã sửathanh Támerlein cho vừa với nàng phải không?”

“Đúng vậy, và bà ấy cũng càu nhàu suốt. Bà cứ nói mãi thanh gươm đã hoàn hảo như thế nào, như tôi thấy rất thoải mái với những sửa đổi của bà: thanh gươm cân bằng hơn trên tay tôi, nó không nặng hơn một cành cây là mấy.”

Khi họ đứng nhìn lũ rồng, Eragon chố nghĩ cách nói cho Arya về kế hoạch của họ. Trước khi nó kịp nói gì, cô đã nói, “Cậu và Saphira có khỏe không?”

“Chúng tôi vẫn khỏe.”

“Có gì đáng chú ý từ khi cậu viết thư không?”

Eragon nghĩ một phút, rồi nói ngắn gọn về những vụ ám sát Nasuada, cuộc nổi loạn ở phương Bắc và phương Nam, con gái Roran và Katrina ra đời, Roran được phong tước, danh sách báu vật họ thu hồi trong tòa thành. Cuối cùng, nó kể về chuyến trở lại Carvahall và cuộc viếng thăm nơi yên nghỉ của Brom.

Nghi nó nói, Saphira và Fírnen bắt đầu lượn vòng quanh nhau, đầu đuôi vẫy vẫy càng nhanh. Chúng đều hơi há miệng nhe hàng răng trắng dài, thở phì phò, phát ra những tiếng gầm gừ trầm thấp mà Eragon chưa bao giờ nghe thấy. Có vẻ như chúng sắp sửa tấn công nhau tới nới, khiến nó lo lắng, nhưng cảm giác của Saphira phải không giận dữ lẫn sợ hãi. Đó là …

Em muốn kiểm tra hắn, Saphira nói. Cô nàng vẫy đuôi đập lên mặt đất, khiến Fírnen khựng lại.

Kiểm tra nó? Thế nào? Để làm gì?

Để xem hắn có xương cứng rắn như sát và lửa trong bụng để hợp với em không.

Em có chắc không? Nó hỏi lại, hiểu ý của cô nàng.

Cô nàng đập đuôi lần nữa, rồi nó thấy sự chắc chắn lẫn ham muốn ghê gớm của cô nàng. Em biết mọi thứ về hắn – mọi thứ trừ chuyện này. Ngoài ra – cô nàng nháy mắt thích thú – rồng cũng không kết đôi suốt đời đâu.

Tốt lắm … nhưng cẩn thận nhé.

Nó vừa nói xong thì Saphira chồm lên cắn Fírnen bên sườn trái nhỉ máu, khiến Fírnen gầm lên bật ngược lại. Con rồng đỏ gầm gừ, có vẻ không tự tin, Saphira càng áp sát thì nó càng lui.

Saphira! Eragon bực mình, quay sang Arya định xin lỗi.

Arya có vẻ không bất ngờ lắm. Cô nàng nói với Fírnen, Eragon cũng nghe thấy, Nếu em muốn con bé tôn trọng, thì em phải cắn trả mới được.

Cô nhướng mắt nhìn Eragon, nó cười cười nhăn nhở tỏ vẻ hiểu.

Fírnen nhìn Arya lưỡng lự. Nó nhảy lui lại khi Saphira táp tới. Rồi cậu chàng gầm lên, dang cánh như thể khiến mình to ra, rồi xông tới Saphira – đớp về lớp vảy phía bắp chân cô nàng.

Nó thấy sự đau đớn Saphira cảm nhận không có vẻ gì là đau hết.

Shaphira và Fírnen tiếp tục xoay vòng, gầm gừ và tru lên ngày càng lớn. Cậu chàng dí xuống cổ Saphira, ép đầu cô nàng xuống, vừa ép vừa táp nhẹ vào xương sọ.

Saphira không vùng vẫy mạnh như Eragon tưởng, nó đoán già đoán non cô nàng đã để Fírnen chộp được, bởi ngay cả Thorn cũng không làm nổi chuyện đó.

“Lũ rồng kết bạn tình chắc chẳng bao giờ nhẹ nhàng nhỉ,”

“Cậu tưởng có những lời êm ái hay mơn trớn nhẹ nhàng chắc?”

“Tôi không cho là thế.”

Saphira nhấc cổ lên, quăng Fírnen lảo đảo về phía sau. Cô nàng gầm lên cào cào mặt đất bằng chân trước, rồi Fírnen ngẩng đầu lên phóng ra một luông lửa màu lục dài gấp đôi thân mình.

“Ồ!” Arya thốt lên vui sướng.

“Gì vậy?”

“Đây là lần đầu nó phun lửa!”

Saphira cũng phun ra một luồng lửa – Eragon có thể cảm thấy cái nóng từ cách năm mươi thước – rồi cô nàng rùn mình phóng lên trời, lao theo góc thẳng đứng. Fírnen ngay lập tức bay sát theo công nàng.

Eragon cùng Arya đứng nhìn lũ rồng lóe tráng trên bầu trời, vừa lượn vòng quanh nhau vừa phun ra những luồng lửa dữ dội. Đó là một khung cảnh tuyệt vời: vừa hoãng dã vừa đẹp lẫn đáng sợ. Eragon nhận ra nó đang được quan sát một nghi thức cổ xưa cơ bản nhất, một phần trong bức tranh tự nhiên mà nếu không có nó, thế giới này sẽ khô hèo và chết dần.

Kết nối giữa nó và Saphira dần trở nên mong manh khi khoảng cách họ tăng dần, nhưng nó vẫn cảm thấy ngọn lửa đam mê hừng hực, khiến cô nàng mờ mắt, không nghĩ được gì khác ngoài bản năng nguyên thủy của mọi sinh vật, kể cả tiên nhân cũng không loại trừ.

Lũ rồng nhỏ dần, cho tới khi chúng chỉ còn là một cặp sao lấp lánh xoay vòng quanh nhau trên bầu trời bao la. Từ khoảng cách ấy, Eragon vẫn nhận ra những tia suy nghĩ và cảm giác từ Saphira, và dù nó có trải nghiệm bao nhiêu lâu trong trí nhớ của các Eldunarí, má nó vẫn dần đỏ bừng lên, kể cả đỉnh tai nữa, nó thấy mình không thể nào nhìn thẳng Arya được.

Cô có vẻ cũng bị tác động bởi cảm xúc cua lũ rồng, dù khác nó nhiều; cô nhìn chằm chằm theo Saphria và Fírnen cười nhạt, đôi mắt sáng hơn bình thường, như thể cảnh tượng của lũ rồng khiến cô tràn ngập tự hào lẫn hạnh phúc.

Eragon thở ra, ngồi phịch xuống đất rồi bắt đầu vẽ vời trên nền đất bằng một nhành cỏ.

“Chậc, cũng không lâu lắm,” nó nói.

“Không đâu,” Arya đáp.

Họ cứ như vậy thêm vài phút nữa: cô đứng, nó ngồi trong im lặng bao trùm, trừ tiếng gió thổi hiu hiu.

Cuối cùng Eragon cũng dám ngước nhìn lên Arya. Cô trông đẹp hơn bao giờ hết. Nhưng trên nữa, nó nhìn thấy một người bạn và một đồng minh; nó nhìn thấy người con gái đã cứu mình khỏi tay Durza, người chiến đấu cạnh nó với vô số kẻ địch, người đã bị cầm tù cùng nó dưới lòng Dras-Leona, và cuối cùng, người đã giết Shruikan bằng thanh Dauthdaert. Nó nhớ những gì cô kể về cuộc sống thời niên thiếu ở Ellesméra, mối quan hệ khó khăn với mẹ cô, cũng như nhiều lý do khiến cô rời Du Weldenvarden và phục vụ như một đại sứ của loài tiên. Nó nghĩ tới những đau khổ cô phải chịu đựng: từ mẹ cô, từ sự cô lập giữa con người và người lùn, từ cái chết của Faolin, rồi từ những ngày bị Durza tra tấn ở Gil’ead.

Nó nghĩ tới tất cả những điều đó, nó cảm thấy một luồng kết nối sâu sắc lẫn u buồn dâng lên, và đột nhiên nó khao khát được lưu giữ những gì đang thấy.

Trong khi Arya vẫn đang lắng nhìn bầu trời, Eragon nhìn quanh tìm kiếm một mảnh đá xám trên mặt đất. Cố giữ yên lặng hết mức có thể, nó cạy mảnh đá lên và phủi sạch đất trên mặt đá.

Phải mất một lúc để nhớ những câu thần chú nó từng sử dụng, rồi sửa đổi chúng để chiết xuất được những màu sắc cần thiết từ mặt đất. Nó ẩm nhẩm niệm từng từ một câu thần chú.

Mặt đá xoáy lên như thể bùn nhão cuộn lại. Rồi màu sắc – đỏ, lam, lục, vàng – tuôn ra trên phiến đá, bắt đầu tạo thành những đường nét và hình dáng, hòa trộn vào nhau tạo thành những đường nét tinh tế hơn. Sau vài giây, hình ảnh Arya xuất hiện.

Khi đã hoàn thành, nó giải trừ thần chú và quan sát bức chân dung. Nó hài lòng với thành quả trước mặt. Bức tranh có vẻ phản ánh chân thực Arya, không giống như bức chân dung của cô nó làm ở Ellesméra. Bức tranh nó đang cầm trong tay có chiều sâu hơn nhiều. Đó không phải là một hình ảnh hoàn hảo dựa trên từng đường nét, nhưng nó tự hào đã đưa được rất nhiều tính cách của cô vào trong. Trong một bức tranh thôi, nó đã tổng hợp tất cả những gì nó biết về cô, dù tốt hay xấu.

Nó tự cho mình hưởng thụ cảm giác thành quả một hồi, rồi quăng phiến đá sang một bên xuống đất.

“Kausta,” Arya nói, rồi phiến đá lượn vòng trên không trung bay vào tay cô.

Eragon há hốc miệng, đinh giải thích hay xin lỗi, nhưng rồi nó nghĩ lại và im bặt.

Arya cầm bức chân dung, nhìn chăm chú hồi lâu. Eragon nhìn cô không dứt, băn khoăn không biết phản ứng của cô sẽ thế nào.

Một phút dài căng thẳng trôi qua.

Rồi Arya hạ bức chân dung xuống.

Eragon đứng lên, vươn tay ra muốn lấy lại phiến đá, nhưng cô không có vẻ gì muốn trả lại. Cô có vẻ bối rối, tim nó chìm xuống, bức chân dung khiến cô nổi giận mất rồi.

Đột nhiên nhìn thẳng vào mắt nó, cô nói bằng cổ ngữ, “Eragon, nếu chàng vui lòng, tôi muốn nói cho chàng tên thật của mình.”

Lời ấy khiến nó lặng người. Nó gật đầu thảng thốt, khó khắn lắm mới nói được, “Tôi sẽ vinh dự được lắng nghe.”

Arya tiến lại gần nó, kề môi lên vành tai, nói tên thật của cô bằng một tiếng thì thầm nhỏ xíu. Khi nó nói, cái tên vang lên trong tâm trí nó, cùng theo một cảm giác thấu hiếu. Một số phần của cái tên nó đã biết, nhưng có rất nhiều phần khiến nó ngạc nhiên, nó nhận ra Arya đã khó khăn nhường nào để chia sẻ.

Rồi Arya lùi lại chờ phản ứng của nó, nét mặt trống không.

Tên cô khiến Eragon dâng lên vô số câu hỏi, nhưng nó biết không phải là lúc thích hợp đưa ra. Thêm nữa, nó cần đảm bảo cho Arya nó sẽ không nghĩ xấu về cô bởi những gì được biết. Nó cũng không nghĩ vậy. Cái tên chỉ khiến nó tôn trọng cô hơn, bởi nó thấy được hết sự vị kỉ lẫn sự cống hiến cho nghĩa vụ của cô. Nó biết rằng nếu phản ứng tồi – hoặc nói gì đó sai kể cả không nghĩ vậy – nó có thể phá hủy tình bạn của họ.

Nó ngước lên bắt gặp cái nhìn chăm chú của Arya, rồi nói bằng cổ ngữ, “Tên của nàng … tên của nàng là một cái tên đẹp. Nàng nên tự hào vì con người mình. Cảm ơn vì đã chia sẻ với tôi. Tôi mừng vì được gọi nàng là bạn, và tôi hứa sẽ luôn giữ tên nàng an toàn … Giờ, nàng có muốn nghe tên tôi không?”

Cô gật đầu. “Tôi muốn. Tôi hứa sẽ khắc ghi và bảo vệ nó cho tới khi nó vẫn là tên chàng.”

Eragon dâng lên cảm giác bồi hồi. Nó biết sẽ không thể quay ngược những gì nó sẽ làm, vừa cảm thấy sợ hãi lẫn phấn khích. Nó bước lên và làm tương tự Arya, kề môi lên vành tai cô thầm thì tên thật của nó nhẹ nhàng nhất có thể. Toàn bộ căn cốt nó rung lên thừa nhận những từ ngữ ấy.

Nó lùi lại, đột nhiên e dè. Cô sẽ đánh giá nó như thế nào đây? Tốt hay xấu đây? Dĩ nhiên cô sẽ đánh giá nó, làm sao mà ngăn được.

Arya thở ra một hơi dài nhìn lên bầu trời. Rồi cô quay qua nhìn nó, nét mặt dịu dàng hơn trước. “Chàng cũng có một cái tên đẹp, Eragon à,” cô khẽ nói. “Tuy nhiên, tôi không nghĩ đó là cái tên khi chàng rời Thung lũng Palancar.”

“Không.”

“Tôi cũng không nghĩ đó là cái tên chàng mang trong thời gian ở Ellesméra. Chàng đã trưởng thành nhiều từ khi chúng ta lần đầu gặp.”

“Tôi phải thế.”

Cô gật đầu. “Chàng vẫn còn trẻ, nhưng không còn là một đứa bé nữa.”

“Không đâu. Cái đó thì không.”

Eragon cảm thấy gần gũi cô hơn bao giờ hết. Trao đổi tên thật đã hình thành nên một mối liên kết giữa họ, theo cách nào thì nó không biết, cảm giác không an toàn khiến nó thấy dễ tổn thương biết bao. Cô đã nhìn thấy hết những khiếm khuyết của nó và cô đã không chối bỏ, mà chấp nhận con người nó, như nó chấp nhận con người cô. Thêm nữa, cô đã nhìn thấy trong cái tên nó cảm xúc sâu sắc dành cho cô, mà cả điều không làm cô thối lui.

