Ngày 24 tháng 7, buổi trưa
Roma, Italy
Mất quá nhiều thời gian để sắp xếp một bữa ăn trưa.
Trung úy Rachel Verona leo xuống bậc thang hẹp chạy sâu dưới lòng nhà thời San Clemente. Việc khai quật phía dưới nhà thờ đã được một nhóm nhà khảo cổ học thuộc trường Đại học Naples giám sát từ hai tháng nay. “Lasciate ogni speranza…” Rachel lẩm bẩm.
Dẫn đường cho Rachel là giáo sư Lena Giovanna, phụ trách dự án, quay lại phía sau liếc nhìn cô. Giáo sư là một người đàn bà cao lớn, tuy mới ở độ tuổi năm mươi nhưng cái dáng vẻ cúi gập thường xuyên làm cho bà già và thấp đi hẳn. Bà cười với Rachel giọng mệt mỏi: “Vậy là cô đọc Dante Alighieri. Và chắc chắn đọc bằng văn bản gốc tiếng Latinh. Lasciate ogni speranza, hãy từ bỏ hy vọng, hỡi những ai bước vào đây”.
Rachel cảm thấy bối rối. Theo Dante, những từ đó được viết trên những cánh cửa dẫn vào Địa ngục. Thực ra cô chả muốn ai nghe được câu nói của mình cả nhưng do ở đây độ truyền âm quá tốt nên chả có gì là riêng tư được cả. “Không sao, thưa giáo sư”.
Một cái chặc lưỡi trả lời cô. “Không có gì, thưa trung úy. Tôi chỉ ngạc nhiên khi phát hiện thấy có người trong quân cảnh lại thành thạo tiếng Latinh như vậy. Thậm chí ngay cả người làm việc cho cảnh sát di sản văn hóa….
Rachel hiểu được quan niệm sai trái này. Quả là rất thông thường khi vẽ lê tất cả lực lượng quân cảnh bằng một chiếc bút vẽ. Hầu hết dân thường chỉ nhìn thấy những người đàn ông hay đàn bà mặc cảnh phục trang bị với khẩu súng thường đứng gác trên hè phố và các tòa nhà. Nhưng cô lại gia nhập quân cảnh không phải như một người lính mà là một cử nhân tốt nghiệp đại học về môn tâm lý và lịch sử nghệ thuật. Cô được tuyển mộ vào quân cảnh ngay sau khi ra trường, dành thêm hai năm tại trường huấn luyện sĩ quan về luật quốc tế. Chính cô đã được Rende, chỉ huy lực lượng đặc biệt chuyên điều tra các vụ đánh cắp tranh nghệ thuật và đồ cổ có tên là Tutela Patrimonio Culturale lựa chọn.
Đi đến cuối cầu thang, Rachel giẫm vào một vũng nước bẩn. Cơn bão từ mấy hôm trước đã làm ngập tầng ngầm. Cô nhìn xuống ngán ngẩm. Ít nhất phải ngập đến mắt cá chân.
Rachel đang xỏ một đôi ủng cao su đi mượn nhưng hơi rộng, thực ra là ủng đàn ông. Cô cầm trên tay đôi giày mới mác Ferragamo, một món quà sinh nhật của mẹ. Cô không dám để đôi giày ở cầu thang. Kẻ cắp hầu như có mặt khắp nơi. Nếu cô đánh mất đôi giày hoặc chỉ làm bẩn thôi cũng suốt ngày sẽ phải nghe mẹ cằn nhằn.
Ngược lại, giáo sư Giovannan lại mặc một chiếc áo khoác thật khắc khổ, trông có vẻ hợp với những di vật bị ngập nước hơn là chiếc quần lính thủy và áo khoác bằng lụa vẽ hoa của Rachel. Máy nhắn tin của cô đã réo rắt từ mười lăm phút trước đây nên Rachel đã phải hộc tốc đến chỗ hẹn ăn trưa với mẹ và chị. Cô cũng chả chó thời gian về căn hộ của mình để mặc bộ cảnh phục. Ngay cả nếu như cô có cơ hội thực hiện bữa trưa đó đi chăng nữa.
Vậy cô đã đến thẳng đây, gặp gỡ vài cảnh sát địa phương. Cô chia tay với họ ngay ở chỗ nhà thờ để tiến hành điều tra sơ bộ vụ trộm.
Thực ra về mặt nào đó, Rachel cũng thở phào nhẹ nhõm là tạm chưa phải ăn trưa với mẹ nữa. Cô đã cố để một thời gian dài không cho mẹ biết cô và Ginô đã chia tay. Thực tế, người bạn trai cũ đã dọn đi được hơn một tháng rồi. Rachel có thể hình dung được nỗi thất vọng trong đôi mắt mẹ cùng câu ca cẩm như mọi lần: mẹ đã nói với mày như vậy rồi và thường lại nói rất to. Còn bà chị,d đã kết hôn được hơn ba n ăm, sẽ lại ngồi vặn vẹo chiếc nhẫn kim cương đeo ở ngón tay, gật gật đầu một cách thật ngoan đạo.
Cả hai đều chưa bao giờ hài lòng với sự lựa chọn nghề nghiệp của Rachel.
“Cậy thì mày làm sao có thể giữ được chồng, hả con bé ngốc nghếch kia?” Mẹ cô ca cẩm, hai tay giơ lên trời: “Mày lại còn để tóc ngắn thế này à. Ai lại đi ngủ với một khẩu súng…Chả có thằng đàn ông nào chấp nhận chuyện này cả…”
Chính vì vậy, Rachel không mấy khi rời Roma để đi thăm gia đình ở vùng nông thôn Castel Gandolfo, nơi gia đình họ định cư từ sau Thế chiến thứ Hai bên bóng cây rợp mát của lâu đài nghỉ hè của Giáo hoàng. Chỉ có bà ngoại cô hiểu được Rachel. Cả cô và bà đều chia sẻ niềm say mê với đồ cổ và súng đạn. Từ khi lớn, Rachel đã biết chăm chú lắng nghe khi bà kể chuyện về thời chiến tranh: những câu chuyện kinh khủng xen lẫn chuyện hài hước ma quỷ. Bà cụ thậm chí còn giữ một khẩu Luger P-08 luôn được lau dầu và đánh bóng kỹ lưỡng từ thời phát xít trong ngăn bàn cạnh giường, chiến dịch từ vụ lấy trộm của gã lính biên phòng khi gia đình đi tản cư. Đối với bà cụ chưa bao giờ thấy có món chiến lợi phẩm nào bằng sợi đan lát cả.
“Ngay ở trên kia kìa”. Vị giáo sư nói. Bà vươn người đi trước ra cửa. “Các sinh viên của tôi đang canh gác ở chỗ công trường”.
Rachel đi sau bà, lom khom chui qua một cái cửa thấp. Cô đứng thẳng bên trong một căn phòng giống như cái hang. Ánh sáng đèn măng-sông, rồi đèn ắc quy rọi vào vòm cuốn trên mái do các tảng nham thạch núi lửa gắn kết bằng vôi vữa với nhau một cách vụng về. Một loại hang động do con người làm ra. Rõ ràng đây là một ngôi đền thời La Mã.
Khi Rachel bước vào bên trong, cô rất hiểu sức nặng của cả toàn nhà thờ ở trên nóc. Để thờ Thánh Clement vào thế kỷ thứ XII, nhà thờ hiện nay được xây cất trên một ngôi nhà thờ cổ đại từ tận thế kỷ IV. Nhưng ngay cả ngôi nhà thờ cổ đại này cũng ẩn chứa một bí mật sâu thẳm: Vết tích của một vương triều từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, gồm những tòa nhà thời La Mã trong đó có ngôi đền này. Những ngôi đền được xây dựng đè lên nhau như vậy không phải là hiếm hoi, một thứ tôn ngào này chôn vùi tôn giáo khác, một sự giai tầng hóa lịch sử La Mã.
Rachel nhận thấy rõ sự háo hức đang dâng lên trong cô, giống như sức ép của thời gian cũng như sức nặng của đá. Dù cho thế kỷ này đã vùi lấp thế kỷ khác nhưng chúng vẫn ở đây. Lịch sử cổ xưa của nhân loại được lưu giữ trong đá cùng với sự im lặng. Đây là một nhà thờ cũng phong phú và súc tích như nhà thờ hiện hữ phía trên kia.
“Đây là hai sinh viên trong trường đại học của tôi, Tia và Robetto”. Bà giáo sư giới thiệu.