Nó cân nhắc không biết có nên nói ra không, nhưng nó không thể dừng được. Sau một hồi lấy dũng khí, nó nói, “Arya, vậy chúng ta sẽ là gì của nhau?”

Cô lưỡng lự, nó biết cô hiểu rõ ý nó. Chọn từ ngữ thật cẩn thận, cô nói, “Tôi không biết … Nếu như trước kia tôi sẽ nói ‘không gì hết,’ nhưng giờ đây … Vả lại, chàng vẫn còn trẻ, và con người thì hay thay đổi. Trong mười năm, hay chỉ năm năm thôi, chàng có thể không còn cảm thấy như lúc này nữa.”

“Cảm giác của tôi sẽ không thay đổi đâu,” nó nói chắc chắn.

Cô bồn chồnngắm nhìn khuôn mặt nó một hồi lâu, “Nếu không, vậy thì … có lẽ đến lúc ….” Cô đặt tay vào một bên má nó. “Chàng không thể yêu cầu tôi hơn được. Tôi không muốn gây sai lầm với chàng, Eragon à. Chàng quá quan trọng, với cả tôi lẫn toàn Alagaësia.”

Nó cố mỉm cười, nhưng có vẻ giống nhăn nhó. “Nhưng … chúng ta không có thời gian,” nó nghẹn giọng, cảm thấy trong bụng quặn thắt.

Arya nhướn mày, thả tay xuống. “Chàng có ý gì?”

Nó nhìn trân trối lên bầu trời cố nghĩ cách nói cho cô. Cuối cùng, nó nói đơn giản nhất có thể. Nó giải thích khó khăn khi nó và Saphira phải tìm một nơi an toàn cho những quả trứng và các Eldunarí, rồi giải thích kế hoạch của Nasuada thành lập một nhóm pháp sư trông coi những pháp sư con người khác.

Nó nói vài phút, rồi kết luận, “Nên tôi và Saphira quyết định điều duy nhất có thể làm là rời khỏi Alagaësia và nuôi nấng những con rồng ở đâu đó cách xa người khác. Thế là tốt nhất cho chúng tôi, cho lũ rồng, và cho mọi chủng tộc ở Alagaësia.”

“Nhưng các Eldunarí …” Arya có vẻ sốc.

“Các Eldunarí cũng sẽ không ở lại. Chúng sẽ không bao giờ an toàn kể cả ở Ellesméra. Cho tới khi còn ở trên mảnh đất này, sẽ có những kẻ cố trộm lấy chúng để phục vụ cho mục đích cá nhân. Không, chúng tôi phải tìm một nơi như Vroengard, nơi không ai có thể tìm thấy những con rồng gia hại chúng, để những con non lẫn rồng hoang không thể hại ai được.” Eragon lại gắng mỉm cười, nhưng thất vọng từ bỏ. “Đó là lý do tôi nói không còn thời gian nữa. Saphira và tôi định đi càng sớm càng tốt, và nếu nàng ở lại … tôi không biết đến bao giờ chúng ta mới gặp lại nhau nữa.”

Arya bối rối nhìn xuống bức chân dung trong tay.

“Nàng có thể từ bỏ ngôi vị để đi cùng chúng tôi không?” nó hỏi, dù đã biết câu trả lời.

Cô nhìn lên. “Chàng có thể từ bỏ trách nhiệm với những quả trứng không?”

Nó lắc đầu. “Không.”

Họ cùng im lặng, lắng nghe tiếng gió thổi một hồi.

“Làm sao chàng chọn ứng cử viên làm Kỵ Sỹ được?” cô hỏi.

“Chúng tôi sẽ để lại vài quả trứng – cho nàng, tôi nghĩ vậy – và một khi nở, chúng và các Kỵ Sỹ sẽ tới gia nhập với chúng tôi, và tôi sẽ gửi thêm trứng cho nàng.”

“Phải có cách nào đó khác ngoài cách chàng và Saphira cùng tất cả Eldunarí rời bỏ Alagaësia chứ!”

“Nếu có, chúng tôi sẽ làm theo, nhưng chẳng có đâu.”

“Thế các Eldunarí thì sao? Glaedr và Umaroth thì sao? Chàng đã nói với họ chưa? Họ có đồng ý không?”

“Chúng tôi vẫn chưa nói chuyện với họ, nhưng họ sẽ đồng ý thôi. Cái đó tôi biết.”

“Chàng có chắc không, Eragon? Đó có thực là cách duy nhất – bỏ lại phía sau mọi thứ và tất cả những người chàng từng biết không?”

“Điều đó là cần thiết, và chuyến đi này đã được định sẵn rồi. Angela đã tiên đoán khi bà ấy bói cho tôi ở Teirm, tôi đã có thời gian dài để quen với điều đó.” Nó vươn tay ra chạm vào má Arya. “Nên, tôi hỏi lại: nàng có đi cùng chúng tôi không?”

Một dòng lệ trào ra từ đôi mắt Arya, rồi cô ôm chặt tấm chân dung vào ngực. “Tôi không thể.”

Nó gật đầu bỏ tay ra. “Vậy… chúng ta sẽ chia tay thôi.” Nó cũng tuôn lệ, cố gắng giữ bình tĩnh.

“Nhưng chưa đâu,” cô thầm thì. “Chúng ta vẫn còn thời gian bên nhau. Chàng sẽ không rời ngay lập tức chứ.”

“Không, không lập tức đâu.”

Rồi họ đứng cạnh nhau, ngước nhìn lên bầu trời chờ đợi Saphira và Fírnen trở lại. Sau một hồi, tay cô nắm lấy tay nó, và nó nắm chặt lại, cảm thấy an ủi làm dịu đi cơn nhức nhối trong tim.

Lương tâm của con người

Ánh sáng ấm áp tràn qua cửa sổ từ bên phải tiền sảnh, soi sáng bức tường phía xa nơi những cột cờ, tranh vẽ, khiên, gươm giáo và vô số đầu hiêu treo giữa những cánh cửa chạm trổ tối màu rải đều nhau dọc bờ tường.

Khi Eragon bước tới phòng làm việc của Nasuada, nó ngước lên cánh cửa sổ nhìn ra thành phố. Từ sân đình, nó có thể nghe thấy những thi sĩ và nhạc sĩ vẫn biểu diễn bên cạnh bàn tiệc tiếp đãi Arya. Buổi tiệc đã diễn ra từ hôm qua khi cô và Fírnen trở về Ilirea cùng nó và Saphira. Nhưng giờ đâu họ đã bắt đầu thưa thớt, cuối cùng nó cũng có thể sắp xếp gặp mặt Nasuada.

Nó gật đầu với người lính gác bên ngoài rồi đi vào phòng.

Phía trong, nó thấy Nasuada đang tựa vào khung ghế dài, lắng nghe một nhạc sĩ thổi tiêu, hát một bản tình ca đẹp đẽ, nhưng cũng thê lương không kém. Phía cuối chiếc ghế cô bé phù thủy Elva ngồi mân mê mảnh vải thêu, và hầu gái của Nasuada là Farica đang ngồi gần đó. Trên vạt áo Farica, con mèo ma Mắt-Vàng đang cuộn mình trong dạng thú. Nó trông có vẻ ngái ngủ, nhưng từ kinh nghiệm Eragon biết nó rất có thể vẫn còn thức.

Eragon đứng chờ cạnh cánh cửa cho tới khi bài hát kết thúc.

“Cảm ơn. Anh lui được rồi,” Nasuada nói với người nghệ sĩ, “A, Eragon. Chào cậu.”

Nó cúi nhẹ chào cô, rồi quay sang cô bé, “Elva.”

Cô bé nhướng mày nhìn lên. “Eragon.” Tai con mèo ma giật giật.

“Cậu muốn bàn chuyện gì vậy?” Nasuada uống một hớp rượu nhỏ từ cốc rược trên bàn.

“Có lẽ chúng ta nên nói chuyện riêng.” Nó gật đầu ra hiệu về phía cánh cửa kính phía sau cô, dẫn ra ban công bên trên khoảng sân vườn và một đài phun nước.

Nasuada cân nhắc một chốc, rồi đứng dậy đi về phía ban công, kéo theo vạt áo tím phía sau.

Eragon đi theo, rồi họ đứng cạnh nhau, nhìn nước phun ra, trông mát lạnh trong bóng tối bóng đen phủ lên của tòa nhà.

“Buổi chiều đẹp làm sao,” Nasuada hít sâu. Cô có vẻ thư thái hơn chỉ vài giờ trước lần cuối nó nhìn thấy cô.

“Bài hát có vẻ khiến tâm trạng cô khá lên nhiều đấy,” nó dò hỏi.

“Không, không phải bà hát: Elva đấy.”

Nó hất đầu lên. “Như thế nào vậy?”

Nụ cười kì lạ hé ra trên khuôn mặt Nasuada. “Sau khoảng thời gian bị giam cầm ở Urû’baen – sau những gì tôi đã trải qua … và mất mát – rồi mấy vụ ám sát nữa, tôi thế thế giới này chẳng còn màu sắc gì hết. Tôi không còn cảm thấy chính mình, không có gì khiến tôi thoát khỏi cơn buồn bã ấy cả.”

“Tôi cũng đã nghĩ như thế,” nó nói, “nhưng tôi không biết phải làm gì hoặc nói gì cho tốt cả.”

“Không có gì hết. Cậu không thể nói hay làm gì giúp được tôi cả. Tôi có thể cứ mãi như thế hàng năm trời, nếu không có Elva. Con bé nói với tôi… nói với tôi những điều tôi cần nghe, tôi cho là vậy. Con bé đã hoàn thành lời hứa với tôi nó hứa từ lâu lắm rồi từ hồi còn ở lâu đài tại Aberon.” Eragon nhăn mặt, quay lại nhìn vào trong phòng, nơi Elva vẫn choc chọc miếng vải thêu. Trải qua tất cả những chuyện trước đây, nó vẫn không cảm giác hoàn toàn tin tưởng cô bé, nó sợ cô bé sẽ thao túng Nasuada cho lợi ích bản thân mình.

Nasuada chạm lên cánh tay nó. “Cậu không cần phải lo về tôi, Eragon à. Tôi biết quá nhiều về bản thân để con bé có thể khiến tôi mất thăng bằng kể cả nếu cố thử. Galbatorix cũng không hạ gục tôi được cơ mà, cậu nghĩ con bé có thể không?”

Nó ảm đạm nhìn lại cô. “Có đấy.”

Cô mỉm cười. “Tôi cảm kích sự quan tâm của cậu, nhưng trong chuyện này không có căn cứ lắm. Cứ để tôi nhấm nháp tâm trạng vui vẻ đi, cậu có thể để nghi ngờ của mình cho tôi lo sau cũng được.”

“Được rồi.” Nó dịu lại, “Tôi mừng vì cô thấy khá hơn.”

“Cảm ơn. Tôi cũng vậy… Saphira với Fírnen vẫn quấn lấy nhau chứ? Tôi không nghe thấy tiếng bọn chúng nữa.”

“Bọn chúng vẫn thế, nhưng giờ chúng đang ở trên mái đá.” Má nó hơi ấm lên khi chạm vào tâm trí Saphira.

“À.” Nasuada chắp tay vịn lên chấn song đá, trông như đóa diên vĩ nở rộ. “Giờ thì, sao cậu muốn gặp tôi? Cậu đã quyết định chuyện tôi đề nghị chưa?”

“Rồi.”

“Tuyệt vời. Thế thì chúng ta sẽ xúc tiến kế hoạch. Tôi đã …”

“Tôi quyết định không chấp nhận.”

“Sao?” Nasuada nhìn nó ngờ vực. “Vì sao? Cậu sẽ giao phó vị trí này cho ai?”

“Tôi không biết,” nó nhẹ nhàng nói. “Đó là chuyện cô và Orrin phải tự tính lấy.”

Lông mày cô nhướng lên. “Thậm chí cậu cũng không giúp chúng tôi chọn người phù hợp ư? Sao cậu có thể cho rằng tôi tin cậu sẽ tuân lệnh từ ai đó ngoài tôi?”

“Cô hiểu nhầm rồi,” nó nói. “Tôi không muốn lãnh đạo các pháp sư, cũng không gia nhập họ luôn.”

Nasuada nhìn chằm chằm nó một lúc, rồi tiến lại đóng cánh cửa thủy tinh để Elva, Farica lẫn con mèo ma không thể nghe thấy họ. Quay lại nó cô nói, “Eragon! Cậu đang nghĩ gì thế! Cậu biết cậu phải gia nhập mà. Tất cả các pháp sư phục vụ tôi đều phải thế. Không có ngoại lệ nào hết. Không ai hết! Tôi không thể khiến người dân nghĩ mình thiên vị được. Chuyện đó sẽ gây bất ổn trong hàng ngũ pháp sư, và tôi không muốn chính xác chuyện đó. Đến khi nào mà cậu còn là thần dân trong lãnh thổ của tôi, cậu sẽ phải tuân theo luật của nó, hoặc uy quyền của tôi chẳng có nghĩa gì hết. Đáng ra tôi không phải nói ra việc này chứ Eragon?”

“Cô không cần phải nói. Tôi hiểu rõ điều đó, chính là lý do vì sao Saphira và tôi đã quyết định sẽ rời Alagaësia.”

Nasuada bám vào hàng rào, như thể giữ mình đứng vững. Trong một khoảng thời gian, tiếng động duy nhất là tiếng nước phun ra.”

“Tôi không hiểu.”

Rồi như đã nói với Arya, nó lại giải thích lý do những con rồng, kéo theo nó và Saphira không thể ở lại Alagaësia được. Kết thúc, nó nói, “Tôi không thể nào lãnh đạo các pháp sư được. Saphira và tôi phải nuôi nấng lũ rồng và đào tạo các Kỵ Sỹ, chuyện đó phải được đặt trước hết. Kể cả nếu tôi có thời gian, tôi cũng không thể vừa lãnh đạo các Kỵ Sỹ vừa dưới quyền cô được, các giống loài khác sẽ không chấp nhận đâu. Dù Arya có trở thành nữ hoàng đi nữa, đoàn Kỵ Sỹ sẽ vẫn vô tư nhất có thể. Cách duy nhất khiến tôi có thể chấp nhận vị trí ấy là các pháp sư phải thuộc mọi chủng tộc – kể cả Urgal – chuyện ấy khó có thể xảy ra. Thêm nữa, đó còn chưa kể tới những quả trứng và các Eldunarí.”

Nasuada giận giữ. “Cậu không thể cho rằng tôi sẽ tin, với toàn bộ sức mạnh của mình, cậu vẫn không thể bảo vệ lũ rồng ở trong Alagaësia ư.”

“Có lẽ có thể, nhưng chúng tôi không thể dựa vào mỗi phép thuật để bảo vệ lũ rồng được. Chúng tôi cần những chướng ngại thực sự; chúng tôi cần tường cao hào sâu, hoặc những vách đá quá cao để con người, tiên nhân, người lùn hay Urgal có thể vươn tới. Quan trọng hơn, chúng tôi cần sự an toàn mà chỉ có khoảng cách mới đạt được. Chúng tôi tôi phải khiến việc tiếp cận khó khăn tới mức thử thách trên hành trình sẽ làm nản lòng những kẻ quyết tâm nhất. Giả sử tôi có thể bảo vệ lũ rồng, vấn đề sẽ lại nảy sinh phải tìm cách bảo đảm lũ rồng không săn gia súc – của chúng ta lẫn người lùn và Urgal. Cô có muốn phải giải thích với Orik hàng đàn Feldûnost biến mất, hay cô có muốn phải xoa dịu những nông dân mất súc vật không? … Không, giải pháp suy nhất là rời đi.”

Eragon nhìn xuống đài phun nước. “Kể cả nếu có một nơi cho những quả trứng và các Eldunarí tại Alagaësia này, sẽ không đúng đắn nếu tôi vẫn ở lại.”

“Vì sao thế?”

Nó lắc đầu. “Cô biết rõ câu trả lời như tôi mà. Tôi đã trở nên quá hùng mạnh. Cho đến khi tôi còn ở đây, uy quyền của cô – lẫn Arya, Orik hay Orrin – sẽ luôn luôn bị ngờ vực. Nếu tôi yêu cầu, hầu như mọi người dân Surda, Teirm hay vương quốc này sẽ đi theo tôi. Với những Eldunarí giúp đỡ, sẽ không kẻ nào có thể chống lại tôi, kể cả Murtagh hay Arya.”

“Cậu sẽ không bao giờ chống lại chúng tôi mà. Cậu không phải như vậy.”

“Không à? Trong suốt những năm tháng tôi sẽ sống – mà tôi có thể sống rất lâu – cô có thực tin rằng tôi sẽ không bao giờ can thiệp vào những sự vụ trên mảnh đất này không?”

“Nếu thực vậy, tôi chắc chắn là bởi một lý do tốt đẹp, và tôi cũng chắc sẽ vui lòng khi cậu giúp đỡ.”
“Thật không? Không nghi ngờ là tôi sẽ tin lý do của mình là đích đáng rồi, nhưng đấy mới là cạm bẫy, phải không? Niềm tin rằng tôi biết nhiều hơn và bởi vì có sức mạnh trong tay, tôi có trách nhiệm hành động.” Nhớ lại lời cô lúc trước, nó lặp lại: “Vì lợi ích của đa số mà. Nhưng nếu tôi sai lầm thì ai có thể ngăn tôi lại? Tôi có thể trở thành Galbatorix, dẫu cho có mong muốn tốt đẹp thế nào đi nữa. Rõ ràng sức mạnh khiến người ta có xu hướng đồng ý với tôi. Tôi đã tận mắt chứng kiến khi đi khắp Đế chế rồi… Nếu cô ở vị trí của tôi, liệu cô có thể kháng cự mong muốn xen vào, dù chỉ một chút, để khiến mọi thứ tốt hơn hay không? Sự hiện diện của tôi làm mất cân bằng, Nasuada à. Nếu tôi muốn tránh trở thành thứ tôi căm ghét, tôi phải rời đi thôi.”

Nasuada hất hàm. “Tôi có thể ra lệnh cậy ở lại.”

“Tôi hy vọng cô không làm vậy. Tôi sẽ mong được rời đi trong tình bằng hữu hơn là giận giữ.”

“Thế cậu sẽ không tuân theo ai trừ chính mình phải không?”

“Tôi sẽ tuân theo Saphira và lương tâm của chính mình, như vẫn luôn thế.”

Vành môi Nasuada cong lên. “Con người của lương tâm à – loại người nguy hiểm nhất trên đời đấy.”

Rồi âm thanh của đài phun nước lại trùm lên khoảng im lặng giữa hai người.

Rồi Nasuada nói, “Cậu có tin vào các thần linh không, Eragon?”

“Vị thần nào? Có nhiều lắm.”

“Bất kì vị nào. Tất cả họ. Cậu có tin vào quyền lực nào cao hơn chính mình không?”

“Ngoài Saphira ấy à?” Nó cười xin lỗi khi Nasuada cau mày. “Xin lỗi.” Nó nghiêm túc nghĩ khoảng một phút, “Có lẽ họ tồn tại. Tôi không biết. Tôi đã thấy … Tôi không chắc mình thấy gì, nhưng tôi có thể đã thấy thần Gûntera ở Tronjheim khi Orik đăng quang. Nếu có thần thánh, tôi cũng không đánh giá họ cao lắm khi để Galbatorix trên ngôi báu lâu như vậy.”

“Có lẽ cậu là công cụ của thần linh để loại trừ lão thì sao. Cậu đã bao giờ nghĩ vậy chưa?”

“Tôi à?” Nó cười. “Tôi cho là có thể, nhưng dù sao, họ cũng không quan tâm lắm chúng ta sống hay chết.”

“Dĩ nhiên rồi? Vì sao họ phải thế? Họ là thần linh cơ mà… Cậu có thờ vị nào không?” Câu hỏi có vẻ đặc biệt quan trọng với Nasuada.

Eragon lại nghĩ một hồi nữa. Rồi nó so vai. “Có quá nhiều, làm sao tôi biết chọn vị nào?”

“Sao không phải vị thần tao ra tất cả bọn họ, Unulukuna, người ban tặng sự sống vĩnh hằng?”

Eragon không thể nhịn cười khúc khích. “Cho đến khi tôi không ngã bệnh hay kẻ nào giết tôi, tôi sẽ sống hàng nghàn năm hoặc hơn, và nếu tôi sống lâu như vậy, tôi không thể tưởng tượng mình còn muốn tiếp tục sống sau khi chết. Thần linh có thể ban cho tôi thứ gì nữa? Với các Eldunarí, tôi gần như có đủ sức làm mọi thứ.”

“Thần linh cũng ban cho ta cơ hội được gặp lại những người ta yêu quý nữa. Cậu không muốn sao?”

Nó lưỡng lự. “Tôi muốn, nhưng tôi không muốn kéo dài đến vĩnh hằng. Điều đó còn đáng sợ hơn cả tan vào hư vô một ngày nào đó, như các tiên nhân vẫn tin.”

Nasuada có vẻ bối rối. “Vậy cậu sẽ không chịu trách nhiệm với bất kì ai ngoài Saphira và bản thân.”

“Nasuada, tôi có phải một người xấu không?”

Cô lắc đầu.

“Vậy thì hãy tin tôi làm những gì tôi cho là phải. Tôi sẽ chịu trách nhiệm với Saphira, với các Eldunarí và với tất cả những Kỵ Sỹ vẫn chưa ra đời, mà cũng với cô, với Arya và Orik, và với tât cả mọi người tại Alagaësia này. Tôi không cần ai trừng trị mình để hành xử đúng đắn. Nếu có, tôi sẽ không hơn gì một đứa trẻ tuân lệnh cha nó chỉ bởi nỗi sợ đòn roi, mà không phải bởi nó thực sự muốn điều tốt.”

Tôi nhìn nó vài giây. “Rất tốt, vậy tôi sẽ tin cậu.”

Rồi khung cảnh dường như lại nhường chỗ cho đài phun nước. Phía trên ánh sáng từ mặt trời khuất núi rọi lên những vết nứt và bề mặt sứt sẹo dưới phiến đá.

“Nếu chúng tôi cần cậu giúp thì sao?” cô hỏi.

“Thì tôi sẽ giúp. Tôi sẽ không bỏ mặc cô đâu Nasuada, tôi sẽ phù phép một thấm gương trong phòng làm việc, để cô có thể luôn luôn liên lạc với tôi khi cần thiết, tôi cũng làm vậy với Roran và Katrina nữa. Nếu có vấn đề gì đó xảy ra, tôi sẽ tìm cách gửi hỗ trợ. Có lẽ tôi không thể thự mình tới, nhưng tôi sẽ giúp.”

Cô gật gù. “Tôi biết cậu sẽ giúp.” Rồi cô thở dài, vẻ mặt không vui.

“Gì vậy?” nó hỏi

“Tất cả mọi việc quá tốt. Galbatorix đã chết. Cuổi nổi loạn cũng bị dập tắt. Chúng ta đã có thể giải quyết vấn nạn từ những pháp sư. Cậu và Saphira sẽ lãnh đạo họ và các Kỵ Sỹ… Tôi không biết chúng ta sẽ làm gì nữa.”

“Sẽ ổn thôi, tôi chắc đấy. Cô sẽ tìm ra thôi.”

“Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu có cậu ở đây … Ít nhất cậu sẽ đồng ý dạy tên của cổ cữ cho ai đó chúng ta chọn lãnh đạo các pháp sư chứ?”

Eragon không cần phải suy nghĩ, bởi nó đã cân nhắc khả năng này rồi, nhưng nõ vẫn khựng lại cố tìm ra từ ngữ. “Tôi có thể, nhưng lúc này, tôi nghĩ chúng ta sẽ thấy hối đấy.”

“Nên câu trả lời là không à.”

Nó lắc đầu.

Nét thất vọng hiện trên mặt cô. “Và vì sao? Lý do của cậu là gì?”

“Cái tên quá nguy hiểm để dễ dàng nói ra Nasuada à. Nếu một pháp sư đầy tham vọng nhưng không đủ thận trọng nắm giữ nó, kẻ đó có thể gây ra tổn thất cực kì lớn. Galbatorix cũng không đủ điên rồ để làm chuyện đó, nhưng một pháp sư chưa được tôi luyện mà còn thèm khát quyền lực thì sao? Ai biết chuyện gì có thể xảy ra được? Giờ đây Arya, Murtagh và lũ rồng là những người duy nhất ngoài tôi biết cái tên. Cứ để vậy thì hơn.”

“Rồi khi cậu đi, chúng tôi sẽ phải phụ thuộc vào Arya nếu cần tới nói.”

“Tôi biết cô ấy sẽ giúp mà. Nếu có gì đó thì tôi sẽ lo về Murtagh hơn.”

Nasuada có vẻ thu người lại. “Cậu không cần lo đâu. Anh ấy không phải mối đe dọa cho chúng ta. Ít nhất là lúc này.”

“Cô nói vậy thì thôi. Nếu mục đích của cô là tra xét các pháp sư, vậy tên của cô ngữ là được bảo mật thì hơn.”

“Nếu thực sự là như vậy, thì … tôi hiểu rồi.”

“Cảm ơn cô. Có một chuyện khác cô cũng nên biết.”

Nasuada lộ vẻ lo lắng. “Ồ?”

Rồi nó nói cho cô nghe ý tưởng mới nảy ra về các Urgal. Khi nó kết thúc, Nasuada im lặng một hồi. Rồi cô nói, “Cậu nhận làm quá nhiều về phần mình đấy.”

“Tôi phải làm vậy. Không ai khác có thể … Cô có chấp thuận không? Có vẻ đó là cách duy nhất giữ hòa bình trong thời gian dài.”

“Cậu có chắc chắn thế là khôn ngoan không?”

“Không hoàn toàn, nhưng tôi nghĩ phải thử thôi.”

“Cả những người lùn nữa? Có thực cần thiết không?”

“Có. Như vậy là đúng đắn và công bằng. Rồi việc này sẽ giúp duy trì cân bằng giữa các giống loài.”

“Nếu họ không đồng ý thì sao?”

“Tôi chắc họ sẽ đồng ý.”

“Vậy thì cứ làm như cậu thấy hợp lý. Không cần sự chấp thuận của tôi – cậu đã nói đủ rõ ràng rồi – nhưng tôi đồng ý chuyện đó là cần thiết. Ngoài ra, hai mươi hay ba mươi năm tới, chúng ta sẽ đối mặt với những vấn đề tổ tiên mình gặp phải khi lần đầu họ cập bến Alagaësia.”

Nó hơi cúi đầu xuống. “Tôi sẽ sắp xếp chuyện này.”

“Khi nào cậu rời đi?”

“Khi Arya đi khỏi.”

“Sớm vậy sao?”

“Chẳng có lý do gì ở lại thêm cả.”

Nasuada tựa người vào rào chắn, dán mắt xuống đài phun nước bên dưới. “Cậu có trở lại thăm nơi này không?”

“Tôi sẽ cố, … nhưng tôi không cho là vậy. Khi Angela bói mệnh cho tôi, bà ấy nói tôi sẽ không bao giờ trở lại.”

“A,” Giọng nói của Nasuada trầm xuống khàn khàn. Cô quay lại nhìn thẳng vào nó. “Tôi sẽ nhớ cậu lắm.”

“Tôi cũng sẽ nhớ cô.”

Cô mím chặt môi như thể cố không khóc. Rồi cô bước qua ôm chặt nó. Nó cũng ôm cô, họ đứng như vậy trong vài giây.

Rồi họ rời ra, nó nói, “Nasuada, nếu một ngày cô mệt mỏi làm Nữ hoàng, hoặc cô muốn sống bình yên, cứ đến với chúng tôi. Cô sẽ luôn được chào đón ở đó. Tôi không thể khiến cô bất tử, nhưng tôi sẽ kéo dài tuổi thọ cô hơn xa tuổi đời con người, và đó sẽ là những năm tháng được sống mạnh khỏe đấy.”

“Cảm ơn cậu, tôi rất cảm tạ đề nghị ấy, tôi sẽ không quên đâu.” Tuy nhiên nó có cảm giác cô sẽ không thể nào rời khỏi Alagaësia được dù cho có già chừng nào đi nữa. Cô luôn thấy nghĩa vụ của mình quá lớn.

Rồi nó hỏi. “Cô sẽ chúc phúc cho chúng tôi chứ?”