Rachel cuối cùng cũng để ý đến chàng trai và cô gái đó, cả hai đều tóc đen, ăn mặc giống nhau với những bộ quần áo lem luốc. Họ đang moi lên những mảnh gốm vỡ. Một tay vẫn cầm đôi giày, Rachel dùng tay kia bắt tay họ. Dù đang học đại học nhưng trông họ như chưa đến mười lăm tuổi. Chắc là như vậy vì cô vừa kỉ niệm ngày sinh thứ ba mươi của mình mới đây thôi và mọi người xem ra đều trẻ ra trừ cô.
“Lại đây”, giáo sư nói rồi dẫn Rachel tới góc tường bên kia. “Những kẻ ăn cắp chắc phải hành động lúc xảy ra cơn bão đêm qua”.
Giáo sư Giovanna soi ngọn đèn pin vào một bức tường cẩm thạch đứng ở góc phía xa. Nó cao khoảng một mét, có vẻ như vậy nếu như cái đầu pho tượng không bị mất. Những gì còn lại là cái thân tượng, đôi chân và cái dương vật thòi ra ngoài. Một vị thần sinh đế thời La Mã.
Giáo sư lắc đầu: “Một thảm kịch. Đây là bức tượng duy nhất nguyên vẹn còn lại được tìm thấy ở đây”.
Rachel hiểu được nỗi bực bội của bà. Cô lấy bàn tay không cầm giày xoa quanh vết cắt trên cổ pho tượng. Ngón tay của cô cảm thấy sự thô ráp như ở những ca tương tự. “Rìu cưa” cô lẩm bẩm.
Thứ công cụ đó những kẻ trộm mồ mà chuyện nghiệp thời nay thường sử dụng, dễ giấu và dễ hành động. Với loại công cụ đơn giản như vậy, bọn kẻ cắp đã ăn trộm, phá hủy, cướp đi không biết bao nhiêu kiệt tác nghệ thuật khắp vùng Roma. Chỉ có một loáng là có thể thực hiện được vụ trộm, thậm chí vào ban ngày khi nhân viên bảo tàng quay lưng lại. Và phần thường thường cũng tương xứng với sự mạo hiểm bỏ ra. Buôn bán đồ cổ ăn cắp vẫn là một nghề béo bở, chỉ thua buôn ma túy, rửa tiền và bán vũ khí. Chính vậy mà quân đội đã thành lập lực lượng cảnh sát chuyên về di sản văn hóa, từ năm 1992. Cộng tác với Interpol, họ cố gắng ngăn chặn cơn đại dịch này.
Rachel ngồi xổm trước pho tượng, người cô như cảm thấy nóng bừng. Dần dà từng thứ, từng thứ một, lịch sử La Mã đang bị xóa sổ. Đây là một thứ tội ác chống thời đại.
“Ars longa, vita brevis, cuộc sống thì ngắn ngủi nhưng nghệ thuật lại vĩnh hằng.” Rachel khẽ thầm thì, một câu dẫn Hippocrates, một trong những tác gia yêu thích của cô.
“Đúng vậy”. Giáo sư nói giọng mệt mỏi. “Đây quả là một phát hiện có giá trị. Một công trình của cưa, rìu, những chi tiết tinh tế, một tác phẩm của một nghệ thuật bậc thầy. Vậy mà đã bị phá hoại một cách dã man…”
“Thế tại sao bọn khốn kiếp đó không ăn trộm cả pho tượng?” Một trong hai sinh viên, Tia nói:”Ít nhất cũng còn giữ được pho tượng nguyên vẹn”.
Rachel lấy một chiếc giày khẽ đập vào pho tượng. “Dù cho chúng lấy trộm thật thuận tiện ở đây nhưng di vật này quá lớn. Tên trộm chắc đã được một kẻ buôn bán tầm cỡ quốc tế đặt. Cái đầu pho tượng dễ di chuyển ra khỏi biên giới hơn”.
“Liệu có cơ may thu hồi lại được không?” Giáo sư Giovanna nói.
Lúc này Rachel chưa thể đưa ra lời hứa hẹn vội vã nào cả.
“Trong số sáu nghìn cổ vật bị mất cắp năm ngoái người ta chỉ lấy lại được rất ít. Tôi cần ảnh của pho tượng nguyên thể để gửi cho Interpol, tốt nhất nên tập trung vào phần bản thân của pho tương”.
“Chúng ta đã có cơ sở dữ liệu”. Giáo sư Giovannan nói. “Tôi có thể gửi các bức ảnh qua email”.
Rachel gật đầu nhìn chăm chú vào pho tượng mất đầu. “Liệu Roberto đứng đằng kia có thể nói cho chúng ta biết anh ta đã làm gì với cái đâu tượng?”
Giáo sư quay sang nhìn cậu thanh niên.
Roberto lui lại một bước. “Cái…cái gì?”. Cặp mắt của cậu ta đảo quanh căn phòng rồi dừng lại ở chỗ người thầy mình. “Thưa giáo sư…thật ra, em chả biết gì cả. Thật là điên rồ”.
Rachel tiếp tục nhìn chăm chăm vào pho tượng bị mất đầu, rồi một dấu vết xuất hiện với cô. Cô đã cân nhắc chuyện tiến hành ngay ở đây hay tại đồn. Nhưng điều đó có nghĩa sẽ phải phỏng vấn tất cả mọi ngươi, thu thập hết lời khai, một đống các thứ giấy tờ. Cô nhắm mắt lại, nghĩ đến bữa ăn trưa đã quá muộn. Hơn nữa, nếu như có chút cơ may lấy lại được cái đầu pho tượng thì phải hành động thật nhanh.
Mở to đôi mắt, cô như nói với pho tượng: “Ngươi có biết rằng sáu mươi tư phần trăm số vụ trộm cổ vật đều được số công nhân làm việc trực tiếp tại hiện trường hỗ trợ không?” Cô quay về phía ba người.
Giáo sư Giovanna chau mày: “Này thực sự cô không tin Roberto…”
“ Các vị phát hiện ra pho tượng khi nào?” Rachel hỏi.
“Hai hôm trước đây. Nhưng tôi đã đưa phát hiện của chúng tôi lên mạng internet của trường Đại học Naple. Nhiều người đã biết.”
“Nhưng liệu bao nhiêu người biết cổng trường này không có người gác trong trận bão đêm qua?” Rachel vẫn tập trung vào một người.
“Roberto, anh có gì để nói không?”
Khuôn mặt cậu ta trông y như chiếc mặt nạ đông cứng lại. “Tôi…không…tôi chả liên quan gì đến chuyện đó cả.”
Rachrl lấy chiếc máy bộ đàm từ thắt lưng ra. “Vậy cậu không phiền nếu chúng tôi lục soát đồ nhé. Biết đâu khi tìm thấy lưỡi cưa người ta phát hiện vết đá cẩm thạch sót lại khớp với pho tượng này…”
Một ánh mắt ngây dại lóa lên trong cặp mắt cậu ta. “Tôi…tôi”.
“Mức phạt tối thiểu là năm năm tù giam.” Cô tiếp tục ép. “Obbligatprio. Theo luật như vậy”.
Dưới ảnh đèn ác quy, mặt cậu ta tái dại.
“Luật phát thì như vậy nhưng nếu cậu chịu hợp tác. Chúng tôi có thể khoan hồng.”
Cậu ta lắc đầu, nhưng không rõ là cậu ta đang từ chối cái gì.
“Cậu vẫn còn cơ hội.” Cô giơ chiếc máy bộ đàm lên ngang miệng. Tiếng rin rít của máy chiếc bộ đàm có thể nghe vọng rất rõ trên vòm cong khi Rachel mở nút.
“Không!” Roberto giơ tay lên như thể muốn ngăn cô lại.
Im lặng kéo dài. Rachel không muốn phá vỡ. Cô cứ để sức ép tăng dần.
Cuối cùng thì Roberto òa lên khóc nức nở. “Em trót sa vào cảnh nợ nần… nợ vì đánh bạc. Em không còn cách nào khác”.
“Mio Dio” giáo sư văng tục vỗ vỗ tay lên trán. “Roberto, tại sao cậu lại…?”
Cậu sinh viên không trả lời.
Rachel hiểu sức ép đè nặng lên cậu. Điều đó chả có gì là lạ cả. Cậu ta chỉ là một con ốc vít nhỏ trong một tổ chức lớn hơn, trải rộng và có nhiều chân rết, thật khó có thể nhổ đi tất cả. Điều tốt nhất Rachel hy vọng là có thể vặt đi những cỏ dại.