“Dĩ nhiên rồi.” Cô ôm lấy đầu giữa hai bàn tay, hôn lên lông mày nó, rồi nói, “Lời chúc phúc của tôi với cậu và Saphira. Mong bình yên và may mắn theo cậu dù ở bất cứ nơi đâu.”

“Và với cô nữa,” nó nói.

Cô giữ bàn tay trên đầu nó thêm một lúc rồi thả xuống, còn nó mở cánh cửa kính và rời phòng làm việc, để cô đứng một mình trên ban công.

Nợ máu

Khi Eragon sải bước xuống cổng cung điện, nó thấy bà lang Angela, đang ngồi bắt cheo chân một góc gần cánh cổng. Bà đang đan cái gì đó có vẻ như cái mũ màu xanh và trắng, cùng vài kí tự kì lạ ở trên vành mà nó không nhìn rõ nghĩa. Solembum nằm bên cạnh bà, cái đầu nó ngả vào vạt áo bà, một bàn chân gác lên đầu gối phải Angela.

Eragon ngạc nhiên dừng lại. Nó đã không thấy họ từ – phải mất một lúc mới nhớ lại – từ ngay sau cuộc chiến tại Urû’baen. Sau đó họ như biến mất tăm.

“Xin chào,” Angela vẫn không ngẩng lên.

“Xin hcoaf,” Eragon đáp. “Bà đang làm gì thế?”

“Đan mũ.”

“Cái đó tôi thấy, nhưng sao ở đây?”

“Vì tôi muốn gặp cậu.” Đôi đũa đập lách cách liên hồi, di chuyển như thể những luồng lửa quấn lấy nhau. “Tôi nghe cậu, Saphira, những quả trứng và cácEldunarí sẽ rời Alagaësia.”

“Như bà đã tiên đoán,” nó nhăn mặt, hơi nản vì bà có thể khám phá ra những bí mật tưởng chừng sâu kín nhất. Bà không thể nghe trộm nó – bùa chú của nó sẽ chặn lại – và cho đến giờ nó biết không ai từng nói với bà hay Solembum về sự tồn tại của những quả trứng và các Eldunarí.

“À, phải, nhưng tôi nghĩ sẽ không tiễn cậu đâu.”

“Làm sao bà biết? Từ Arya à?”

“Cô ta? Ha! Khó đấy. Không, tôi có cách riêng thu thập thông tin mà.” Bà ngừng đan, ngước lên chớp mắt nhìn nó. “Mà tôi cũng không cho cậu biết đâu. Tôi cũng phải giữ một vài bí mật chứ.”

“Hửm.”

“Cứ hửm đi. Cậu mà cứ thế thì tôi không chắc chắn vì sao mình không muốn đến đây mất.”

“Tôi xin lỗi. Tôi đang cảm thấy có chút … khó ở.” Sau một hồi Eragon nói, “Vì sao bà muốn gặp tôi?”

“Tôi đã muốn nói từ biệt và chúc cậu may mắn.”

“Cảm ơn bà.”

“Mmh. Đừng mãi suy nghĩ cậu sẽ ở đâu nữa. Cứ đảm bảo cậu phơi nắng đủ là được.”

“Tôi sẽ. Thế bà và Solembum thì sao? Các vị sẽ ở lại trông chừng Elva chứ? Bà từng nói vậy mà.”

Bà lang khịt mũi vẻ rất thiếu nữ tính. “Ở lại à? Làm sao mà tôi ở lại được khi Nasuada có vẻ định dò xét mọi pháp sư trên mảnh đất này được?”

“Bà cũng nghe chuyện này rồi à?”

Bà nhìn nó. “Tôi phản đối. Tôi phản đối cực lực. Tôi sẽ không bị đối xử như đứa trẻ đã làm gì đó hư hỏng đâu. Không, đây là lúc Solembum và tôi đến nơi nào thân thiện hơn: rặng Beor chẳng hạn, hay có lẽ Du Weldenvarden không biết chừng.”

Eragon lưỡng lự một hồi, rồi nói, “Các vị có muốn đi cùng tôi và Saphira không?”

Solembum hé một mắt, quan sát nó khoảng hai giây rồi nhắm lại.”

“Cậu thật tử tế,” Angela nói, “nhưng tôi nghĩ chúng tôi sẽ từ chối. Ít nhất là trong thời điểm này. Ngồi một chỗ canh chừng các Eldunarí và đào tạo các Kỵ Sỹ có vẻ nhàm chán … – cho dù nuôi nấng một mớ rồng có vẻ lý thú đấy. Nhưng không; trong thời gian này, Solembum và tôi sẽ ở Alagaësia. Ngoài ra tôi muốn để mắt đến Elva trong vài năm tới, dù tôi không thể trực tiếp làm vậy.”

“Bà không chán dự phần những sự kiện thú vị nhỉ?”

“Không bao giờ. Chúng như gia vị trong cuộc sống vậy.” Bà nhấc cái mũ đã xong nửa chừng. “Cậu thích nó chứ?”

“Cũng đẹp. Màu lam bắt mắt đấy. Nhưng các ký tự viết gì vậy?”

“Raxacori – ồ đừng để ý. Nó chả có nghĩ gì với cậu đâu.Cậu và Saphira nhé lên đường bình an cho Eragon. Chú ý coi chừng mấy con sâu tai và chuột sóc đấy. Lũ đấy hung hãn lắm, chuột sóc ấy.”

Nó mỉm cười. “Bà cũng bảo trọng, cả ngươi nữa Solembum.”

Một mắt con mèo ma lại mở ra. Bảo trọng, Người-đồ-sát-Vua.

Eragon rời tòa nhà, đi xuyên qua thành phố tới căn nhà Jeod và vợ ông Helen đang sống. Đó là một gian nhà yên tĩnh, có tường cao, vườn lớn, các gia nhân cúi chào từ cổng vào. Helen thực rất thành công. Bằng cách cung ứng cho quân Varden – và giờ là vương quốc của Nasuada – những vật tư thiết yếu, bà nhanh chóng dựng nên một công ty thương mại còn lớn hơn cái Jeod có hồi còn ở Teirm.

Eragon thấy Jeod đang rửa chén bát chuẩn bị cho bữa tối. Từ chối dùng bữa với họ, Eragon mất vài phút giải thích cho Jeod những điều đã nói với Nasuada. Lúc đầu Jeod ngạc nhiên hơi buồn bã, nhưng cuối cùng ông đồng ý rằng cần thiết để Eragon và Saphira rời đi cùng những quả trứng rồng. Cũng như Nasuada và bà lang, Eragon mời Jeod đi cùng nó.

“Cháu lôi khéo ta dữ đấy,” Joed nói. “Nhưng chỗ của ta là ở đây. Ta còn công việc, và sau thời gian dài lần đầu Helen được hạnh phúc. Ilirea đã trở thành nhà chúng ta, và cả hai đều không muốn thu vén rời đi đâu cả.”

Eragon gật đầu hiểu.

“Nhưng cậu … cậu sẽ đi tới những nơi ít người trừ lũ rồng hay các Kỵ Sỹ có thể tới. Nói cho ta hay, cháu có biết có gì ở phía Đông không? Ở đó có biển chứ?

“Nếu bác đi đủ xa.”

“Thế trước đó?”

Eragon so vai. “Hầu hết là đất trống, hay theo lời các Eldunarí nói như vậy, và cháu cũng không nghĩ trong thế kỉ trước có gì khác.”

Rồi Jeod tiến lại nó hạ thấp giọng. “Vì cháu sắp rời đi… ta sẽ nói cho cháu. Cháu có nhớ khi ta kể về Arcaena, một hội kín bảo tồn kiến thức khắp Alagaësia không?”

Eragon gật đầu. “Bác có nói Tu sĩ Heslant là một trong số họ.”

“Cả ta nữa.” Nhìn ánh mắt ngạc nhiên của Eragon, Jeod ngượng ngùng vuốt tay lên mái tóc. “Ta đã gia nhập họ lâu rồi, khi ta còn trẻ và còn những lý do để cống hiến. Ta đã chuyển cho họ thông tin và thư tín hàng bao năm qua, và họ cũng giúp lại ta nữa. Dù sao, ta nghĩ cháu nên biết. Brom là người duy nhất ta từng nói.”

“Kể cả Helen sao?”

“Kể cả bà ấy… Dù sao, khi ta kết thúc cuốn sách về cháu và Saphira và cuộc nổi dậy của Varden, ta sẽ gửi nó đến tu viện chính ở rặng Spine, chúng sẽ là những chương mới của Domia abr Wyrda. Câu chuyện của cháu sẽ không bị lãng quên đâu, Eragon à; cái đó ta hứa với cháu.”

Eragon thấy mẩu tin này lảm nó cảm thấy kì lạ. “Cảm ơn bác.” Nó ôm chặt Joed.

“Và cháu nữa, Eragon Khắc tinh của Tà thần.”

Sau đó, Eragon quay trở lại tòa nhà, nơi nó và Saphira vẫn sống cùng Roran và Katrina, đang đợi nó về dùng bữa.

Suốt bữa ăn câu chuyện chỉ quay quanh Arya và Fírnen. Eragon không nói về kế hoạch rời đi cho tới sau khi bữa ăn kết thúc và cả ba người – lẫn đứa trẻ – ngồi nghỉ trong phòng nhìn ra sân nhà, nơi Saphira đang nằm táp nhau cùng Fírnen. Họ ngồi uống rượu hoặc trà, rồi nhìn mặt trời lặn phía xa xa.

Sau một khoảng thời gian thích hợp, Eragon bắt đầu lôi vấn đề ra. Như nó nghĩ, Katrina và Roran đều lo lắng và cố thuyết phục nó đổi ý. Eragon phải mất gần cả tiếng mới nói hết lý do, còn họ tranh luận từng điểm một và không chịu nhân nhượng cho tới khi ho trả lời từng tí một.

Cuối cùng, Roran thốt lên, “Trời ạ, chú là gia đình mà! Chú không thể rời được.”

“Em phải đi. Anh cũng biết rõ như em vậy, anh chỉ không muốn thừa nhận thôi.”

Roran nắm tay dộng xuống mặt bàn, rồi bước lại phía cánh cửa sổ mở toang, răng nghiến chặt lại.

Đứa bé quấy khóc, Katrina dỗ, “Shh, con nào,” vừa vỗ nhẹ lưng con bé.

Eragon bước lại gần Roran. “Em biết đó không phải điều anh muốn. Em cũng không muốn, nhưng em không có lựa chọn nào cả.”

“Dĩ nhiên cậu có lựa chọn chứ. Hơn ai hết cậu được quyền lựa chọn chứ.”

“Ài, chuyện đó là việc nên làm mà.”

Roran gầm gừ, bắt chéo tay.

Phía sau họ Saphira nói, “Nếu em đi, em sẽ không thể làm một người chú tốt của Ismira được. Con bé sẽ phải lớn lên mà không bao giờ biết em ư?”

“Không,” Eragon bước lại nói. “Em vẫn có thể nói chuyện với con bé, và em sẽ đảm bảo con bé được bảo vệ kĩ càng; có khi em còn gửi được quà cho nó nữa.” Nó quỳ xuống thò ngón tay ra, con bé nắm chặt lấy kéo mạnh hơn nhiều ở tuổi mình.

“Nhưng em sẽ không ở đây.”

“Không … em sẽ không ở đây.” Eragon nhẹ nhàng rút tay khỏi ngón tay khỏi Ismira, quay lại đứng bên Roran. “Như em nói, anh chị vẫn có thể đi cùng em.”

Cơ hàm Roran căng lại. “và từ bỏ thung lũng Palancar ư?” Anh lắc đầu. “Chú Horst và những những người khắc đã chuẩn bị đề trở về rồi. Chúng ta sẽ tái thiết Carvahall thành một nơi hoàng tráng nhất cả dãy Spine. Em có thể giúp, thế sẽ như trước mà.”

“Em ước mình có thể.”

Phía dưới Saphira phát ra tiếng lục tục, chúi mõm vào bên cổ Fírnen. Con rồng xanh cũng xích lại gần cô nàng hơn.

Roran nhẹ giọng hỏi, “Có cách nào khác không Eragon?”

“Saphira và em không nghĩ ra.”

“Khỉ thật – như thế không đúng tí nào. Đáng ra chú không phải sống một mình ở nơi khỉ ho cò gáy ấy chứ.”

“Em sẽ không ở một mình đâu. Blödhgarm và vài tiên nhân khác sẽ đi cùng bọn em.”

Roran ra vẻ mất kiên nhẫn. “Chú biết anh có ý gì mà.” Anh day day góc bộ ria, dựa tay vào bờ đã dưới cửa sổ. Eragon có thể những bắp thịt trên tay anh phập phồng. Rồi Roran nhìn nó nói, “Cậu sẽ làm gì một khi tới nơi cậu hướng đến?”

“Tìm một ngọn đồi hoặc vách đá rồi xây một tòa nhà trên đó: đủ lớn để làm nhà cho lũ con rồng, giữ chúng an toàn. Còn anh thì sao? Sau khi tái thiết làng, anh sẽ làm gì?”

Roran cười nhạt. “Cũng tương tự. Với tiền cống nạp từ trong thung lũng, anh định xây một tòa lâu đài trên ngọn đồi chúng ta vẫn hay nói ấy. Không to đâu, chỉ là xây cất một chút tường rào, đủ để cầm cự bọn Urgal có thể tấn công thôi. Cũng phải mất chừng vài năm, nhưng rồi chúng ta sẽ được phòng ngự ổn thỏa, không như hồi bọn Ra’zac kéo tới cùng lũ lính.” Anh liếc qua Eragon. “Chúng ta sẽ có chỗ cho rồng nữa.”

“Thế anh có chỗ cho hai con rồng không?” Eragon ra hiệu về phía Saphira và Fírnen.

“Có khi không … Saphira thấy thế nào khi phải rời nó?”

“Cô nàng không thích lắm, nhưng biết đó là chuyện cần thiết.”

“Mmh.”

Mặt trời đang lặn chiếu lên mặt Roran màu hổ phách; Eragon ngạc nhiên nhận ra những nét mờ nhăn trên mày và quanh mắt Roran. Nó nhìn thấy dấu hiệu tuổi già đang dần tới. Cuộc sống trôi thực nhanh.