Cô nhấc chiếc máy bộ đàm lên: “Cảnh sát Gerad, tôi đang cùng ở với một người có thêm thông tin bổ sung” “-capito, Tenente-“
Cô tắt máy bộ đàm. Roberto đứng đó, hai tay ôm mặt, sự nghiệp của cậu đã tan thành mây khói.
“Làm sao cô biết được…?” Giáo sư gặng hỏi.
Rachel chả muốn giải thích với bà rằng không có gì lạ khi những thành viên của tố chức tội phạm luôn tìm cách lôi kéo, van nài hoặc dọa dẫm số công nhân làm việc ở các điểm khai quật.Tình trạng tham nhũng vì vậy trở nên phổ biến, thường rơi vào những kẻ không mấy ai nghi ngờ,những kẻ ngây thơ.
Cô quay ngoắt khỏi Roberto. Điều đó luôn luôn chỉ là tìm ra ai trong tốp làm khảo sát là khâu yếu nhất> Với gã thanh niên này,cô chỉ làm một phỏng đoán có tính toán rồi dùng áp lực để thể nghiệm xem mình có đúng không. Thật ra quả là hơi mạo hiểm khi cô ra tay hơi sớm. Nếu đó là Tia thì mọi việc sẽ ra sao? Trong lúc Rachel theo đuổi dấu vết sai lầm thì Tia có thể đánh tín hiệu với những kẻ muốn mua đồ. Còn nếu như đó là giáo sư Giovannna, muốn tìm cách tăng thêm nguồn thu bên cạnh đồng lương giáo sự bằng cách bán chính khai quật của mình? Vậy có nhiều cách làm cho sự việc có thể tồi tệ đi. Nhưng Rachel đã biết được rằng phải mạo hiểm thì mới có thể giành được phần thưởng.
Giáo sư Giovanna vẫn nhìn cô, vẫn một câu hỏi trong đôi mắt của bà. Làm sao cô ta biết được để buộc tội Roberto.
Rachel nhìn vào cái dương vật bằng đá. Chỉ cần có một dấu vết nhưng chí ít là một dấu vết quan trọng. “Không chỉ có cái đầu tượng được bán rất đắt ở thị trường chợ đen. Đang có một nhu cầu rất lớn đối với nghệ thuật cổ xưa, những mặt hàng có tình chất tình dục. Cái đó còn bán chạy hơn những mặt hàng chính thống gần gấp bốn lần. Mình không nghi ngờ ai trông số hai người phụ nữ này họ sẽ chẳng gặp khó khăn gì khi cưa cái món đồ rất có giá đấy, nhưng vì lý do nào đó, những kẻ đàn ông lại tỏ ra rất ngần ngại. Họ coi điều đó rất con người”.
Rachel lắc đầu đi ngang tới cầu thang dẫn lên nhà thờ “Họ thậm chí không thiến cả những con chó của mình.”
***
1 giờ 34 phút
Vẫn rất muộn, muộn lắm rồi…
Nhìn đồng hồ, Rachel lao vội qua quảng trường đá trước cửa nhà thờ San Clement. Cô trượt chân trên một hòn đá lát ghập ghềnh, hụt mất vài bước nhưng vẫn cố gắng giữ thẳng người. Cô ngoái lại nhìn viên đá như thể chính nó có lỗi rồi lại nhìn xuống mũi giày.
Merda!
Một vết ố lớn làm xấu cả phía bên ngoài mũi giày của cô.
Chớp chớp mắt nhìn lên trời, cô phân vân không biết mình phạm lỗi với vị thành nào. Vào lúc có lẽ họ đang xếp hàng để lấy số.
Cô tiếp tục đi ngang qua quảng trường, cố tránh một đám trẻ đạp xe vọt ra xung quanh cô như những chú bồ câu hốt hoảng. Cô bước thận trọng hơn, tự nhắc mình câu châm ngôn của Hoàng đế Augustus.
Festina lente. Hãy làm cho vội vàng chậm lại.
Một lần nữa Hoàng đế Augustus không có bà mẹ có thể giằng lại miếng da con ngựa.
Cuối cùng cô cũng đến được chiếc xe Mini Cooper của mình đậu ở ngách quảng trường. Ánh nắng trưa làm chiếc xe ánh lên màu bạc. Một nụ cười, nụ cười đầu tiên trong ngày. Chiếc xe là quà sinh nhật nữa. Món quà của chính cô. Bạn chỉ có thể lên ba mươi mốt tuổi một lần trong đời. Kể ra thì cũng hơi tốn kém đặc biệt khi phải nâng cấp bộ ghế bằng da và chọn kiểu xe mui có thể gập được.
Nhưng đó cũng là thú vui trong cuộc đời cô.
Biết đâu cái đấy cũng là một trong lý do khiến Gino bỏ cô tháng trước đó. Chiếc xe làm cô sung sướng hơn là người đàn ông chung giường với mính. Đó cũng là một điều thú vị. Chiếc xe khiến cô thường xuyên thấy ngất ngây.
Rồi chuyện này nữa…đó là một chiếc xe có mui đóng mở được. Cô là một phụ nữ tôn thờ những gì là linh hoạt- nếu như cô không có được điều đó ở một người đàn ông thì lại có nó ở chiếc xe.
Mặc dù hôm nay trời quá nóng để không mặc áo ngực.
Thật xấu hổ.
Cô mở khóa, nhưng trước khi trèo vào xe, máy điện thoại di động của cô đeo ở thắt lưng lại réo chuông.
Bây giờ thì chuyện gì đây?
Có thể là viên cảnh sát Gerard người cô vừa bàn giao Roberto. Cậu sinh viên đang trên đường bị đưa đi thẩm vấn ở đồn Parioli. Cô tròn mắt nhìn vào số điện thoại gọi đến. Cô nhận ra mã quốc tế -39-06- nhưng không phải con số.
Vậy ai ở Vatican đang gọi cô nhỉ?
Rachel áp máy điện thoại vào tai. “Trung úy Verona đang nghe”.
Một giọng quen thuộc trả lời: “Thế nào cô cháu yêu dạo này ra sao rồi…bên cạnh chuyện làm mẹ tức giận?”
“Bác Virgo đấy ạ?” Một nụ cười trên môi. Bác cô, có lẽ nên gọi là Ngài Virgo Verona, Viện trưởng Viện Khảo cổ Thiên chúa giáo thuộc Giáo hoàng. Nhưng không phải ông đang gọi từ văn phòng của ông ở trường đại học.
“Bác gọi cho mẹ cháu, nghĩ rằng cháu đang ở đó với mẹ.Nhưng xem ra thì côn việc của một cảnh sát chẳng bao giờ có giờ giấc gì cả. Một sự thật mà bác nghĩ bà mẹ than yêu của cháu chẳng bao giờ chấp nhận.”
“Cháu đang trên đường đến quán ăn ngay bây giờ đây ạ.”
“Hay là cháu sẽ làm như thế…nếu như bác không gọi.”
Rachel dựa tay vào thành xe. “Thưa bác Virgo, bác có việc gì…”
“Bác đã kịp chuyển lời xin lỗi của cháu đến mẹ cháu rồi. Mẹ và chị cháu sẽ gặp cháu vào bữa tối nay ở tiệm II Matriciano. Tất nhiên cháu sẽ phải thanh toán vì sự trục trặc vừa rồi”.
Không chút nghi ngờ gì cô sẽ phải trả tiền và chỉ bằng đồng tiền Lia. “Thế bác gọi cháu có chuyện gì thế ạ?”
“Bác cần cháu đến đây với bác ở Vatincan. Ngay lập tức, Bác có giấy ra vào cho cháu tại cửa St. Anne”
Cô nhìn lại đồng hồ. Cô sẽ phải vượt qua một nửa thành Roma.” Cháu sẽ phải quay lại đồn để gặp tướng Rende tiếp tục vụ điều tra.”
“Bác đã nói chuyện với chỉ huy của cháu rồi. Ông ta đồng ý về chuyến đi của cháu tới đây. Thực ra, bác đã xin cháu cả một tuần rồi.”
“Có thể hơn nữa. Bác sẽ giải thích khi cháu tới đây.” Ông cung cấp cho cô những chỉ dẫn sẽ gặp nhau chỗ nào. Lông mày cô nhíu lại nhưng trước khi cô có thể hỏi thêm ông bác cô đã cúp máy.
“Tạm biệt, cháu yêu nhé.”
Một tuần lâu hơn nữa?
Hình như khi nào Vatican nói ngay cả quân đội cũng phải lắng nghe. Rồi hơn nữa tướng Rende lại là bạn của gia đình cô, đã cả hai thế hệ nay rồi. Ông và bác Vigor thân thiết với nhau như anh em. Không phải do sự tình cờ mà cô đã dành được sự quan tâm của viên tướng để được tuyển mộ ngay từ trường đại học Roma. Bác cô đã trông nom Rachel từ khi cha cô bị mất trong một tai nạn xe buýt mười lăm năm trước đây.
Dưới sự bảo trợ của ông, cô đã dành những mùa hè để khám phá các viện bảo tàng ở Roma, đến ở với các bà sơ ở Saint Brigida không xa trường đại học Gregorian là bao, được biết đến như II Greg nơi bác Vigor đã từng học tập và hiện đang dạy tại đó. Và trong khi bác Vigor đã rất muốn cô đi vào tu viện để theo bước ông, ông đã nhận ra rằng Rachel là một cô gái quá năng nổ để theo một nghề nghiệp rất ngoan đạo như vậy nên đã khuyến khích cô theo đuổi mong ước của mình. Ông đã đem đến cho cô một món quà khác trong những mùa hè dài dằng dặc đó: sự tôn trọng và tình yêu đối với lịch sử và nghệ thuật, nơi những biểu đạt vĩ đại nhất của nhân loại được gắn vào đã cẩm thạch, thủy tinh và đồng cũng như tranh sơn dầu.
Còn bây giờ thì hình như bác cô cũng chưa phải đã xong với cô thì phải?
Đeo đôi kính mát Revo lên mắt, cô lao xe vào Via Labicano rồi hướng thẳng đến khu vực Colliseum nguy nga. Xe cộ bị nghẽn tắc quanh đây nhưng cô tìm cách đi vòng qua những con phố nhỏ hẹp bị xe tải đỗ chật hai vên đường. Cô cua lượn như một tay đua xe tài năng. Cô nhấn ga khi lao vào đường lượn nơi năm con phố gặp nhau tạo nên một vòng đua tròn điên cuồng. Khách du lịch đến thành phố Roma vẫn luôn coi các tay lái xe ở đây là những người khó tính, thiếu kiên nhẫn và chân tay nặng nề. Còn Rachel lại thấy họ chậm như rùa.
Cô lao vào giữa một chiếc xe tải chất đầy hàng và một chiếc Merceders G500. Chiếc xe Mini Cooper trông như một con chim sẻ lao bên cạnh hai con voi. Cô lượn vượt lên trên chiếc Merceders chiếm luôn khoảng trống nhỏ nhoi phía trước giữa những tiếng còi cáu kỉnh nhưng cô đã kịp vọt đi mất. Cô lao qua của đường vòng vào đại lộ rồi chạy về phía sông Tiber.
Trong khi lướt trên đường mắt cô vãn dán chặt vào dòng xe chạy như mắc cửi từ mọi phía đổ về. Tuy nhiên đi lại an toàn trên đường phố Roma cũng không đòi hỏi quá nhiều sự cẩn trọng vì đã được thiết kế rất hợp lý. Chính nhờ sự chú ý đặc biệt như vậy nên Rachel đã nhận thấy mình đang bị bám đuôi.
Một chiếc xe BMW đang chạy ở vị trí, cách cô chừng năm chiếc xe.
Ai đang bám đuôi cô vậy và vì sao?
***
2 giờ 5 phút
15 phút sau Rachel dừng xe trước bãi đỗ xe ngầm ngay bên ngoài bức tường ngăn cách Vatican. Khi bước ra xe cô đảo mắt tìm kiến trên đường phố phía sau. Chiếc xe BMW màu đen đã biến mất ngay sau khi cô vượt qua sông Tiber. Chẳng để lại dấu vết gì cả.
“Cảm ơn.” Cô nói vào máy di động. “Chiếc xe đã biến mất rồi.”
“Chị có thấy an toàn không?” Viên sĩ quan trực ban hỏi trong máy.
Cô đã gọi khi thấy chiếc xe bám đuôi và từ lúc đó vẫn để máy mở.
“Có vẻ như vậy”
“Chị muốn cử tổ tuần tra đến không?”
“Thôi không cần đâu. Trên quảng trường có cảnh sát đứng gác rồi. Ở đây tôi thấy ổn rồi. Cảm ơn.”
Cô thấy chẳng có gì đáng xấu hổ khi đã báo động nhầm. Cũng chả ai chê trách hay nhạo báng cô cả. làm việc trong lực lượng cảnh sát luôn làm cho các nhân viên cảnh sát nam cũng như nữ có tính đa nghi.
Cô tìm thấy chỗ đỗ e, trèo qua rồi khóa xe lại. Tuy vậy, cô vẫn cầm chiếc di động trên tay mặc dù thâm tâm cô vẫn ưa sử dụng khẩu 9 ly của mình hơn.
Đến đoạn cuối dốc, cô ra khỏi chỗ đậu xe đi ngang về phía quảng trường nhà thờ St. Peter. Dù đang trên một trong những tác phẩm kiến trúc bậc thầy của thế giới, cô vẫn để mắt đến các đường phố và ngõ xung quanh.
Vẫn không thấy dấu vết gì của chiếc BMW.
Người lái chiếc xe đó có thể chỉ là du khách đang mải lái theo những điểm dừng chân ở thành phố trên chiếc xe sang trọng có gắn điều hòa nhiệt độ hơn là đi bộ lang thang vào giữa trưa nắng gắt. Mùa hè là mùa cao điểm và tất cả du khách đều đổ về Vatican. Cũng có khi chính điều này làm cho cô nghĩ mình bị theo dõi. Người ta chả có câu nói “Tất cả mọi ngả đường đểu đổ về thành Roma” rồi kia mà?
Hoặc chí ít cũng trong trường hợp này, tất cả các xe…
Cảm thấy yên tâm, cô nhét máy di động vào túi rồi vượt qua quảng trường St. Peter đi về phía bên kia.
Cũng giống như mọi khi, cô luôn để mắt khắp chiều dài của quảng trường. Phía bên kia quảng trường là nhà thờ Thánh Peter, được dựng trên lăng mộ của vị thánh đã trở thành bất tử. Vòm nhà thờ do Michelango thiết kế đã trở thành điểm cao nhất của thành Roma. Hai bên là lối đi bộ hàng đôi tỏa ra trên một khu vực giống như hai cánh tay của Thánh Peter vươn ra ôm lấy những tín đồ trung thành. Phía trên những cánh tay khổng lồ này là một trăm bốn mươi bức tượng thánh bằng đá đứng vắt vẻo nhìn xuống cảnh quan phía dưới.
Quả là một cảnh tượng hùng vĩ.
Nơi trước kia là một rạp xiếc dưới thời Nero nay vẫn là rạp xiếc.
Người ta có thể nghe thấy đủ các loại ngôn ngữ từ tiếng Pháp, Ả Rập, Ba Lan, Hebrew, Hà Lan đến tiếng Hoa…Các nhóm du khách đứng túm tụm từng tốp như những hòn đảo xung quanh các hướng dẫn viên; những người khách đi tham quan đứng khoác vai nhau, nở những nụ cười giả tạo để chụp ảnh; một số ít mộ đạo đứng ngoài nắng tay cầm quyển Kinh thánh đầu cúi xuống cầu nguyện. Một nhóm hành hương người Hàn Quốc mặc áo dài vàng quỳ trên các phiến đá. Trên khắp quảng trường nhưungx người bán hàng đang chèo kéo gạ bán những đồng xu có hình Giáo hoàng, tràng hạt có mùi thơm và những cây thánh giá.
Cô cảm thấy thật may nắm đã tới được phía bên kia quảng trường tiến đến một trong năm cửa dẫn vào khu nhà chính, cửa Sant Anna, cửa gần với chỗ cô nhất.
Rachel bước tới một lính gác người Thụy Sĩ. Như truyền thống đứng gác ở cửa này, anh ta mặc quân phục xanh sẫm cổ trắng đội mũ nồi đen. Người lính gác sau khi nghe Rachel xưng tên, kiểm tra căn cước rồi nhìn một lượt thân hình mảnh dẻ của cô dường như không tin lắm cô là một trung úy cảnh sát. Hài lòng, anh ta chỉ cô sang một bên tới một cận vệ Vatican để cấp cho cô một thẻ ra vào bọc plastic.