Katrina đặt Ismira xuống nôi. Rồi cô đứng lên cạnh họ bên cửa sổ, đặt tay lên vai Eragon. “Anh chị sẽ nhớ em lắm, Eragon à.”

“Em cũng thế,” nó chạm tay cô. “Chúng ta không phải từ biệt ngay đâu. Em vẫn mong anh chị có thể đi cùng tới Ellesméra. Em nghĩ hai người sẽ thích ngắm nhìn nơi đó, và chúng ta có thể thêm được vài ngày gần nhau.”

Roran ngoảnh đầu sang Eragon. “Bọn anh không thể đi suốt tới Du Weldenvarden cùng Ismira được. Con bé còn nhỏ quá. Quay lại thung lũng Plancar cũng đủ nhọc rồi, hành trình tới Ellesméra thì quả là không thể.”

“Kể cả nếu trên lưng rồi à?” Eragon cười nhìn nét mặt ngạc nhiên trên mặt hai người. “Arya và Fírnen đã đồng ý đưa anh chị tới Ellesméra trong khi Saphira và em mang những quả trứng rồng từ nơi cất giấu.”

“Bay tới Ellesméra mất bao lâu?” Roran cau mày.

“Khoảng một tuần lễ. Arya định viếng thăm vua Orik ở Tronjheim trên đường nữa. Anh chị sẽ thoải mái và an toàn cả quãng đường mà. Ismira sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu.”

Katrina và Roran nhìn nhau, rồi cô nói, “Sẽ thực tốt nếu được tiễn Eragon lên đường, Em cũng luôn được nghe kể những thành phố tiên nhân đẹp dường nào…”

“Em có chắc là được không?” Roran hỏi.

Cô gật đầu. “Đến khi anh vẫn bên cạnh hai mẹ con em.”

Roran im lặng một hồi rồi nói, “Tốt, anh cho là chú Horst và những người khác có thể đi trước mà không cần bọn mình.” Nụ cười nở ra dưới bộ râu, anh khúc khích. “Anh không bao giờ nghĩ có thể thấy rặng Beor hay một thành phố tiên nhân, nhưng sao không nhỉ? Chúng ta vẫn có thể khi còn cơ hội mà.”

“Hay lắm, vậy là ổn thỏa rồi,” Katrina tươi cười. “Chúng ta sẽ tới Du Weldenvarden.”

“Làm sao bọn anh trở lại?” Roran hỏi.

“Trên lưng Fírnen,” Eragon đáp. “Hoặc em nghĩ Arya sẽ cho người hộ tống anh chị về thung lũng Palancar, nếu anh muốn cưỡi ngựa hơn.”

Roran ra vẻ nhăn nhó. “Không, không bằng ngựa đâu. Nếu anh không bao giờ phải cưỡi ngựa nữa, giờ vẫn còn quá sớm.”

“Ồ? Vậy em cho là anh không muốn Hỏa Tuyết nữa?” Eragon nhướng mày khi nó nhắc tên con ngựa đã tặng Roran.

“Chú biết ý anh mà. Anh rất mừng được giữ Hỏa Tuyết, kể cả khi anh không cần nó trong một thời gian.”

“Mm-hmm.”

Họ đứng bên cửa sổ thêm khoảng một tiếng – mặt trời đã lặn, bầu trời dần ngả màu tím đen và những ngôi sao lập lòe hiện ra – nói chuyện về hành trình sắp tới và những thứ Eragon và Saphira phải mang theo khi rời Du Weldenvarden tới vùng đất xa xôi. Phía sau Ismira đang ngủ yên trong nôi, hai bàn tay nhỏ nhắn nắm lại đặt dưới cằm.

Sáng sớm hôm sau, Eragon dùng tấm gương phép bằng bạc liên lạc với Orik ở Tronjiheim. Nó chờ vài phút, rồi thấy gương mặt Orik hiện ra, ông lùn đang chải bộ râu bằng một chiếc lược ngà.

“Eragon!” Orik la lên vẻ vui sướng rõ ràng. “Em thế nào rồi? Đã lâu chúng ta không nói chuyện rồi?”

Eragon đồng ý, cảm thấy hơi có lỗi. Rồi nó nói với Orik về quyết định cùng những lý do nó rời đi. Orik ngừng chải, lắng nghe mà không ngắt lời, tỏ vẻ nghiêm túc. Khi Eragon kết thúc, Orik nói, “Anh sẽ rất buồn khi em đi, nhưng anh đồng ý, đó là chuyện em phải làm. Anh cũng đã nghĩ đến chuyện này – băn khoăn những con rồng sẽ sống ở đâu – nhưng anh không nói với ai hết, bởi lũ rồng cũng có quyền chia sẻ mảnh đất này như chúng ta vậy, kể cả khi chúng ta không muốn thích chúng săn Feldûnost hay đốt những ngôi làng. Tuy nhiên, nuôi nấng lũ rồng ở một nơi khác sẽ là tốt nhất.”

“Em mừng vì anh chấp thuận,” Eragon nói. Nó kể cho Orik về ý tưởng về các Urgal và người lùn nữa. Lần này Orik hỏi rất nhiều, Eragon có thể thấy ông thấy rất nghi hoặc đề nghị này.

Sau một hồi im lặng dài nhìn xuống bộ râu, Orik nói, “Nếu em đề đạt chuyện này với bất cứ grimstnzborithn trước anh, họ sẽ nói không ngay. Nếu em có nói với anh trước khi chúng ta tấn công Đế chế, anh cũng sẽ nói không. Nhưng giờ đây sau khi chiến đấu cùng Urgal, rồi tự mình thấy chúng ta vô dụng đến thế nào trước Murtagh hay Thorn hay Galbatorix hay con quái vật Shruikan ấy … giờ anh không còn thấy như vậy nữa.” Ông nhìn lên Eragon qua lông mày rậm rạp. “Điều đó có thể khiến anh mất ngôi vua, nhưng vì lợi ích của knurlan mọi nơi mà anh sẽ chấp nhận – vì lợi ích của họ, dù họ có nhận ra hay không.”

Một lần nữa Eragon thấy tự hào vì đã nhận Orik làm anh em kết nghĩa. “Cảm ơn anh,” nó nói.

Orik càu nhàu. “Dân tộc anh chẳng bao giờ muốn chuyện này cả, nhưng anh vẫn thấy mừng. Khi nào họ được biết?”

“Trong khoảng vài ngày. Nhiều nhất là một tuần.”

“Giống loài anh có cảm thấy gì không?”

“Có lẽ. Em sẽ hỏi Arya. Dù sao, em sẽ liên lạc lại với anh khi xong chuyện.”

“Tốt lắm, rồi chúng ta sẽ lại nói chuyện tiếp. Bảo trọng và cứng cáp nhé, Eragon.”

“Mong thần Helzvog dõi theo anh.”

Ngày hôm sau họ rời Ilirea.

Đó là một sự kiện riêng tư, không tiền hô hậu ủng, khiến Eragon rất mừng. Nasuada, Jörmundur, Jeod và Elva tiễn họ bên ngoài cổng Nam thành phố, nơi Saphira và Fírnen đang ngồi cạnh huých đầu nhau trong khi Eragon và Arya kiểm tra yên cương. Roran và Katrina đến sau vài phút: Katrina bế Ismira bọc trong một tấm chăn, Roran mang theo hai túi chứa thức ăn, chăn chiếu và mấy món khác hai bên vai.

Roran đưa túi cho Arya buộc vào trên túi yên Fírnen.

Rồi Eragon và Saphira nói lời từ biệt, giây phút khiến Eragon khó khăn hơn nhiều so với Saphira. Không chỉ có những dòng lệ, cả Nasuada và Jeod đều khóc khi họ ôm chặt nó, chúc nó và Saphira những lời tốt đẹp nhất. Nasuada cũng tạm biệt Roran, cảm ơn anh vì sự giúp đỡ chống lại Đế chế.

Cuối cùng khi Eragon, Arya, Roran và Katrina sắp leo lên mình hai con rồng, một giọng phụ nữ vang lên, “Đứng đấy!”

Eragon khựng lại, chân vẫn gác trên chân trước Saphira, thấy Birgit đang lao về phía họ từ cánh cổng, tấm váy xám phồng lên, và chàng trai trẻ con bà, Nolfavrell, đang theo sát bà với nét mặt vô vọng. Birgit cầm sẵn trên tay một tay gươm trần. Trên tay còn lại là một cái khiên gỗ.

Eragon chột dạ.

Lính gác Nasuada ngay lập tức dàn ra chắn giữa họ, nhưng Roran la lên, “Để họ qua!”

Nasuada ra hiệu cho lính gác lùi lại.

Vẫn không chậm lại, Birgit tiến thắng về phía Roran.

“Birgit, đừng thế,” Katrina thấp giọng, nhưng bà tảng lờ cô. Arya nhìn họ không chớp mắt, tay đặt vào chuôi gươm.

“Cây Búa Dũng Mãnh. Tôi luôn nói tôi sẽ giành lại đền bù từ cậu vì cái chết của chồng mình, và giờ tôi đến lấy nó đây, đó là quyền của tôi. Cậu sẽ chiến đấu với tôi, hay trả món nợ đây?”

Eragon bước đến bên Roran. “Birgit, vì sao dì làm thế? Sao lại là lúc này? Dì không thể tha thứ cho anh ấy và để đau thương lại phía sau sao?”

Anh có muốn em nuốt bà ấy không? Saphira hỏi.

Chưa đến lúc.

Birgit lờ nó đi, mắt vẫn dán vào Roran.

“Mẹ,” Nolfavrell kéo vạt váy bà, nhưng bà không để ý tới chàng trai.

Nasuada xen vào. “Tôi biết bà,” cô nói với Birgit. “Bà đã chiến đấu cùng những những đàn ông suốt cuộc chiến.”

“Vâng tâu Bệ Hạ.”

“Bà có tranh cãi gì với Roran vậy? Anh ấy đã chứng minh mình là một chiến binh tuyệt vời và rất có giá trị không chỉ một lần, tôi sẽ rất không vui nếu mất anh ta.”

“Anh ta và gia đình phải chịu trách nhiệm vì lũ lính đã giết chồng tôi.” Bà nhìn Nasuada một lúc. “Lũ Ra’zac đã ăn ông ấy, tâu Bệ Hạ. Chúng ăn rồi hút sạch tủy trong xương ông ấy. Tôi không thể tha thứ được, và tôi sẽ được đền bù vì chuyện đó.”

“Đó không phải là lỗi của Roran,” Nasuada nói. “Chuyện đó thật vô lý, ta nghiêm cấm đấy.”

“Không, không đâu,” Eragon nói dù nó ghét phải thế. “Theo tục lệ của chúng tôi, dì ấy có quyền được yên cầu trả giá bằng máu từ bất kì ai có trách nhiệm với cái chết của Quimby.”

“Nhưng đó không phải là lỗi của Roran!” Katrina la lên.

“Nhưng nó đúng là lỗi của anh,” Roran thấp giọng. “Anh có thể tự nộp mình cho bọn lính. Anh có thể dụ chúng đi. Hoặc anh có thể tấn công. Nhưng anh đã không làm vậy. Anh đã trốn đi, và bởi thế Quimby chết.” Anh nhìn sang Nasuada, “Đây là chuyện chúng tôi phải tự giải quyết với nhau, tâu Bệ Hạ. Đây là chuyện danh dự, cũng như Thử thách Trường Đao đối với người vậy.”

Nasuada cau mày nhìn Eragon. Nó gật đầu, nên cô miễn cưỡng lui lại.

“Thế nào đây, Cây Búa Dũng Mãnh,” Birgit hỏi.

“Eragon và tôi đã giết lũ Ra’zac ở Helgrind rồi,” Roran trả lời. “Như thế chưa đủ sao?”

Birgit lắc đầu không nao núng. “Không.”

Roran khựng người, cơ bắp trên cổ săn lại. “Đây có phải là thứ dì muốn không, Birgit?”

“Đúng vậy.”

“Vậy tôi sẽ trả món nợ của mình.”

Khi Roran nói xong, Katrina rền rĩ, lao vào chắn giữa anh và Birgit, vẫn bế đứa trẻ trong tay. “Tôi sẽ không để cho dì làm chuyện đó đâu? Gì không thể hại anh ấy! Không phải bây giờ! Không phải sau tất cả những thứ chúng ta đã trải qua!”

Khuôn mặt Birgit vẫn trơ như đá, không có vẻ gì sẽ lùi lại. Tương tự, Roran không tỏ cảm xúc gì khi ôm lấy eo Katrina, dễ dàng đẩy cô sang một phía. “Giữ lấy chị ấy, được không?” anh lạnh lùng nói với Eragon.

“Roran…”

Người anh họ nhìn chằm chằm nó, rồi quay sang Birgit.

Eragon đỡ lấy vai Katrina, cố giữ cô không lao đến Roran, rồi nó nhìn Arya kêu cứu. Cô liếc về phía thanh gươm của mình, nhưng nó lắc đầu.

“Thả chị ra! Thả ra!” Katrina gào lên. Đứa trẻ bắt đầu gào khóc trong vòng tay cô.

Không rời mắt khỏi người phụ nữ trước mặt, Roran tháo thắt lưng ra thả xuống mặt đất, cùng con dao, lẫn cây búa mà quân Varden tìm thấy trên đường phố Iilrea sau cái chết của Galbatorix. Rồi Roran cởi aoas khoác ra để lộ bộ ngực đầy lông.

“Eragon, tháo lưới phòng hộ của anh ra,” anh nói.

“Em…”

“Tháo ngay!”

“Roran, không!” Katrina thét lên. “Anh phải phòng thủ chứ.”

Anh ấy điên rồi, Eragon nghĩ thầm, nhưng không dám can thiệp. Nếu nó ngăn Birgit lại, nó sẽ làm nhục Roran, rồi dân cư thung lũng Palancar sẽ không còn tôn trọng anh họ nó nữa. Mà Eragon biết Roran thà chết còn hơn để chuyện đó xảy ra.

Dù sao, Eragon cũng không thể để Birgit giết Roran được. Nó sẽ để bà được trả giá, nhưng không hơn. Thầm thì thốt lên bằng cổ ngữ – để không ai có thể nghe thấy nó dùng từ gì – nó làm như Roran bảo, nhưng cũng đặt thêm ba lưới phòng hộ trên anh họ mình: một để bảo vệ xương sống cổ tổn thương; một để giữ xương sọ không bể; một để bảo đảm nội tạng được nguyên vẹn. Những vết thương khác thì Eragon tự tin có thể chữa nếu cần, nếu Birgit không chém đứt tứ chi.