“Cô nhớ luôn mang thẻ theo người.” Người cảnh vệ nhắc nhở.
Cầm chiếc thẻ ra vào, cô đi theo dòng người đi tham quan qua cửa rồi đi xuống Via del Pellegrino.
Hầu hết các khu vực ở Vatican đều hạn chế đi lại. Công chúng chỉ được phép vào những nơi như nhà thờ Basilica, bảo tàng Vatican và khu Vườn hoa. Những khu vực còn lại rộng hàng trăm mẫu Anh đều bị hạn chế không được vào nếu không có giấy phép đặc biệt.
Nhưng có một khu vực lại cấm tất cả trừ một số rất ít.
Lâu đài Apostolic, nơi ở của Giáo hoàng.
Đó chính là nơi cô sẽ tới.
Rachel đi giữa những doanh trại ốp gạch màu vàng của đội cận vệ Thụy Sĩ và bức tường màu xám của nhà thờ St. Anne. Đây chẳng hề có nét uy nghi, thần thánh của các khu vực thiêng liêng mà chỉ có những vỉa hè chật cứng người và những dòng đông nghẹt xe cộ, gây tắc đường ngay trong thành phố Vatican. Đi ngang qua văn phòng nhà in của Giáo hoàng và bưu điện, cô thẳng đến lối vào của lâu đài Apostolic.
Vừa bước đi, cô vừa ngắm nghía kiến trúc gạch xám xịt này. Nó giống như một tòa nhà khắc khổ của chính phủ hơn là nơi trị vì của Giáo hoàng. Nhưng cái nhìn bên ngoài chỉ đánh lừa con mắt. Ngay cả cái mái nhà. Trông thật tẻ nhạt và vô vị, không có gì đáng để ý. Nhưng cô đã biết rằng trên nóc tòa lâu đài Apostolic là một vườn hoa kín đáo với những đài phun nước, hàng cây và pho tượng được chạm trổ tinh vi. Tất cả đều được che kín bởi một tòa nhà giả để che chắn cho đức Giáo hoàng khỏi những cặp mắt tò mò ở phía dưới và bất kỳ kẻ sát nhân nào thuộc tầng lớp chóp bu bên ngoài thành phố.
Đối với chính cô, chính điều đó đã đặc trưng cho Vatican: thật bí hiểm, bí mật, thậm chí hơi chán ngắt nhưng tận trong sâu thẳm một lâu đài với vẻ đẹp giản dị và ngoan đạo.
Và đó có lẽ cũng là những gì có thể nói về cô. Là một tín đồ công giáo ở mức vừa phải, chỉ đi nhà thờ lễ vào những ngày lễ quan trọng nhưung cô vẫn có một niềm tin thánh thiện.
Để tới trạm gác trước lâu đài, cô đã phải trình thẻ ra vào tới ba lần nữa cho đội cận vệ Thụy Sĩ. Khi làm chuyện đó, cô cứ phân vân tự hỏi không biết liệu có giống như chuyện Thánh Peter đã ba lần từ chối Đức chúa Jesu trước khi con gà trống cất tiếng gáy.
Cuối cùng thì cô cũng vào được bên trong cung điện. Một người dẫn đường đã đứng chờ cô, một sinh viện chủng viện người Mỹ tên là Jacob. Anh ta khoảng hai mươi lăm tuổi, người rắn rỏi, mái tóc vàng đã bắt đầu hói, khoác bộ áo choàng đen chùng, sơ-mi trắng cài khuy đến tận cổ.
“Mời cô đi theo tôi, tôi đã được dặn đưa cô đến gặp ngài Verona.” Có vẻ như anh tao hơi tủm tỉm cười khi nhìn tấm giấy ra vào. Tiếng Ý của anh ta thật hoàn hảo làm cô giật mình. “Trung úy Verona? Chắc cô có họ hàng với ngài?”
“Ông ấy là bác tôi”
Một cái gật đầu rất nhanh sau khi trấn tĩnh lại. “Xin lỗi, tôi chỉ được dặn là đón một sĩ quan cảnh sát.” Anh vẫy cô đi theo. “Tôi là sinh viên và trợ lý của ngài Verona ở học viện.”
Cô gật đầu. Hầu hết số sinh viên của bác cô đều kính trọng ông. Mặc dù ông rất mộ đạo nhưng vẫn có một cách nhìn rất khoa học. Thậm chí ông còn đặt một tấm bảng gắn trên cửa ra vào văn phòng của ông ở trường Đại học, mang dòng chữ giống như đã viết trước cửa buồn của Plato: Ai không biết môn hình học xin đừng vào đây.
Rachel được dẫn qua cửa ra vào cung điện. Nhanh chóng cô bị lạc đường. Dạo trước, cô mới vào đây một lần khi bác Vigor được đề bạt chức Viện trưởng Viện Khảo cổ Thiên chúa giáo của Vatican. Cô cũng có mặt trong buổi tiếp riêng của Giáo hoàng. Nhưng cung điện thật quá lớn với mười lăm nghìn buồng, một nghìn cầu thang và hai mươi sân điện. Ngay đến bây giờ lẽ ra phải dẫn đến nơi ở của Giáo hoàng ở tầng trên cùng thì chúng ta lại hướng xuống.
Cô cũng không biết tại sao bác Vigor lại hẹn gặp cô ở đây thay vì đến văn phòng của ông ở trường đại học. Liệu đã xảy ra vụ trộm nào chăng? Nếu vậy, sao lại không nói với cô qua điện thoại. Một lần nữa cô lại nhận ra ở Vatican vẫn luôn tồn tại một quy định rất ngặt nghèo về bí mật. Nó đã được viết thành luật. Giáo hội rất biết giữ gìn những bí mật của mình.
Cuối cùng họ cũng tới một gian phòng nhỏ không có nét gì đặc biệt cả.
Jacob mở cánh cửa.
Rachel bước qua một phòng chờ kiểu Kafkaesque thật kỳ cục. Được chiếu sáng một cách vừa đủ, căn phòng vốn dài và hẹp, trần lại rất cao. Sát tường là các loại tủ đựng tài liệu bằng thép màu xám với những ô ngăn kéo cao suốt từ sàng đến tận trần. Một chiếc thang thư viện dài đặt dựa vào tường, đủ để có thể leo đến ô cao nhất. Dù không có lấy một hạt bụi nhưng căn phòng vẫn toát lên không khí mốc meo, cũ kỹ.
“Rachel!” Bác cô gọi từ một góc phòng. Ông đang đứng với một vị linh mục ở đó. Cô vẫy vẫy tay. “Cháu đến đúng giờ đấy, con gái ạ, bác nhớ rồi, trước bác đã có lần ngồi xe cháu lái. Thế lần này có thương vong gì không?”
Cô mỉm cười với ông, đi đến chiếc bàn. Cô để ý ông bác không mặc quần gin áo phông như mọi khi mà hôm nay lại rất trịnh trọng trong bộ áo choàng đen cài khuy nghiêm chỉnh. Thậm chí bác còn chải mái tóc muối tiêu của mình bóng lộn và tỉa đi bộ ria nhọn hoắt của ông tận sát da mặt.
“Đây là cha Torres,” bác cô giới thiệu. “Người quản lý chính thức các di cốt.”
Người đàn ông có tuổi đứng dậy. Ông ta thấp và béo lùn, mặc bộ áo choàng đen, cổ đứng. Một nụ cười thoáng ẩn trên khuôn mặt. “Bác muốn nói đến chức vụ chính thức quản lý các di cốt”.
Rachel ngắm nhìn bức tường cao vút với những ô ngăn kéo. Cô đã nghe nói về chỗ này, nơi lưu trữ những hài cốt của Vatican, nhưng cô chưa bao giờ đặt chân tới đây. Cô cố nén cảm giác ghê rợn.
Được phân loại và lưu giữ trong các ô kéo và kệ trên kia là những di hài của các vị thánh và những người tử vì đạo: các mẩu xương ngón tay, lùm tóc, cốc tro hài cốt, mảnh quần áo, mẩu da, mẩu móng chân tay, máu… Ít người biết rằng theo luật của nhà thờ Thiên chúa giáo, mỗi một và tất cả các ban thờ Cơ đốc giáo phải chứa một di vật thiêng liêng. Và với những nhà thờ hoặc tu viện mới được xây dựng trên khắp thế giới, công việc của vị linh mục này là đóng hộp và gửi chuyển phát nhanh những mẩu xương và những di vật thiêng liêng của biết bao vị thánh.
Rachel chưa bao giờ hiểu được sự cuồng tín của nhà thờ về những di vật. Điều đó chỉ làm cô cảm thấ ghê tởm. Nhưng ở Roma thì lại tràn ngập với những thứ đó. Một số những thứ rất hoành tráng và dị thường được tìm thấy ở đây: một bàn chân của Mary Magdalene, thanh quản của Thánh Anthony, lưỡi của Thánh John Nepomucene, những viên sỏi thận của Thánh St.Claire. Ngay cả toàn bộ thân thể của Giáo hoàng St.Pius X được đặt quàn trong chiếc quan tài bằng đồng ở nhà thờ St.Peter. Có lẽ phiền toái nhất chính là di vật được lưu giữ trong một đền thờ ở Calcate: cái được người ta gọi là “bao da quy đầu” của Đức chúa Jesu.
Cô thấy mình thốt lên: “Thế có cái gì bị mất ở đây?”
Ông bác Vigor giơ tay ra hiệu cho cậu sinh viên của mình: “Jacob, liệu cậu có thể lấy cho chúng ta mấy cốc cà phê sữa nóng được không?”
“Chắc chắn được ạ”.
Bác Vigor chờ đến khi Jacob đi ra ngoài khép cửa lại. Đôi mắt của bác dừng lại ở Rachel. “Cháu đã từng nghe về vụ thảm sát ở Cologne chưa?”
Rachel bị bất ngờ vì câu hỏi của ông bác. Cô đã chạy suốt ngày hôm nay chả có mấy cơ hội ở xem tin tức nhưng cũng không thể không biết tới bản tin nói về vụ thảm sát ở Đức đêm qua. Các chi tiết xem ra rất rời rạc.
“Cháu chỉ biết qua về những gì được phát trên radio”. Cô trả lời.
Ông gật đầu: “Văn phòng của bác đã nhận được tin tức tình báo trước khi những gì được người ta đưa tin. Tám mươi tư người bị chết, trong đó có cả vị Tổng giám mục Cologne. Nhưng thật ra vào lúc này cách chết của những con người đó tạm thời vẫn chưa thông tin cho công chúng”.
“Bác nói vậy có ý gì ạ?”
“Một số bị bắn, nhưng số đông hơn hình như lại bị giết bằng cách cho điện giật”.
“Điện giật?”
“Đó mới chỉ là phân tích sơ bộ. Vẫn còn phải chờ xét nghiệm tử thi. Một vài cái xác vẫn còn bốc khói khi nhà chức trách tới”.
“Lạy Chúa, tại sao…”
“Chắc phải chờ câu trả lời. Nhà thờ đó lúc này đang tràn ngập nhân viên điều tra các loại: tội phạm học, thám tử, nhà khoa học chuyên về các loại đạn… thậm chí cả các chuyên gia về điện. Có các tốp BKA của Đức, chuyên gia chống khủng bố của Interpol và nhân viên của Europol. Nhưng vì tội ác diễn ra ở một nhà thờ Cơ đốc giáo, lãnh điạn của Chúa nên Vatican đã cho áp dụng Omerta.”
“Tức là qui định về Im Lặng”
Ông làu bàu khẳng định: “Nhà thờ đang hợp tác với nhà cầm quyền Đức, nhưng cũng áp dụng việc hạn chế tiếp cận, cố gắng giữ cho nơi đó không trở thành một rạp xiếc”.
Rachel lắc đầu: “Nhưng tất cả chuyện đó liên quan gì đến việc bác gọi cháu đến đây?”
“Theo điều tra ban đầu hình như chỉ có một động cơ duy nhất. Cái hộp đựng hài cốt bằng vàng ở nhà thờ đã bị chúng đập vỡ toang.”
“Chúng ăn trộm hộp đựng di hài.”
“Không, không phải vậy. Bọn chúng bỏ lại cái hộp bằng vàng ròng. Một di chỉ vô giá. Chúng chỉ lấy đi cái ở bên trong. Di cốt”
Cha Torres nói chen” “Không phải chỉ là di hài. Mà là xương của những nhà thông thái trong Kinh thánh?”
“Magi… được biết như là Ba nhà Thông thái trong Kinh thánh?” Rachel cảm thấy không thể tin được qua giọng nói của mình: “Chúng ăn cắp di cốt nhưng để lại cái hộp bằng vàng. Chắc chắn cái hộp đó có giá gấp nhiều lần trên thị trường chợ đen so với đám xương.”
Bác Vigor thở dài: “Theo thỉnh cầu của ngài Bộ trưởng Ngoại giao, bác phải tới đây để đánh giá xuất xứ của các di vật đó. Chúng đã có một quá khứ thật huy hoàng. Những di cốt đó đến châu Âu qua sự nhiệt tình sưu tập những di chỉ của thánh St. Helena, mẹ của nhà vua Constantine. Là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên, Constantine đã gửi mẹ đi hành hương để thu thập những di tích thiêng liêng. Vật nổi tiếng nhất tất nhiên là Cái Thánh giá thực sự của Đức chúa Jesu”.
Rachel đã đi thăm nhà thờ Santa Croce ở Jerusalem trên đồi Lateran. Trong một căn phòng ở phía sau bên trong kính pha lê là những di tích nổi tiếng nhất được thánh Helena thu thập: Một chiếc đòn của Cây thánh giá thực sự, một chiếc đinh dùng để hành hình Đức chúa Jesu và hai cái gai lấy từ cái vương miện đầy đau đớn của Ngài. Tại đó vẫn tiếp tục có các cuộc tranh cãi về tính chân thực của các di vật trên. Hầu hết đầu cho rằng Thánh Helena đã bị bịp.
Bác cô vẫn tiếp tục: “Nhưng không phải ai cũng biết rằng Quận chúa Helena đã hành hương xa hơn Jerusalem, trỏe về trong những hoàn cảnh bí hiểm với những hòm bằng đá lớn, tuyên bố rằng bà đã thu thập được thân thể của Ba Vua. Di hài được giữ trong một nhà thở ở Constantinope nhưng sau khi nhà vua Constantine băng hà, chúng được chuyển đến Milan và chôn ở một nhà thờ.”
“Nhưng bác nói là Đức…’
Bác Vigor giơ tay lên: “Vào thế kỷ XII, Đại đế Frederick Barbarosa của nước Đức cướp bóc Milan và ăn trộm các di vật. Hoàn cảnh xung quanh chuyện này vẫn còn mù mịt bởi hàng loạt những lời đồn đoán. Nhưng tất cả mọi chuyện đều kết thúc với việc di chỉ ở Cologne.”
“Cho đến tối hôm qua.” Rachel bổ sung.
Bác Vigor gật đầu.
Rachel nhắm nghiền đôi mắt lại. Chả ai nói gì câu nào, cứ để cô tiếp tục suy nghĩ. Cô nghe có tiếng mở cửa căn phòng. Cô vẫn nhắm nghiền mắt, không muốn mất đi dòng suy nghĩ.
“Thế còn về vụ thảm sát?” Cô hỏi. “Tại sao chúng không lấy trộm di cốt khi nhà thờ vắng vẻ? Hành động này cũng có nghĩa như một đòn tấn công trực tiếp vào nhà thờ. Bạo lực đối với những người đi dự lễ cho thấy động cơ thứ hai là trả thù, không chỉ là lấy cắp.”
“Rất hay.” Một giọng nói mới được nghe thấy từ phía cửa ra vào.
Giật mình, Rachel mở choàng cặp mắt. Cô lập tức nhận ra bộ áo choàng màu đen với gù ở vai, cái đai lớn thắt quanh hông, màu đỏ sẫm cùng màu với cái mũ cao. Cô cũng nhận ra người đàn ông trong cái áo choàng.
“Hồng y Spera.” Cô nói, cúi gập đầu chào.
Ngài vẫy cô đứng lên, ngón tay đeo nhẫn vàng sáng lấp lánh. Cái nhẫn cho thấy ngài là Hồng y, nhưng ngài cũng đeo chiếc nhẫn thứ hai, y như chiếc kia ở bàn tay bên còn lại, cho thấy chức vụ của ngài là Bộ trưởng Ngoại giao Vatican. Ngài người gốc Sisin, tóc đen và nước da ngăm ngăm. Ở tuổi chưa đến năm mươi, ngài có thể được coi là trẻ so với vị trí cao quý như vậy.
Ngài nở một nụ cười ấm áp. “Tôi thấy ngài Verona đã không lầm về cô cháu gái của mình.”
“Thật không phải nếu tôi lại đi nói dối một Hồng y, đặc biệt người là cánh tay phải của đức Giáo hoàng.” Bác cô đi tới, thay vì hôn vào bàn tay đeo nhẫn của Hồng y mà lại ôm chặt lấy ngài.
“Thế Đức ngài phản ứng thế nào khi nghe tin này?”
Khuôn mặt của vị Hồng y nhăn lại cùng với cái lắc đầu. “Sau cuộc gặp của chúng ta sáng nay, tôi đã tiếp xúc với Đức ngài đang ở St. Peterburg. Đức ngài sẽ bay về đây sáng ngày mai…”
Sau khi chúng ta gặp nhau, giờ thì Rachel đã hiểu vì sao bác Vigor lại mặc bộ quần áo đại lễ này. Bác đã có cuộc hội kiến với ngài Bộ trưởng Ngoại giao.
Hồng y Spera tiếp tục nói: “Tôi sẽ thu xếp buổi gặp gỡ chính thức của Đức ngài với Hội đồng Giám mục và Hồng y. Sau đó tôi sẽ chuẩn bị cho buổi hành lễ ngày mai. Sẽ được tổ chức vào lúc hoàng hôn.”
Rachel cảm thấy kinh ngạc. Trong khi Giáo hoàng là người đứng đầu Vatican, một vị quân vương tối cao, quyền lực thực sự lại nằm trong tay con người này, vị thủ tướng chính thức. Cô để ý ánh mắt mệt mỏi của ngài cũng như cách ngài khẽ nhún vai. Rõ ràng ông ta quá mệt mỏi.
“Thế công cuộc tìm kiếm của ngài có cho thấy điểm gì không?” Hồng y hỏi.
“Cũng có.” Bác Vigor đáp lại. “ Bọn kẻ cắp không sở hữu tất cả chỗ di cốt.”
Rachel bật dây. “Thế còn gì nữa ạ.”
Bác cô quay lại. “Điều đó chúng tôi đã gặp nhau ở đây để khẳng định. Hình như đối với thành phố Milan sau khi di cốt bị vua Barbarrosa cướp đi, họ đã dành hàng thế kỷ để tìm cách thu hồi. Để giải quyết một cách dứt khoát vấn đề này, một phần di cốt của Ba nhà Thông thái đã được trả về Milan vào năm 1906, đưa vào nhà thờ St. Eutorgio.”
“Tạ ơn Chúa.” Hồng y Spera nói. “ Như vậy là đã không bị mất hết.”
Cha Torres bỗng chen vào: “Lẽ ra chúng ta phải sắp xếp để chuyển thứ đó đến đây ngay lập tức. Giữ gìn ở nơi này.”
“Cho đến khi có thể thu xếp được chuyện ấy, tôi sẽ ra lệnh tăng cường an ninh ở nhà thờ.” Hồng y nói. Ông ra hiệu bác Vigor. “ Khi nào ngài từ Cologne quay về, tôi muốn ngài ghé lại Milan để thu hồi chỗ di cốt ở Milan.”
Bác Vigor gật đầu.
“Ồ, tôi cũng có thể thu xếp một chuyến bay sớm hơn.” Hồng y tiếp tục. “Máy bay trực thăng sẽ đưa cả hai người ra sân bay trong vòng ba giờ nữa”.
Cả hai?
“Như vậy càng tốt.” Bác Vigor quay lại phía Rachel. “Có vẻ như chúng ta lại làm mẹ cháu không hài lòng một lần nữa rồi. Chắc không kịp ăn bữa tối gia đình, có lẽ vậy.”
“Cháu… chúng ta sẽ đi Cologne?”
‘Với tư cách là Đại sứ của Vatican.” Bác cô nói.
Rachel cố giữ cho đầu óc mình thật bình tĩnh. Là Đại sứ hải ngoại của Vatican.
“Đại sứ hỉa ngoại bất thường.” Hồng y Spera sửa lại. “Tạm thời, bao gồm vụ thảm họa đặc biệt này. Cả hai sẽ được giới thiệu như các nhà quan sát viên thụ động đại diện quyền lợi của Vatican và sẽ báo cáo trở lại. Tôi cần cặp mắt sắc sảo của các người ở nơi ấy. Một ai đó quen xử lý các vụ ăn trộm đồ cổ.” Một cái gật đầu với Rachel. ‘Và một người có kiến thức rộng rãi về các món đồ cổ ấy.”
“Tất nhiên đó là vỏ bọc của chúng ta.” Bác Vigor nói.
“Vỏ bọc?”
Hồng y Spera chau mày, một giọng cảnh cáo vang lên. “Vigor…”
Bác cô quay lại ngài Bộ trưởng Ngoại giao. “Cháu nó có quyền biết. Tôi nghĩ điều đó đã được quyết đinh.”
“Ngài quyết định.”
Hai người chằm chằm nhìn nhau. Cuối cùng, Hồng y Spera thở dài, phẩy tay, chấp nhận.
Bác Vigor quay về phía Rachel. “Việc nhận nhiệm vụ Đại sứ hải ngoại chỉ là màn che đậy.”
“Vậy thế chúng ta là …”
Ông nói với cô
***
3 giờ 35 phút
Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Rachel chờ cho ông bác kết thúc câu chuyện riêng với Hồng y Spera ngoài cửa. Bên phía kia, cha Torres bận bịu sắp lại hàng đống sách bày thành hàng trên bàn.
Cuối cùng bác cô quay lại. “Bác đã hi vọng được ăn món bánh mì ngọt với cháu nhưng do thời gian biểu lại bị đẩy lên, cả hai bác cháu mình phải đẩy nhanh nhịp độ lên. Cháu phải chuẩn bị túi hành lý qua đêm và hộ chiếu, cũng như tất cả những gì cần thiết cho một hay hai ngày ở nước ngoài.”
Rachel đứng sững như trời trồng. “Làm gián điệp cho Vatican? Chúng ta sẽ đến đó như những gián điệp của Vatican?”
Bác Vigor nhíu cặp lông mày. “Cháu ngạc nhiên đến thế ư? Vatican là một đất nước có chủ quyền, cũng có một cơ quan tình báo với đủ các quan chức cùng nhân viên. Họ cũng đã quen với việc thâm nhập các nhóm hận thù, xã hội đen, những nước thù địch nơi những quyền lợi của Vatican bị đe dọa. Walter Ciszek, một linh mục hoạt động dưới bí danh Vladimir Lipinski, đã chơi ú tim với KGB hàng năm trước khi bị bắt và mất hai năm trong nhà tù của Liên Xô.”
“Và chúng ta vừa được tuyển mộ vào hoạt động này à?”
“Cháu vừa được tuyển mộ. Bác đã hoạt động cho cơ quan tình báo được mười lăm năm rồi.”
“Cái gì cơ?” Rachel gần như nghẹn lại ở từ đó.
“Đối với một nhân viên tình báo có gì tốt hơn là một nhà khảo cổ được kính trọng và hiểu biết trong sự phục vụ khiêm tốn cho Vatican..” Bác Vigor vẫy cô ra cửa. “Thôi đi nào. Chúng ta hãy thu xếp mọi việc thứ tự đã.”
Rachel lập bập bước theo ông bác, nhìn ông với con mắt khác hẳn.
“Chúng ta sẽ gặp một nhóm các nhà khoa học Mỹ. Giống như chúng ta, họ cũng đang nghiên cứu vụ tấn công một cách kín đáo, quan tâm nhiều đến những cái chết, để mặc cho chúng ta xử lý vụ ăn cắp các di vật.”
“Cháu không thể hiểu được”. Nói ra câu nói này có phần hơi cách điệu. “Tại sao tất cả đều phải dưới cái vỏ ngụy trang ạ?”
Bác cô dừng lại và kéo cô vào một nhà thờ nhỏ bên cạnh. Nhỉnh hơn cái tủ một chút, không khí đặc quánh mùi hương cũ.
“Chỉ có một nhóm rất ít người biết về điều này.” Ông nói. “Nhưng vẫn còn một người sống sót sau vụ tấn công. Một đứa trẻ. Nó vẫn bị sốc song đang dần dần phục hồi. Nó đang ở một bệnh viện ở Cologne được canh gác cẩn mật.”
“Nó đã chứng kiến vụ tấn công?”
Một cái gật đầu thay câu trả lời. “Điều này được cậu bé mô tả giống như một sự điên khùng, nhưng điều đó không thể bỏ qua được. Tất cả các cái chết, hay nói đúng hơn chết vì bị điện giật đều xảy ra ở thời điểm đơn lẻ. Những người sắp chết đều gục xuống khi họ đang ngồi hoặc quỳ. Cậu bé không thể giải thích được tại sao chuyện đó xảy ra song cậu ta có chắc chắn là ai.”
“Là ai giết những người đi lễ?”
“Không, là ai gục xuống, những người nào trong số những người đi lễ đã chết khủng khiếp như vậy.”
Rachel chờ câu trả lồi.
“Những người bị điện giật chết, vì hiện còn thiếu một từ hay hơn, chỉ là những người tham gia vào bữa tối cuối cùng của Chúa trong lễ ban bánh thánh.”
“Cái gì cơ?”
“Chính là vụ ăn bánh thánh đã giết chết họ.”
Khắp người cô ớn lạnh. Nếu như có lời nói lan truyền rộng rãi rằng chính những chiếc bánh thánh đã là nguyên nhân gây ra cái chết thì sẽ tạo ra một xung đột lớn như thế nào trên toàn thế giới. Toàn bộ hoạt động lễ hội sẽ bị đe dọa.” Liệu những chiếc bánh đó có bị tẩm độc hoặc làm nhiễm khuẩn không?”
“Điều này vẫn chưa biết được. Nhưng Vatican cần câu trả lời ngay lập tức. Hội đồng Giáo hội muốn có đầu tiên. Và do không đủ nhân lực cần thiết cho loại công việc điều tra bí mật ở nơi đất khách quê người này nên bác đã phải thoải thuận với một người bạn trong giới tình báo Mỹ, một người bác hoàn toàn tin cậy. Anh ta sẽ đi cùng với một nhóm tới địa điểm tối nay.”
Rachel chỉ có thể gật đầu, hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong suốt giờ qua.
“Rachel, bác nghĩ cháu nói đúng.” Bác Virgo nói: “Những kẻ giết người ở Cologne đã tấn công trực tiếp vào nhà thờ. Tuy nhiên, bác tin đây mới chỉ là màn đầu cho một cuộc chơi rộng lớn hơn. Vậy chúng đang chơi trò gì đây?
Rachel gật đầu. “Vậy thì những di côt của Ba nhà Thông thái liên quan gì đến chuyện này?”
“Chính xác là như vậy. Trong khi cháu chuẩn bị đồ đạc, bác sẽ tới các thư viện và nơi lưu trữ tư liệu. Bác đã cử một nhóm học giả đang ngồi đọc hết những tài liệu tham khảo liên quan đến Ba Vua. Khi máy bay lên thẳng cất cánh, chắc là bác sẽ có đầy đủ hồ sơ về họ.”
Bác Vigor nắm tay Rachel rồi ôm cô cháu giọng thì thầm. “Cháu vẫn có thẻ tù chối, bác sẽ không nghĩ gì đâu.”
Bác Vigor nhắc lại, hôn nhẹ lên má cô. “Nếu bác có một cô con gái như cháu”.
“Bác sẽ bị rút phép thông công”. Cô hôn lên má ông bác. “Thôi chúng ta đi nào.”
Bác dẫn cô ra khỏi cung điện Apostolic; rồi họ chia tay. Ông đi đến thư viện còn cô đi về phía cửa St. Anna.
Không biết mất bao nhiêu thời gian mà thực ra cô cũng không buồn để ý nữa, Rachel tới chỗ xe đỗ, chui trong cốp xe. Cô rời khỏi bãi đỗ xe ngầm dưới đất rồi đi quanh một cua hẹp để vào đường cái. Cô tiếp tục vừa đi vừa suy nghĩ. Cô đi dọc theo sông Tiber và hướng về phía trung tâm thành phố. Mải tập trung vào lái xe Rachel không để ý là cô lại tiếp tục có cái đuôi. Có điều nó bám sát theo cô.
Tim cô đập thình thịch.
Chiếc xe BMW màu đen giữ khoảng cách bằng chiều dài của năm chiếc xe, theo kịp mỗi nhịp đi của cô từ việc lượn vòng quanh những chiếc xe chạy chậm hơn hay thậm chí đi chậm hơn cả người đi bộ. Cô làm vài cú rẽ ngoặt không nhanh quá để kẻ bám đuôi không biết rằng hắn đã bị phát hiện mà cho rằng đõ chỉ là tính liều lĩnh có kiềm chế thông thường của cô. Cô cần biết điều này một cách chắc chắn.
Chiếc BMW vẫn giữ khoảng cách.
Bây giờ thì cô đã biết.
Mẹ kiếp.
Cô lái xe đến những phố nhỏ và đường hẻm hẹp hơn. Đường bị tắc nghẽn. Nó đã trở thành một cuộc truy đuổi bằng ô tô tốc độ chậm.
Cô đỗ lại bên một vỉa hè để thoát một luồng xe. Tạt vào đường rẽ ngang tiếp theo, tới một con đường cho người đi bộ cô rẽ vào đó. Những người đẩy xe nôi giật bắn mình, lao vọt tránh đường cô, những chiếc xe bán hàng bị lật nhào. Những câu chửi thề văng ra. Một tảng bánh mì ném vào cửa sổ sau xe cô bởi một người bán hàng rất cáu kỉnh.
Ở đoạn đường tiếp theom cô lao nhanh vào một dãy nhà, quay ngoắt lại cứ tiếp tục như thế. Khu vực này của Roma là một ổ nhện của những đường hẻm. Không có cách nào cho cái đuôi của cô có thể bắt kịp được.
Thoát ra đường Via Alddrovnai, cô phóng rất nhanh chung quanh phía ngoài vườn thú Giardino. Cô liên tục nhình vào tấm gương chiếu hậu. Cô đã thoát kẻ đuổi theo cô… ít nhất là cho đến lúc này.
Có một cơ hội để một tay rảnh, cô nhặt lấy chiếc điện thoại di động rồi bấm máy gọi về đồn Parioli. Cô cần có sự trợ giúp.
Khi máy đã nối được, cô rời đại lộ và lại lao vào đường hẻm, không muốn mạo hiểm thêm nữa. Cô đã bỏ rớt kẻ nào vậy?
Là nhân viên cảnh sát di sản văn hóa, cô cũng có không ít kẻ thù trong những gia đình tội ác có tổ chức, những kẻ buôn bán đồ cổ bị đánh cắp.
Đường dây điện thoại lạo xạo, chuông reo nhưng tất cả những gì cô nghe được là im lặng. Kiểm tra màn hình máy điện thoại, cô thấy dòng chữ “Poor reception”. Bảy ngọn đồi ở Roma và những thung lũng các tòa lâu đài cẩm thạch và gạch đá đã triệt tiêu tín hiệu điện thoại.
Cô ấn nút gọi lại.
Vừa cầu mong có người nào đó nghe điện thoại, cô vẫn phân vân không biết có nên quay trở về nhà hay không, rồi quyết định không về nữa.
Có lẽ cô sẽ an toàn hơn tại Vatican cho đến khi rời đi Đức.
Lao vào Via Salaria, một con đường cũ vốn là mạch giao thông chính chạy ngang qua Roma cuối cùng cô nghe thấy máy đã được nối.
“Trung tâm đây”
Trước khi cô kịp trả lời, Rachel đã nhìn thấy một khối đen lù lù.
Chiếc BMW chạy song song với chiếc Mini Cooper của cô.
Một chiếc nữa xuất hiện ở thành bên này xe.
Y trang, chỉ có điều chiếc này lại màu trắng.
Cô không chỉ có một cái đuôi… mà là hai. Mải chăm chú vào chiếc xe chết tiệt màu đen cô đã không phát hiện ra chiếc xe màu trắng. Một lỗi chết người.
Hai chiếc xe lao sầm vào cô, ép cô vào giữa với tiếng rít của thép và sơn. Cánh cửa sau của cả hai xe đã hạ xuống. Những mũi tiểu liên thô kệch thò ra ngoài.
Cô đạp mạnh phanh, tiếng thép rít lên nhưng cô ghì chặt. Không còn đường thoát.