“Xong rồi,” nó nói.

Roran gật đầu bảo Birgit, “Tới lấy nợ máu từ tôi đi, rồi hãy để cuộc tranh chấp giữa chúng ta chấm dứt.”

“Cậu sẽ không đánh lại tôi chứ?”

“Không.”

Birgit nhìn anh khong giây lát, rồi bà quăng khiến xuống đất, bước vài thước tới gần Roran. Bằng giọng nhỏ chỉ đủ Roran nghe thấy – dù Eragon và Arya dễ dàng nghe thấy bằng thính lực như mèo – nói. “Tôi yêu Quimby. Ông ấy là cuộc đời của tôi, và ông ấy chết bởi cậu.”

“Tôi xin lỗi,” Roran thì thầm.

“Birgit,” Katrina van nài. “Làm ơn…”

Không ai di chuyển, kể cả những con rồng. Eragon thấy mình đang nín thở. Tiếng khóc nấc nghẹn của đứa bé là tiếng động lớn nhất.

Rồi Birgit nhấc thanh gươm khỏi ngực Roran. Bà với ra tóm lấy tay phải anh rồi dí lưỡi gươm ngang lòng bàn tay. Roran nhăn mặt khi lưỡi gươm cắt vào, nhưng anh không rút lại.

Một nét đỏ thẫm xuất hiện trên da anh. Máu tràn ra lòng bàn tay và nhỏ từng giọt xuống, thấm vào đất vụn, chỉ để lại những vệt thẫm.

Birgit ngưng kéo thanh gươm , giữ yên nó trên tay Roran thêm một lúc. Rồi bà lui lai, hạ thấp thanh gươm lúc này một bên lưỡi đã nhuộm đỏ tươi. Roran dí ngón tay lên miệng vết thương, máu tươi trào ra giữa chúng, rồi ép bàn tay vào hông.

“Tôi đã được trả nợ,” Birgit nói. “Cuộc tranh chấp đã chấm dứt.”

Rồi bà quay lại, nhặt khiên lên, sải bước về thành phố, Nolfavrell bám theo sát gót.

Eragon thả Katrina ra, cô lao đến bên Roran. “Đồ ngốc,” cô cay đắng nói. “Đồ ngốc đầu heo ương bướng. Đây, để em coi.”

“Đó là cách duy nhất,” Roran nói, như thể đang ở xa lắm.

Katrina nhăn mặt, khuôn mặt căng thẳng kiểm tra vết cắt trên tay anh. “Eragon, em nên chữa lành nó.”

“Không,” Roran nói sắc gọn. Anh nắm bàn tay lại. “Không, đây là vết sẹo anh sẽ giữ.” Anh nhìn quanh. “Có mảnh vải nào tôi có thể dùng băng bó được không?”

Sau một giây bối rối, Nasuada chỉ vào một lính gác nói, “Xé phần dưới áo choàng ra đưa cho anh ta.”

“Chờ đã,” Eragon nói trong khi Roran bắt đầu quấn mảnh vải quanh tay. “Em sẽ không chữa lành, nhưng ít nhất để em ếm bùa ngăn vết cắt nhiễm trùng chứ, được không?”

Roran lưỡng lự. Rồi anh gật đầu đưa tay cho Eragon.

Eragon chỉ mất vào giây nói câu thần chú. “Đây,” nó nói. “Giờ nó sẽ không chuyển màu xanh tím rồi sung lên như miếng bóng lợn nữa.”

Roran nhăn mặt, Katrina nói, “Cảm ơn em Eragon.”

“Giờ chúng ta đi được chưa?” Arya hỏi.

Năm người bọn họ treo lên hai con rồng, Arya giúp Roran và Katrina an toàn trèo lên yên cương trên lưng Fírnen, đã được gắn thêm những vòng và dây đai bổ sung. Khi họ đã ngồi nghiêm chỉnh trên lưng con rồng xanh, Arya giơ tay. “Tạm biệt, Nasuada! Tạm biệt, Eragon và Saphira! Chúng tôi sẽ chờ các bạn ở Ellesméra!”

Tạm biệt!Fírnen cất tiếng trầm. Cậu chàng giang cánh nhảy lên, đập nhanh để nâng trọng lượng của cả bốn người, với sự giúp sức của hai Eldunarí Arya mang theo.

Saphira gầm lên sau cậu chàng, Fírnen cũng đáp lại bằng một tiếng kêu như tù và trước khi quay đi hướng theo phía Đông Nam về rặng Beor.

Eragon quay lại vẫy tay với Nasuada, Elva, Jörmundurvà Jeod. Họ cũng vẫy lại, Jörmundur la lên, “Chúc cả hai người may mắn!”

“Tạm biệt,” Elva cũng hét lên.

“Tạm biệt!” Nasuada hô lớn. “Bảo trọng!”

Eragon lần lượt đáp lại, rồi nó quay lưng không thể nhìn thêm được nữa. Saphira rùn mình phóng thẳng lên không trung, bắt đầu cuộc hành trình dài, rất dài của họ.

Saphira lượn vong lấy độ cao. Eragon thấy bên dưới Nasuada và những người khác đang chụm lại đứng gần bức tường thành, Elva nắm chặt chiếc khăn tay nhỏ nhắn, đang vẫy phần phật bởi những luồng gió từ Saphira phát ra.

Những hứa hẹn trong quá khứ và hiện tại (Promises, new and old)

Saphira bay từ Ilirea đến lâu đài Blödhgarm và các tiên nhân đang thu dọn các Eldunarí chuẩn bị cho chuyến đi. Các tiên nhân sẽ theo phía Bắc hướng tới Du Weldenvarden, rồi qua khoảng rừng bạt ngàn tới thành phố tiên nhân Sílthrim, nằm bên bờ hồ Ardwen. Ở đó họ và các Eldunarí sẽ đợi đợi Eragon và Saphira trở về từ Vroengard. Rồi họ sẽ cùng bắt đầu hành trình rời Alagaësia theo dòng Gaena chảy hướng Đông từ cánh rừng ra vùng đồng bằng phía xa. Tất cả bọn họ, trừ Laufin và Uthinarë chọn ở lại Du Weldenvarden.

Quyết định hộ tống nó của các tiên nhân khiến Eragon ngạc nhiên, nhưng cũng rất mừng rỡ. Như Blödhgarm nói, “Chúng tôi không thể phó mặc các Eldunarí được. Họ cần sự giúp đỡ của chúng tôi, cũng như những con rồng non một khi nở.”

Eragon và Saphira dành thêm nửa tiếng thảo luận cách vận chuyện những quả trứng với Blödhgarm, rồi Eragon gom Eldunarí của Glaedr, Umaroth cùng vài con rồng già; nó và Saphira sẽ cần tới sức mạnh của chúng ở Vroengard.

Chia tay các tiên nhân, Saphira và Eragon bay về phía Tây Bắc, Saphira sải cánh đập chậm rãi đều đặn hơn so với lần đầu tới Vroengard.

Khi cô nàng bay, nỗi buồn trùm lên Eragon, nó cảm thấy thật vọng lẫn tự kỷ. Saphira cũng buồn – bởi phải xa cách Fírnen – nhưng bầu trời trong xanh lẫn những luồng gió nhẹ khiến tinh thần họ khá hơn ngay. Tuy nhiên cảm giác mất mát nhạt nhòe vẫn vương vấn trong lòng Eragon, khiến nó nhìn mặt đấy với cảm giác mới mẻ, biết rằng mình sẽ không bao giờ còn thấy được cảnh ấy nữa.

Saphira bay nhiều dặm qua những đồng cỏ xanh tươi trải dài, cái bóng vĩ đại của cô nàng khiến chim muôn thú vật bên dưới sợ hãi chạy tán loạn. Rồi màn đêm buông xuống, họ không bay tiếp mà hạ trại bên một con lạch nhỏ nằm dưới đáy mương nước cạn, cùng ngắm nhìn những ngôi sao mọc lên, nói về những chuyện đã qua và sắp tới.

Cuối ngày hôm sau, họ tới làng Urgal giờ đã mọc lên gần hồ Fläm, nơi Eragon biết họ sẽ tìm thấy Nar Garzhvog và Herndall hội đồng tối cao của loài họ.

Bất chất phản kháng yếu ớt từ phía Eragon, các Urgal vẫn khăng khăng chiêu đãi nó và Saphria một bữa linh đình, nên nó mất cả buổi tối uống cùng Nar Garzhvog và những con đực của ông. Các Urgal làm ra thứ rượu từ dâu và vỏ cây mà Eragon thấy còn nặng hơn cả thứ rượu mật ong vô đối nhất của người lùn. Saphia có vẻ thích thú hơn nó nhiều – nó thì thấy cứ như anh đào hỏng ấy – nhưng nó vẫn uống cho vui lòng chủ nhà.

Rất nhiều các nữ Urgal cũng tới tò mò tới gặp nó và Saphira, bởi rất ít phụ nữ Urgal từng tham gia chiến đấu chống lại Đế chế. Họ có vẻ mảnh mai hơn những con đực nhưng cao ngang tầm, sừng của họ cũng có vẻ ngắn và mỏng hơn, dù vẫn rất đồ sộ. Đi cùng họ là lũ trẻ Urgal: những đứa nhỏ vẫn chưa mọc sừng, nhưng đứa lớn hơn đã bắt đầu có một cục u nhỏ trước trán khoảng từ một đến năm tấc. Khi không có sừng, trông chúng rất giống con người, trừ màu sắc làn da lẫn đôi mắt khác biệt. Một số đứa hiển nhiên là Kull, bởi chúng cao hơn bọn đồng lứa nhiều, kể cả cha mẹ mình. Đến lúc này Eragon có thể cho rằng không có cách nào xác định Urgal nào sẽ sinh ra Kull hay không. Một số cặp đôi là Kull cũng sinh ra những Urgal với vóc dáng bình thường cũng đủ khổng lồ rồi.

Cả tối đó, Eragon và Saphira chè chén cùng Garzhvog, Eragon cảm thấy như đang mơ khi nghe một Urgal tung lại câu chuyện về chiến thắng của Nar Tulkhqa tại Stavarosk – theo như Garzhvog giải thích cho Eragon hiểu được bằng thứ giọng Urgal mà so sánh với nó thanh âm của người lùn ngọt ngào như rượu pha mật ong vậy.

Buổi sáng ra, Eragon thấy người nó đầy những vết thâm, thành quả của những cú vỗ vai hay thụi đầy thân ái từ các Kull trong suốt buổi tiệc.

Cả đầu lẫn thân mình nhức nhối, nó cùng Saphira tới gặp Garzhvog để nói chuyện cùng Herndall. Mười hai trưởng lão họp trong một căn lều nhỏ hình tròn, ngập ngựa khói cây bách xù lẫn tuyết tùng cháy. Cánh cửa từ gỗ liễu vừa đủ lớn để Saphira chui đầu qua, vảy cô nàng tỏa sáng lấp lánh vào trong mảng lều tối.

Các trưởng lão rất già cả, vài người còn mù và sún hết. Họ mặc áo choàng với những nút thắt giống như những dây đai treo bên ngoài mỗi ngôi nhà, tạo thành dấu ấn riêng của mỗi bộ lạc. Mỗi thành viên Herndall đều mang một cây trượng khắc hoa văn Eragon không hiểu, nhưng nó biết chúng không hề vô nghĩa.

Qua lời dịch của Garzhvog, Eragon nói với họ phần đầu kế hoạch nhằm ngăn chặn những xung đột tương lai của Urgal với các giống loài khác, đó là các Urgal tổ chức những cuộc thi vài năm một, những cuộc đấu so sức mạnh, tốc độ và kĩ năng. Nhờ đó các Urgal trẻ có thể giành được vinh quang để kết đôi và khẳng định vị trí trong xã hội. Eragon đề nghị những cuộc thi sẽ mở ra cho mọi giống loài, cho phép Urgal có cách kiểm tra khả năng của họ đối với những kẻ địch trong quá khứ.

“Vua Orik và Nữ hoàng Nasuada đã đồng ý,” Eragon nói, “còn Arya, giờ là nữ hoàng tiên nhân cũng đang cân nhắc. Tôi tin rằng cô ấy cũng sẽ chúc phúc cho cuộc thi này.”

Các Herndall bàn bạc với nhau khoảng vài phút, rồi người già nhất có bộ râu trắng toát, sừng đã gần mòn sạch lên tiếng. Garzhvog dịch lại: “Ý của cậu tốt đấy, Hỏa Kiếm. Chúng ta phải nói với các bộ tộc để quyết định thời gian cho những cuộc thi, nhưng chuyện đó sẽ được tiến hành.”

Eragon vui mừng cúi chào và cảm ơn họ.

Một trưởng lão khác nói. “Chúng tôi thích chuyện này, Eragon à, nhưng chúng tôi không nghĩ rằng có thể dừng đánh nhau trong giống loài chúng ta được. Dòng máu chảy quá nóng, mình những cuộc thi thôi sẽ không đủ làm nguội nó đâu.”

Thế rồng có làm được không? Saphira hỏi kháy.

Một trưởng lão sờ lên sừng. “Chúng ta không nghi ngờ sự ghê gớm của giống loài người đâu, Lưỡi Lửa à.”

“Tôi biết dòng máu của các bạn rất nóng – hơn tất cả những loài khác,” Eragon nios. “Đó là lý do tôi có một ý khác.”

Các Herndall im lặng nghe nói giải thích, dù Garzhvog cựa mình không yên, thốt lên tiếng gầm gừ nho nhỏ. Khi Eragon nói xong, các Herndall không nói hay cử động trong vài phóng, làm Eragon cảm thấy không thoải mái trước những ánh mắt nhìn nó không chớp mắt.

Rồi Urgal bên phải ngoài cùng lúc lắc cây trượng, đôi chuông đá gắn trên trượng vang leng keng trong căn lều đầy khói. Bà nói chậm rãi, giọng trầm và đục, như thể lưỡi sưng lên. “Cậu sẽ làm vậy vì chúng tôi hả, Hỏa Kiếm?”

“Tôi sẽ làm,” Eragon lại cúi người.

“Nếu cậu làm thế, Hỏa Kiếm và Lưỡi Lửa à, thì các cậu sẽ là những người bạn vĩ đại nhất Urgralgra từng có, chúng tôi sẽ nhớ đến tên các cậu mãi mãi. Chúng tôi sẽ thêu lên một trong các thulqna (chú thích: mảnh vải treo như cờ hiệu trên lều Urgal – nd), sẽ khắc lên những cây cột trụ, và sẽ khi những con non nhú sừng, chúng sẽ được dạy về tên các cậu.”

“Vậy câu trả lời của các bạn là có?” Eragon hỏi.

“Đúng vậy.”

Garzhvog khựng lại rồi – Eragon nghĩ gã có vẻ tự nói một mình – lẩm bẩm, “Hỏa Kiếm, cậu không biết chuyện này có ý nghĩa thế nào với dân tộc tôi đâu. Chúng tôi sẽ mãi nợ ơn cậu.”

“Các bạn không nợ gì tôi hết,” Eragon nói. “Tôi chỉ ước giữ chúng ta không có chiến tranh nữa thôi.”

Nó nói chuyện cugnf các Herndall một hồi lâu nữa, thảo luận những điểm chi tiết trong thỏa thuận. Rồi nó và Saphira từ biệt, tiếp tục hành trình tới Vroengard.

Rồi tiếng túp lều thô kệch trong ngôi làng dần nhỏ đi phía sau họ, Saphira nói, Họ sẽ là những Kỵ Sỹ tốt đấy.

Anh hy vọng em đúng.

Phần còn lại cuộc hành trình không có biến cố gì cả. Họ không gặp cơn bão nào trên biển, chỉ có làn mây mỏng lưa thưa chắn trước mặt không có gì nguy hiểm, cùng những con mòng biển chao lượn trên không.

Saphria đáp xuống Vroengard trước căn nhà hoang lần trước họ nghỉ lại. Rồi cô nàng chờ đợi trong khi Eragon bước vào cánh rừng giữa những khóm cây tối thui phủ đầy địa y, cho tới khi nó gặp vài con chim ăn đêm, rồi một đám rêu lổm nhổm nhưng con dòi mà Nasuada từng kể Galbatorix gọi là bọ hang. Sử dụng tên của các tên, Eragon đặt cho chúng tên phù hợp bằng cổ ngữ. Những con chim ăn đêm gọi là sundavrblaka, còn những con bọ hang gọi là íllgrathr, cái tên thứ hai này làm nó cười chán nản, bởi nó có nghĩa là “đói cồn cào.”

Eragon thấy ổn thỏa, rồi trở lại chỗ Saphira, nghỉ ngơi và nói chuyện cả đêm với Galedr cùng các Eldunarí.

Bình mình lên, họ cùng tới Tảng đá Kuthian. Họ nói tên thật của mình, rồi bước qua cảnh cửa phủ đầy rong rêu vừa mở ra, đi xuống căn hầm bên dưới. Trong hang động tít dưới lòng đất, thắm sáng bằng một hồ đá nóng chảy nằm dưới miệng núi Erolas, người bảo vệ những quả trứng Cuaroc giúp họ đặt từng quả vào trong những ngăn chứa riêng. Rồi họ chất những cái tráp lên giữa căn phòng cùng với Eldunarí đã ở lại trong hang bảo vệ đám trứng.

Với sự giúp sức của Umaroth, Eragon ếm câu thần chú đã từng làm một lần, đặt những quả trứng và trái tim trong chiếc túi không gian sau lưng Saphria, nơi cả nó và cô nàng đều không thể đụng tới.

Cuaroc hộ tống họ ra khỏi căn hầm. Người đàn ông đầu rồng bước kêu loảng xoảng ầm ỹ lên nền hang khi họ leo lên mặt đất.

Khi họ ra ngoài, Saphira quặp Cuaroc giữa móng vuốt – ông quá lớn và nặng để ngồi yên trên lưng cô nàng – rồi bay lên khỏi thung lũng hình tròn nằm giữa lòng Vroengard.

Rồi Saphira bay qua vùng biển đêm rực sáng, qua rặng Spine với những đỉnh núi nhọn phủ băng tuyết, khe hở giữa chúng trông như những con sông tối tăm. Cô nàng rẽ về phía Bắc, bay qua Thung lũng Palancar – nơi cô nàng và Eragon lại nhìn thấy ngôi nhà tuổi thơ của họ – dù chỉ là từ tít trên cao – rồi họ bay qua vịnh Fundor, với những đợt sóng trông như lớp bọt không khí trông như những ngọn núi cuồn cuộn chảy. Rồi thành phố Ceunon, cùng những mái nhà dốc nhiều lớp và chạm khắc hình đầu rồng, là điểm đáng chú ý tiếp theo trước khi tới rìa Du Weldenvarden, đánh dấu bởi những câu gỗ thông cao và chắc chắn.

Những đêm họ cắm trại nghỉ bên những con suối và hồ nước, ánh lửa phản chiếu lên thân thể giáp trụ bóng loáng của Cuaroc, trong khi ếch nhái và côn trùng ca hát xung quanh. Thi thoảng họ lại nghe thấy tiếng tru của những đàn sói đi săn đêm.

Khi tới Du Weldenvarden, Saphira bay cả tiếng mới đến trung tâm khu rừng, nơi lưới phòng hộ của các tiên nhân ngăn cô nàng không tiến xa hơn được. Rồi cô nàng hạ cánh đi xuyên qua lớp rào chắn vô hình, cùng Cuaroc đi bên cạnh, rồi lại cất cánh bay.

Hàng dặm được bay qua rừng cây ngút ngàn, điểm xuyết vài hàng cây rụng lá – những cây sồi, bạch dương, cây du, cây dương, cây liễu – chạy dọc theo bờ sông. Qua ngọn núi mà Eragon không còn nhớ tên, rồi thành phố tiên nhân Osilon, rồi cánh rừng thông tưởng chừng vô biên, mỗi ngọn cây vừa riêng biệt vừa gần như giống hệt những cá thể xung quanh.

Cuối cùng tới chiều tối khi mặt trăng và mặt trời treo đối diện nhau trên màn trời trong xanh, Saphira tới Ellesméra, hạ cánh xuống giữa những ngôi nhà trong thành phố lớn nhất, và đáng tự hào nhất của các tiên nhân.

Arya và Fírnen đang chờ họ cùng Roran và Katrina. Khi Saphira tới gần, Fírnen ngẩng cao đầu dang cánh, gầm lên vui mừng khiến lũ chim đang bay cách cả dặm nháo nhào sợ hãi. Saphira đáp lại khi đáp xuống, đặt nhẹ Curoc trên mặt đất.

Erargon tháo đai trượt xuống lưng Saphira.

Roran chạy tới ôm nó vào lòng, vỗ mạnh vai nó trong khi Katrina ôm nó từ bên kia. Eragon cười, “A! Từ từ để em thở cái đã! Thế anh chị có thích Ellesméra?”

“Đẹp tuyệt vời!” Katrina mỉm cười.

“Anh nghĩ em hơi thổi phồng rồi đó,” Roran nói, “nhưng đúng là ấn tượng y như em nói. Ngôi nhà bọn anh đang ở …”

“Tialdarí Hall,” Katrina bồi.

Roran gật gù. “Đó đó. Nó cho anh vài ý tưởng cho bọn anh về việc tái thiết Carvahall. Rồi cả Tronjheim Farthen Dûr …” Anh lắc đầu huýt sáo nhẹ.

Eragon bật cười rồi đi theo họ dọc theo bờ rừng đến rìa Tây của Ellesméra. Arya đi cùng họ, ra dáng nữ hoàng giống mẹ cô từng chút một. “Mừng được gặp giữa đêm trăng Eragon à. Chào mừng trở lại!”

Nó nhìn cô. “Mừng được gặp lại, Khắc tinh của Tà thần.”

Cô mỉm cười cách nó dùng từ, khiến bóng hoàng hồn có vẻ sáng bừng lên dưới tàn cây đu đưa.

Rồi khi Eragon tháo yên cương Saphira, cô nàng cùng Fírnen cất cánh – dù Eragon biết Saphira đã mệt lử vì chặng đường dài – biến mất về phía Vách đá Tel’naeír. Trước khi đi, Eragon còn nghe Fírnen nói, sáng nayta bắt được ba con hươu. Chúng đang nằm đợi nàng trên bãi cỏ trước lều Oromis.

Cuaroc rảo bước theo Saphira, bởi những quả trứng vẫn đi cùng cô nàng, mà nghĩa vụ của ông là phải bảo vệ chúng.

Roran và Katrina dẫn nó đi qua những thân cây khổng lồ mọc khắp thành phố cho tới khi tới sát bờ cây thù du và thực quỳ, nơi hàng dãy bàn đang trải đầy đồ ăn. Rất nhiều tiên nhân, mặc áo choàng đẹp nhất, tiến ra chào Eragon bằng những câu reo hò êm tai, những điệu cười ngọt như mật hay những đoạn nhạc và lời ca.

Arya ngồi lên vị trí đầu bàn tiệc, con quạ trắng Blagden đang đậu trên một phiến gỗ bên cạnh, thi thoảng lại rên rỉ, thốt ra những câu vô nghĩa. Eragon ngồi cạnh Arya, họ cùng ăn uống chúc tụng cho đến đêm khuya.

Khi bữa tiệc sắp tàn, Eragon lẩn đi vài phút, chạy qua khoảng rừng tối tới cây Menoa, lần theo mùi vị lẫn tiếng động hơn là bằng mắt.

Rồi những ngôi sao lại hiện ra khi nó tới dưới bóng cây thông lớn vĩ đại. Nó khựng lại, thở chậm lãi bình tĩnh rồi bước lại thềm rễ tỏa ra từ thân cây.

Nó dừng lại trước bộ rễ khổng lồ, đặt tay lên phiến gỗ nứt nẻ. Nó vươn tâm thức tới ý thức chậm chạp của cái cây trước từng là một tiên nữ, nói:

Linnëa … Linnëa … Dậy đi! Tôi cần nói chuyện với người! Nó chờ đợi nhưng không thấy cái cây phản ứng, như thể nó đang cố giao tiếp với không khí hay lòng đất vậy. Linnëa, tôi cần nói chuyện với người!

Chợt một cơn gió thở dài qua tâm trí, rồi nó cảm thấy một ý nghĩ, mờ nhạt và xa xôi, vọng tới, Gì vậy, ô, Kỵ Sỹ…?

Linnëa, lần cuối tôi tới đây, tôi nói rằng sẽ cho người bất cứ thứ gì để đổi lấy thanh thép sáng dưới rễ người. Tôi sắp rời khỏi Alagaësia, nên giờ tôi đến hoàn thành nghĩa vụ trước khi đi. Người cần ở tôi chuyện gì, Linnëa?

Cây Menoa không trả lời, nhưng những cành cây của nó lay động nhẹ, lá cây rơi bồm bộp lên bộ rễ dưới khoảng đất trống, cảm giác vui vẻ toát ra từ ý thức nó.

Đi đi…, giọng nói thầm thì, rồi cái cây rút khỏi tâm trí Eragon.

Nó đứng nguyên tại chỗ vài phút, gọi cái cây, nhưng nó từ chối trả lời/ Cuối cùng, Eragon rời đi, cảm thấy như thể chuyện này vẫn chưa xong, dù cây Menoa hiển nhiên cho rằng ngược lại.

Ba ngày tiếp theo, Eragon bỏ thời gian đọc sách và quyển trục – rất nhiều trong số đó lấy từ thư viện của Galbatorix, được Vanir gửi tới Ellesméra theo yêu cầu của Eragon. Mỗi tối nó dùng bữa với Roran, Katrina và Arya, nhưng ngoài ra nó không gặp ai kể cả Saphira, bởi cô nàng vẫn còn ở cùng Fírnen bên Vách đá Tel’naeír, có vẻ không thích thú làm chuyện gì khác. Đêm đến, tiếng gầm rú của lũ rồng thường vang vọng khắp khu rừng, làm gián đoạn nó đọc sách, mỉm cười khi chạm vào tâm trí Saphira. Nó nhớ sự bầu bạn của Saphira, nhưng biết rằng cô nàng chỉ còn một khoảng thời gian ngắn bên Fírnen, mà nó thì tôn trọng cả hạnh phúc của cô nàng nữa.

Ngày thứ tư, khi nó đã đọc hết chỗ sách, nó tới thăm Arya, nói cho cô và các cô vấn kế hoạch của mình. Phải mất nửa ngày nó mới thuyết phục được họ rằng chuyện đó là cần thiết, và hơn nữa, khả thi.

Xong chuyện, họ tạm nghỉ dùng bữa. Khi hoàng hôn vừa tràn xuống, họ tập trung tại khoảng đất bên cây Menoa: nó, Saphria và Fírnen, Arya, ba mươi trưởng lão tiên nhân già cả và thông thái nhất, cùng Galedr và các Eldunarí mà Eragon và Saphira mang theo, cùng hai Người Bảo Hộ: tiên nữ Iduna và Nëya,hiện thân sống của hiệp định giữa loài rồng và tiên nhân.

Nhưng người bảo hộ cởi áo choàng, rồi – theo nghi thức cổ xưa – Eragon và những người khác bắt đầu hát, còn Iduna và Nëya nhảy múa, khiến những hình xăm rồng trên người họ có vẻ như trở thành một sinh vật hoàn chỉnh.

Khi bài ca lên tới cao tròa, con rồng tỏa sáng, rồi bắt đầu há mõm, giang cánh nhảy ra khỏi làn da của hai tiên nữ, bay lên cho tới khi chỉ còn đuôi rồng vẫn dính trên thân thể họ.

Eragon gọi con vật chói sáng, rồi khi đã được nó chú ý, Eragon giải thích điều mình muốn và hỏi xem con rồng có đồng ý hay không.

Cứ làm như ngươi muốn, Người-đồ-sát-Vua à, cái bóng nói. Nếu chuyện đó đảm bảo hòa bình toàn cõi Alagaësia, chúng ta không phản đối.

Rồi Eragon đọc lên từ một trong những cuốn sách của Kỵ Sỹ và thầm nói tên của cổ ngữ trong đầu. Các tiên nhân và lũ rồng cho nó mượn sức mạnh, dòng năng lượng từ họ chảy cuồn cuộn như dòng thác xoáy ào ạt trong cơ thể nó. Eragon dùng nó để ếm một thần chú đã dành cả ngày để hoàn thiện, loại thần chú chưa từng được thực hiện trong hàng thế kỉ: những câu thàn chú cổ xưa chảy trong lòng đất và những mạch núi. Với nó, Eragon mới dám thực hiện điều chưa từng ai làm bao giờ.

Với nó, Eragon thiết lập nên một hiệp ước mới giữa loài rồng và các Kỵ Sỹ.

Nó ràng buộc không chỉ các tiên nhân và con người với loài rồng, mà còn cả người lùn và Urgal, khiến bất kì ai trong số các giống loài này đều có thể thành Kỵ Sỹ.

Khi nó kết thúc từ cuối cùng, qua đó chứng nhận câu thần chú vĩ đại, mặt đất và không khí như rung chuyển. Nó cảm thấy như thể mọi thứ quanh họ – và có lẽ mọi thứ trên đời nữa – đang nhẹ nhàng chuyển dịch. Câu thần chú khiến nó, Saphira và lũ rồng kiệt sức, nhưng nó biết mình đã làm được một một chuyện vĩ đại, có lẽ là vĩ đại nhất đời nó.

Arya nài nỉ được tổ chức một bữa tiệc nữa đánh dấu sự kiện này. Dù đã mệt mỏi, Eragon vẫn cùng tham dự ăn mừng, hạnh phúc được được bầu bạn cùng cô và Roran, Katrina lẫn Ismira.

Dù sao đến giữa bữa tiệc, đồ ăn và âm nhạc đột nhiên khiến nó ngán ngẩm, thế là nó xin phép rút lui, bước ra khỏi chỗ ngồi cạnh Arya.

Anh có ổn không? Saphira hỏi từ phía bên cạnh Fírnen.

Nó mỉm cười nhìn lại cô nàng từ xa. Anh chỉ cần yên tĩnh một lát. Anh sẽ trở lại ngay. Nó lướt đi, rồi chậm rãi bước giữa hàng thông, thở sâu bầu không khí mát mẻ ban đêm.

Đi được khỏi bàn tiệc khoảng một trăm thước, Eragon nhìn thấy một tiên nhân gầy gò, vai nhô cao đang tựa mình vào bộ rễ khổng lồ của một thân cây, quay lưng về phía bữa tiệc. Eragon dợm bước tránh làm phiền tiên nhân, nhưng vừa lúc nó nhìn lên khuôn mặt của người đó.

Đó không phải là tiên nhân nào cả, mà chính là lão đồ tể Sloan.

Eragon khựng lại ngạc nhiên. Sau bao chuyện đã qua, nó gần như quên khuấy rằng Sloan – cha Katrina – cũng đang ở Ellesméra. Nó hơi lưỡng lự cân nhắc một chút, rồi nhẹ bước lại bên lão.

Cũng giống như lần cuối Eragon nhìn thấy lão, Sloan vẫn đeo một dải băng vải đen quấn quanh đầu, che đi lỗ hổng trước khi từng là đôi mắt lão. Nước mắt thấm lộ ra ngoài lớp vải, lông mày lão hằn lên nếp nhăn, còn đôi tay gầy guộc bóp chặt lẫn nhau.

Lão đồ tể nghe tiếng Eragon lại gần, quay sang phia Eragon nói, “Ai tới đó? Có phải ông không Adarë? Tôi bảo rồi, tôi không cần ai giúp hết!” Lời nói lão đầy cay đắng và giận giữ, nhưng cũng có nỗi u buồn trước đây Eragon chưa từng thấy.

“Là tôi, Eragon đây,” nó nói.

Sloan thẳng người dậy, như thể bị một cành cây nóng bỏng dí vào. “Mày! Mày lại tới cười lên nỗi khổ của tao hả?”

“Không, dĩ nhiên là không rồi,” Eragon thấy sợ ý nghĩ của lão. Nó lui chân lại cách vài thước.

“Tha cho tao nếu không tin mày. Khó tin là mày cố giúp đỡ hay hại ai đó đây.”

“Còn tùy vào quan điểm của ông.”

Sloan cong môi. “Lại một câu trả lời vòng vo kiểu tiên nhân, nếu tao từng nghe rồi.”

Phía sau lão, các tiên nhân đang tấu lên một bài hát mới trên nền sáo và tiêu, những tràng cười vui vẻ từ bữa tiệc vọng lại phía Eragon và Sloan.

Lão đồ tể hất hàm ra dấu. “Tao có thể nghe thấy con bé.” Những giọt nước mắt long lanh chảy ra dưới lên vải. “Tao vẫn có thể nghe tiêng, nhưng không thể được nhìn con bé. Còn câu thần chú đáng nguyền rủa của mày lại không cho tao nói chuyện với nó.”

Eragon im lặng, không biết phải nói gì.

Sloan tựa đầu vào rễ cây, nuốt nước bọt. “Các tiên nhân bảo tao rằng đứa trẻ, Ismira ấy, rất khỏe và mạnh mẽ.”

“Đúng vậy. Cô bé là đứa trẻ mạnh mẽ, ồn ào nhất tôi từng thấy. Nó sẽ là một người phụ nữ rất tuyệt.”

“Hay lắm.”

“Ông sống như thế nào? Vẫn tiếp tục chạm khắc chứ?”

“Các tiên nhân vẫn báo cho mày về tao, phải không?” Trong khi Eragon đang quyết định nên trả lời thế nào – nó không muốn Sloan biết mình đã tới thăm lão trước đây – lão lại nói, “Tao cũng đoán vậy. Thế mày nghĩ tao sống thế nào? Tao sống trong bóng tối, suốt từ hồi ở Helgrind, chẳng làm được gì ngoài việc làm sưng vù đầu ngón tay trong khi lũ tiên nhân làm phiền tao hết chuyện này đến chuyện kia, chẳng để tao yên phút nào hết!”

Một tiếng cười lại vang lên phía sau họ. Eragon có thể nhận ra trong đó giọng của Katrina.

Khuôn mặt Sloan nhăn nheo vì cau có. “Rồi mày còn phải tới và mang con bé tới Ellesméra nữa. Chỉ mỗi việc lưu đày tao chắc không đủ phải không? Không, mày phải tra tấn tao, để tao biết đứa con và đứa cháu duy nhất đang ở đây, mà tao không thể nào nhìn chúng lẫn gặp chúng.” Sloan nhe răng, như thể sắp lao tới Eragon. “Mày đúng là đồ vô lại vô lương tâm, chính thế đấy.”

“Tôi có quá nhiều trái tim rồi,” Eragon nói, dù nó biết lão đồ tể sẽ không hiểu.

“Bah!”

Eragon lưỡng lự. Có vẽ sẽ nhân từ hơn nếu cứ để Sloan tin rằng Eragon muốn hại lão hơn là cho lão biết nỗi đau của lão là bởi sự đãng trí của nó.

Lão đồ tể quay lưng, thêm nhiều giọt lệ chảy xuống má. “Biến đi,” lão nói. “Cút khỏi mắt tao ngay. Và đừng bao giờ làm phiền tao nữa Eragon, nếu không tao thề một trong hai ta sẽ phải chết.”

Eragon chọc chọc xuống cành cây trên mặt đất, rồi đứng dậy nhìn chăm chú Sloan. Nó không muốn rời đi. Những gì nó gây ra cho Sloan khi đưa Katrina tới Ellesméra có vẻ sai trái và tàn nhẫn. Cảm giác tội lỗi dày vò Eragon càng lúc càng mạnh, cho tới khi nó ra một quyết định khiến mình bình tâm lại.

Bằng giọng chỉ như thì thầm, nó dùng tên của cổ ngữ để thay đổi thần chú đã ếm lên Sloan. Sau hơn một phút khi nó đã gần hoàn thành xong lời chú, Sloan gầm gừ nghiến răng, “Dừng ngay lời lẩm bẩm đáng nguyền rủa của mày lại Eragon, và biến đi. Cút đi cho khuất mắt tao, mẹ kiếp! Cút đi!”

Nhưng Eragon không rời đi, mà tiếp tục một thần chú mới. Nó rút ra từ hiểu biết của các Eldunarí và các Kỵ Sỹ đồng hành với chúng, rồi hát lên một thần chú nuôii dưỡng, phục hồi lại những thứ đã qua. Đó là một việc khó khăn, nhưng kĩ năng của Eragon đã hoàn thiện hơn rất nhiều, nó hoàn toàn có khả năng làm được chuyện mình muốn.

Khi Eragon hát, Sloan giật cục, rồi lão bắt đầu nguyền rủa và cào cấu bằng hai tay lên má và lông mày, như thế đang lên cơn ngứa điên cuồng.

“Khỉ thật! Mày làm gì với tao vậy?”

Kết thúc câu chú, Eragon ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng tháo dây vải trên đầu Sloan. Sloan rít lên khi thấy miếng vải bị kéo ra, rồi lão vươn tay cản Eragon lại, nhưng quá chậm chạp, đôi tay lão vờn vờn trong không khí.

“Mày còn tước luôn cả lòng tự trọng của tao hả?” giọng Sloan căm hờn.

“Không,” Eragon đáp. “Tôi sẽ trả lại nó. Mở mắt ông ra.”

Lão đồ tể do dự. “Không. Tao không thể. Mày đang cố lừa tao.”

“Tôi làm thế bao giờ nào? Mở mắt ra, Sloan, rồi nhìn con gái và cháu gái ông đi.”

Sloan rùng mình, rồi lông mi lão chầm chậm nhấc lên, thay vì khoảng trống rỗng tuếch như trước là một đôi mắt rực sáng. Không như đôi mắt từng có, giờ đây mắt Sloan mang màu xanh như bầu trời giữa trưa và phát sáng rực rỡ.

Sloan chớp mắt, con người thu lại cố điều chỉnh quen với ánh sáng giữa khu rừng. Rồi lão bật dậy, vặn mình nhìn qua đám rễ xuống bữa tiệc phía xa. Ánh sáng từ những ngọn đèn-không-lửa trải ấm áp lên mặt lão, khiến lão có vẻ tràn đầy sự sống và niềm vui. Eragon nhìn sự thay đổi biểu tình đáng kinh nghạc của lão, cảm thấy nước mắt mình cũng đang trào ra.

Sloan tiếp tục nhìn chăm chú, như thể người lữ hành đói khát nhìn dòng sông trong lành trước mắt. Giọng lão khàn khàn cất lên, “Con bé đẹp quá. Cả hai trông đẹp tuyệt vời.” Rồi lão cười ha hả. “A…, nó còn rất hạnh phúc nữa. Cả Roran cũng vậy.”

“Từ bây giờ, ông có thể nhìn họ nếu muốn,” Eragon nói. “Nhưng thần chú của tôi vẫn sẽ ngăn ông nói chuyện, hoặc lô diện hoặc liên lạc với họ bằng cách nào đi nữa. Nếu ông thử thì tôi sẽ biết ngay.”

“Ta hiểu,” Sloan lẩm bẩm. Lão quay lại, nhìn chằm chằm Eragon không thoải mái. Quai hàm lão dợm lên xuống vài giây, như thể đang nhai cái gì đó, rồi nói, “Cảm ơn cậu.”

Eragon gật đầu đứng dậy. “Tạm biệt, Sloan. Ông sẽ không gặp lại tôi nữa đâu, tôi hứa đấy.”

“Tạm biệt, Eragon.” Rồi lão đồ tể lại quay mình nhìn đăm đăm vào bữa tiệc sáng tưng bừng.

Di Sản Thừa Kế – Inheritance

Di Sản Thừa Kế – Inheritance

Status: Completed Author:

Inheritance (Di Sản Thừa Kế) là cuốn sách thứ tư và cuối cùng trong bộ Inheritance Cycle của nhà văn người Mỹ Christopher Paolini.

Inheritance (Di Sản Thừa Kế) bắt đầu khi quân Varden tấn công Belatona, một thành phố của Đế quốc. Trong trận chiến, Saphira, cô em rồng của Eragon, suýt bị giết chết bởi một Dauthdaert (ngọn giáo chết chóc) có tên là Niernen - vốn là một vũ khí được chế tạo từ thời Chiến tranh Rồng nhằm phá hủy hàng rào bảo vệ ma thuật và tiêu diệt rồng. Belatona nhanh chóng bị Varden nắm giữ, và sau đó một mối liên hệ đồng minh được thành lập giữa Varden và các ma mèo. Grimmr (vua của các ma mèo) yêu cầu một vị trí bên cạnh ngai vàng ở Urû'baen nếu Varden chiến thắng cho cái giá của sự liên minh này.

Sau đó, người anh họ Roran của Eragon được giao cho nhiệm vụ khó khăn là đánh chiếm thành phố Aroughs. Roran liều mình thực hiện kế hoạch táo bạo của mình và Aroughs bị khuất phục, mặc dù quân của Roran bị thương rất nhiều. Roran quay trở lại khi Varden đã tiến đến Dras-Leona và đang lên kế hoạch tấn công thành phố này. Murtagh và con rồng Thorn của hắn đang bảo vệ tại đây, do đó Varden không có cơ may nào để tấn công thành phố trực tiếp. Học giả Joed tìm ra thông tin về lối vào của hệ thống cống rãnh xây dựng dở dang dưới lòng thành phố. Tin vào giả thuyết về sự tồn tại của đường hầm bí mật này, Eragon dẫn đầu một nhóm nhỏ (gồm Eragon, Arya, bà lang Angela, mèo ma Solembum, và một thần tiên vệ sĩ tên Wyrden) tiến vào thành phố để mở cổng thành cho quân Varden…

Mới ngày nào Eragon - Khắc tinh của Tà Thần - chỉ là một cậu bé nông dân nghèo khổ và Saphira - con rồng của cậu chẳng gì khác hơn là một hòn đá xanh dương trong rừng. Vậy mà giờ đây, số phận của cả dân tộc đặt lên vai cả hai. Những tháng ngày được huấn luyện, những trận chiến chinh đã đem về vinh quang và hy vọng nhưng Eragon và Saphira cũng phải gánh chịu những mất mát đau lòng. Nhưng cuộc chiến thật sự vẫn còn ở phía trước: trận đấu với Galbatorix.

Eragon và Saphira đã tiến xa hơn trong tưởng tượng của bất kỳ ai. Nhưng hai anh em có thể lật đổ nhà vui tàn ác, dành lại công lý cho đất nước Alagaesia không? Cái giá phải trả là gì?

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset