Chỉ cần qua được cửa khẩu là đặt chân lên lãnh thổ Tây Vực rồi, dù Lý Thừa Ngân có là đương kim Hoàng đế thì cũng khó tránh khiến các nước Tây Vực xôn xao nếu chàng cố tình đưa quân sang bên kia biên giới, vì lúc đó chỉ e họ sẽ nghĩ chàng muốn tuyên chiến, rồi xảy ra đánh nhau thật. Cũng vì thế mà ở Ngọc Môn Quan, hình dáng tôi và A Độ lúc hóa trang thành đàn ông bất ngờ bị vẽ trên cáo thị truy nã khâm phạm, tuy nhiên, tên trên cáo thị thì lại không phải của chúng tôi.
Nói thực lòng, bức tranh ấy vẽ rất giống. Lý Thừa Ngân chỉ nhìn thấy tôi mặc đồ nam một lần, thế mà chàng cũng sai người vẽ được.
Song giờ đây cả tôi và A Độ đều vận đồ nữ, mà tội phạm khét tiếng trên cáo thị lại là nam nên chúng tôi vẫn hòa mình vào dòng người xếp hàng chờ qua cửa khẩu. Có điều cả hai đều không có giấy thông hành, vấn đề hóc búa bây giờ là phải làm sao để qua được.
Tôi cũng không căng thẳng lắm, trong tay nải có không ít vàng bạc, cộng với võ công cao cường của A Độ, cùng lắm là ẩu đả một trận, thua thì đút ít tiền là xong.
Chẳng ngờ phen này chúng tôi không chỉ thua, mà còn hết đường mua chuộc.
Tôi liếc nhìn vị tướng quân trấn ải.
Là Bùi Chiếu.
Lý Thừa Ngân thật xảo quyệt. Tôi vòng vèo khắp thiên hạ hòng tránh chàng, song vẫn phải vượt Ngọc Môn Quan mới về được Tây Lương, giờ chàng lại sai Bùi Chiếu đứng án ngữ ở Ngọc Môn Quan, kiểm tra từng người một. Dù võ công của A Độ cao cường đến mấy thì lúc đánh nhau cũng sẽ kinh động đến vạn quân đồn trú quanh năm ở đây, lúc ấy, chỉ sợ tôi và A Độ có mọc cánh cũng khó mà thoát nổi.
Tôi cười giả lả với Bùi Chiếu. Bùi Chiếu cười lại với tôi.
Tôi nói:
– Ô, Bùi tướng quân cũng ở đây à?
Bùi Chiếu nói:
– Mạt tướng được điện hạ phái đến lùng bắt phạm nhân bỏ trốn.
Tôi vẫn cười, nói:
– Bùi tướng quân là Kim ngô tướng quân, thống lĩnh ba nghìn Vũ lâm quân của Đông cung, không rõ tội phạm vượt ngục nào lại kinh động đến cả tướng quân, mà phải đuổi đến tận Ngọc Môn Quan thế này?
Bùi Chiếu buông một câu nhạt thếch:
– Đương nhiên là tội phạm quan trọng của triều đình rồi.
Tôi cười hềnh hệch nói:
– Tội phạm quan trọng của triều đình…
A Độ hơi cử động, phía sau tường lũy đã xuất hiện một đám binh sĩ, giương sẵn cung, lạnh lùng nhắm vào hai chúng tôi.
Tôi thở dài, nói với Bùi Chiếu:
– Hôm nay ta quyết phải qua cửa khẩu, ngươi muốn cản ta thì bắn chết ta đi, chuyện này đâu phải lần đầu tiên.
Bùi Chiếu lại thưa:
– Thái tử phi hiểu lầm Điện hạ rồi, thực ra Điện hạ một lòng một dạ chung tình với Thái tử phi.
Tôi nói:
– Chung tình ư? Ta và Lý Thừa Ngân chẳng còn tình nghĩa gì cả, ngươi chớ có nhắc đến Lý Thừa Ngân trước mặt ta.
Bùi Chiếu nói:
– Thực ra, Thừa Thiên Môn cháy không phải do nến.
Tôi hơi sửng sốt.
– Tết Nguyên tiêu cho muôn dân vào thành trẩy hội, lúc đó quả thực không thể đóng cổng thành. Điện hạ nôn nóng trong lòng, chỉ sợ thích khách ép Thái tử phi xuất thành, sẽ khó bề truy bắt, Điện hạ liền bất chấp tất cả, sai người ngầm phóng hỏa đốt Thừa Thiên Môn.
Giọng Bùi Chiếu vẫn đều đều:
– Vì Thái tử phi mà Điện hạ bất chấp tất cả, trong khi Thái tử phi lại không thể tha thứ cho Điện hạ.
Tin này khiến tôi quá đỗi kinh ngạc, mãi sau không thốt nên lời. Thừa Thiên Môn tượng trưng cho quyền lực đế vương, từ khi Thừa Thiên Môn xảy ra hỏa hoạn, trong triều không tránh khỏi xôn xao bàn tán. Bệ hạ cũng vì chuyện này mà phải viết Tội kỷ chiếu[1], nhận tội thất đức về mình. Có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ, thì ra Lý Thừa Ngân sai người phóng hỏa chứ không phải tình cờ mà cháy.
[1] Các vua chúa ngày xưa ban chiếu tự nhận là có lỗi với dân gọi là Tội kỷ chiếu.
Bùi Chiếu nói: “Điện hạ thân làm Thái tử, thân bất do kỷ[2]. Hôm đó phục kích thích khách, lại ngộ thương A Độ, đều do mạt tướng cố chấp làm theo ý mình. Thái tử phi nếu có hỏi tội, đương nhiên mạt tướng sẽ gánh chịu, Thái tử phi đừng vì thế mà trách oan Điện hạ.”
[2] Thân thể không do mình làm chủ.
Dù tôi chẳng nghĩ gì, song cũng đâu phải đứa ngốc, tôi nói:
– Ngươi đừng hòng lừa ta.
Bùi Chiếu nói:
– Mạt tướng không dám.
Tôi lạnh lùng nói:
– Có gì mà ngươi không dám, chẳng phải lệnh vua khó cưỡng đó sao? Không có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám điều động Vũ Lâm quân bao vây tiêu diệt thích khách sao? Không có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám sai chúng phóng tên sao? Ngươi nhận hết tội về mình, chẳng qua muốn khuyên ta quay về, nhưng ta không mắc lừa các ngươi nữa đâu. Ba năm trước, khi ta nhảy xuống sông Quên, ta tưởng sẽ không phải gặp lại các ngươi nữa. Ba năm qua, ta đã quên hết tất cả, nhưng chắc ngươi cũng tính đến chuyện ta sẽ nhớ lại từ đầu. Những gì Lý Thừa Ngân từng làm, ta mãi mãi không tha thứ. Hôm nay ngươi ngăn ta qua cửa khẩu, ta sẽ liều xông qua, muốn chém muốn giết gì thì tùy ngươi.
Bùi Chiếu trầm mặc một lát, rồi nói:
– Mạt tướng sẽ không…
Tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao:
– Ngươi không cái gì?
Gã ngước mắt nhìn tôi:
– Bữa đó Thái tử phi hỏi, nếu thích khách bắt người làm con tin, phải chăng mạt tướng vẫn sẽ ra lệnh trừ khử người và thích khách? Bây giờ mạt tướng đang trả lời người, mạt tướng sẽ không làm vậy.
Tôi chợt hiểu, liền ra dấu với A Độ, A Độ lập tức rút đao, kề cổ tôi.
Tôi nói:
– Mở cổng mau!
Bùi Chiếu xẵng giọng:
– Thích khách uy hiếp Thái tử phi, chớ làm Thái tử phi bị thương, mau mở cổng.
Cổng thành được mở, cánh cổng nặng trịch, phải cần mười mấy người đẩy dịch từng chút một. Phía bên kia, mặt trời chói gắt đổ nắng chang chang khiến người bỏng rát.
Ánh mặt trời ngoài Ngọc Môn Quan vẫn luôn nhức nhối như vậy, tôi kìm nén sự hả hê, thúc ngựa chạy về phía cổng thành.
Bất ngờ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa vang rền, một đoàn kỵ binh đang lao về phía này. Cờ quạt đi trước phấp phới, tôi thấy hoa văn hình rồng thêu long trọng trên lá cờ. Tôi nheo mắt nhìn đạo quân kia lao đến mỗi lúc một gần, rồi nhận ra, Lý Thừa Ngân đang dẫn đầu đoàn quân ấy.
Trái tim tôi chợt chùng xuống.
Tôi và A Độ thúc ngựa lao về phía cổng thành.
Xa xa vẳng lại tiếng hét:
– Đóng cổng thành! Điện hạ có lệnh! Mau đóng cổng thành!
Đám quân lính nhanh chóng đẩy cánh cửa về phía trước, toan khép cổng thành.
Cánh cổng nặng trịch đã gần ngay trước mắt. Lính tráng còng lưng đẩy cổng thành, cánh cổng mỗi lúc một hẹp, mỗi lúc một gần, kẽ hở chỉ vừa đủ lọt một con ngựa, xem ra không kịp nữa rồi. A Độ lao lên trước, muội ấy ngoái lại, toan kéo tôi sang ngồi cùng ngựa. Tôi vung tay quất mạnh roi da, ngựa của A Độ bị đau liền hí một tràng dài rồi nhảy vọt qua cổng thành.
Cổng thành từ từ khép lại, tôi thấy A Độ hốt hoảng ngoái đầu nhìn tôi. Muội ấy ghìm cương, quay ngựa định vòng lại, nhưng cánh cổng nặng nề kia đã đóng lại. A Độ chọc đao vào cánh cổng nhưng cũng chẳng thể làm gì. Cổng thành đã đóng, chốt sắt đã cài, tôi nghe tiếng đao chém cật lực vào then cài, song những vết chém chỉ làm tóe ra những tia lửa vô vọng. Muội ấy không biết nói nên không thốt được tiếng nào, tôi thấy lưỡi đao chém điên cuồng giữa khe cửa, nhưng nhát nào nhát nấy đều phí hoài công sức.
Toán Vũ lâm lang đã xông lên, tôi quay người chạy về phía quan ải, chạy miết lên thành lầu. Nhoài mình trên tường trổ, tôi khom người nhìn xuống A Độ vẫn đang bơ vơ nện vào cánh cổng. Cửa ải hiểm yếu phòng thủ vô cùng kiên cố, chỉ mình muội ấy sao đủ sức lay động được nó dù chỉ là một chút? Thấy A Độ khóc trong câm lặng, gợi tôi nhớ đến Hách Thất, huynh ấy phó thác tôi cho A Độ, đồng nghĩa với việc gửi gắm A Độ cho tôi. Nếu không có tôi, có lẽ A Độ cũng chẳng thiết sống nữa. Tôi cũng vậy, nếu không có A Độ, tôi đã chết từ lâu rồi.
Đột Quyết đã diệt vong, A Đô bơ vơ hơn tôi gấp nhiều lần. Hai mươi vạn dân Đột Quyết đã chết trong vòng vây của Nguyệt Thị và Trung Nguyên, mối thù không đội trời chung còn đó, vậy mà muội ấy vẫn ở Trung Nguyên suốt ba năm, vì tôi.
Đến hôm nay, A Độ là người duy nhất khiến tôi ăn năn.
Vũ lâm quân đã áp sát chân thành, nhiều kẻ xúm quanh Lý Thừa Ngân vừa xuống ngựa. Tôi nghe sau lưng có tiếng bước chân nhốn nháo, chúng đã xông lên thành lầu.
Tôi không hề sợ hãi, cứ đứng lặng ở đó.
Cổ Lý Thừa Ngân đang quấn sa trắng, nếu tôi cứa mạnh hơn, có lẽ lúc này chàng đã không đứng ở đây.
Chàng tiến về phía tôi, chàng tiến một bước, tôi lùi một bước. Tôi cứ lùi dần, cho đến khi chạm bờ tường trổ thấp, không còn đường lùi nữa. Gió tây đùa giỡn khiến ống tay áo tung bay phần phật, giống ngày đó bên bờ sông Quên, tôi đứng ở ngay mép vực, dưới chân vực là sông sâu, mây mù vấn vít ngang lưng.
Lý Thừa Ngân nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, cuối cùng, chàng cất lời:
– Lẽ nào nàng không muốn làm thê tử của ta đến vậy ư?
Tôi cười, song không đáp.
Chàng hỏi:
– Rốt cuộc gã Cố Tiểu Ngũ kia có gì tốt đẹp?
Bàn chân tôi đã chạm vào trống rỗng, hư không, chỉ có mũi chân vẫn bám trên tường trổ, cả người đong đưa như thể sẽ buông mình rơi xuống bất cứ lúc nào. Vũ lâm quân đứng rạt ra xa, lặng lẽ nhìn tôi, còn ánh mắt Lý Thừa Ngân chất chứa những nỗi khổ sở, phức tạp đang kìm nén.
Tôi nói:
– Cố Tiểu Ngũ có gì tốt đẹp, không bao giờ ta nói cho chàng biết.
Lý Thừa Ngân cười phá lên:
– Tiếc thay hắn đã chết rồi.
Phải, tiếc thay chàng đã chết rồi.
Chàng nói với tôi:
– Nàng theo ta về, ta sẽ bỏ qua tất cả, chẳng những thế, ta sẽ yêu thương nàng nhiều hơn. Dù nàng còn nhớ nhung gã Cố Tiểu Ngũ kia hay không, chỉ cần nàng theo ta về, ta hứa sẽ không bao giờ nói đến chuyện này nữa.
Tôi cười với chàng, rồi nói:
– Chỉ cần chàng hứa với ta một việc, ta sẽ cam tâm theo chàng quay về.
Khuôn mặt chàng đanh lạnh, không chút biểu cảm, chàng hỏi:
– Chuyện gì?
Tôi nói:
– Chàng bắt cho ta một trăm con đom đóm.
Chàng hơi thảng thốt, nhìn tôi vẻ khó hiểu. Tôi thấy trước mắt dần nhạt nhòa, nhưng miệng vẫn nhoẻn cười:
– Nước sông Quên, đặng quên tình… Sông Quên thần kỳ cho ta ba năm quên lãng, nhưng không để ta một đời được quên.
Nước mắt lăn dài trên gò má, tôi cười nói:
– Giá mà ta có thể quên được như chàng, thì tốt biết bao.
Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi, như thể từ đầu đến cuối, chàng không hiểu những gì tôi nói. Còn tôi, tôi không biết sắc mặt mình thế nào, rõ ràng tôi đang cười mà nước mắt vẫn rơi. Tôi nói:
– Lần này, ta nhất định sẽ quên được chàng.
Tôi quay người, như chú chim tung cánh giữa trời, như cánh bướm sà đậu bên khóm hoa, tôi không mảy may do dự gieo mình xuống. Tôi biết rằng, nơi đây không phải sông Quên, dưới kia là vô số những mảnh đá dăm lởm chởm, một khi ngã xuống, chỉ có thịt nát xương tan.
Tôi nghe thấy nhiều tiếng kêu la thất thanh, Lý Thừa Ngân lao lên, chàng vung dây lưng quấn lấy tôi. Mọi sự dường như tái diễn lại cảnh từ ba năm về trước. Người tôi treo lơ lửng giữa không trung, còn chàng đã mấp mé bên mép tường vì lao theo tôi. Một tay bám vào gạch tường, tay kia kéo tôi, bàn tay chàng nổi gân xanh, hình như vết thương ở cỗ đã rỉ máu, song chàng quyết không buông tay, còn hét lớn:
– Người đâu!
Tôi biết một khi Vũ lâm quân xông lên giúp chàng, tôi sẽ không còn bất kỳ cơ hội nào nữa, tôi với tay cắt xẹt trước mắt chàng. Chàng thét lên:
– Không!
Tôi cắt dải dây lưng, giữa không trung, dải lụa mỏng manh đứt lìa. Tôi cố mỉm cười thật tươi, nụ cười cuối cùng dành cho chàng:
– Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ.
Tôi thấy trong đôi mắt ấy vẻ bàng hoàng, máu vẫn ứa ra từ cổ, dường như chàng vừa chịu đựng một nỗi đau đớn nặng nề mà đường đột, chàng hơi ngửa ra sau. Tôi thấy máu rỉ ra từ vết thương của chàng, rơi xuống mặt mình. Tôi nhoẻn cười nhìn chàng, có lẽ chàng muốn kéo tôi lại nhưng vô ích, thứ duy nhất níu được chỉ là gió. Tiếng chàng thảm thiết vang lên bên tai tôi:
– Là ta… Tiểu Phong ơi… Ta là Cố Tiểu Ngũ…
Tôi biết, cuối cùng thì chàng đã nhớ ra, đây có lẽ là sự trả thù đau đớn nhất mà tôi dành cho chàng. Ba năm trước, chính chàng bày ra cuộc thảm sát ấy, giết chết tình cảm giữa chúng tôi. Ba năm sau, cơ sự đã đến nước này, tôi đành cắt lìa những gì từng có giữa chúng tôi.
Tôi thấy chàng định lao xuống, có lẽ chàng định nối bước theo tôi giống ba năm về trước, nhưng nơi này nào phải sông Quên, nếu nhảy xuống thì chỉ có thịt nát xương tan. Bùi Chiếu ngăn chàng, tôi thấy chàng vung tay đấm vào ngực Bùi Chiếu khiến gã chảy máu miệng. Hẳn chàng đã đấm rất mạnh, song Bùi Chiếu vẫn quyết không buông tay, lại thêm nhiều người xông lên giữ chàng.
Bầu trời trong xanh… Tiếng gió rót ào ào bên tai, tất cả dần trở nên nhạt nhòa trước mắt.
Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm mặt trời khuất bóng. Tôi thấy trái tim mình dần rũ héo, chờ ánh tà dương le lói sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng đã biến mất.
Dường như tôi thấy đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng nên vẫn khinh thường ra mặt. Chàng nhấc cây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng đứng quanh đó phá lên cười ngặt nghẽo. Trong tiếng cười nhạo báng, chàng bắn rụng một trăm con dơi với một loạt tên liên hoàn…
Dường như tôi thấy rất nhiều con đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và chàng, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt tỏa đi khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này chăng?
Dường như tôi thấy mình đang đứng bên bờ sông Quên, bàn chân đã chạm vào trống rỗng, hư không, gió trên vách núi lay tôi đứng không vững, như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng cà vào cánh tay. Chàng không dám tiến thêm một bước. Tôi nói với chàng:
– Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ mới sinh ra cảnh nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi đau này.
Tôi gằn từng tiếng:
– Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!
Dường như tôi thấy mình ngồi bơ vơ trong đêm tân hôn ngày đó. Đêm tân hôn ấy, chàng nhấc bỏ chiếc khăn trên đầu tôi. Khăn voan được nhấc lên, trước mắt sáng lóa, ánh nến lung linh soi rọi khắp phòng, chảy tràn trên khuôn mặt, trên người chàng. Chàng mặc bào đen thêu rất nhiều hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu quyển “Điển lễ”, giờ đã hiểu đấy là chín chương thêu trên áo đen và xiêm cam. Năm chương trên áo gồm rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; rau tảo, gạo trắng, phủ, phất hợp thành bốn chương trên xiêm. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ phủ, viền xanh đen, có soạn và tà áo. Thắt đai da, móc vàng sáng chói, dây đai bản to màu trắng không lót đỏ, viền đỏ xanh, khuy đan bện. Áo tế đồng màu với xiêm, gồm hai chương là núi và lửa.
Chàng mặc áo cổn, mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng rủ chín chuỗi, kết thành tua, màu như lụa, bông tơ xanh che tai, trâm cài sừng tê… tôn lên vẻ khôi ngô, tuấn tú, dáng vẻ đường hoàng.
Lúc đó, tôi tưởng đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp gỡ, nhưng không ngờ, chúng tôi đã từng gặp nhau ở đất Tây Lương, dưới ánh trăng ngập tràn.
Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình cắt lìa dải dây lưng, lệ đã tràn trong đôi mắt chàng.
Nhưng muộn rồi, ba năm đôi ta chỉ có cãi vã, vậy mà vẫn yêu nhau. Đây là sự trừng phạt mà thánh thần dành cho những kẻ đã từng uống nước sông Quên. Lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia lìa, mãi mãi không được nhớ về nhau.
Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống vực sâu, chờ đợi thân mình vỡ vụn.
Nhưng tôi bị hẫng lại, chẳng thấy cơn đau như trong tưởng tượng, tôi liền mở mắt, thấy cánh tay mát rượi của A Độ đang ôm lấy mình. Tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song không ai trên đời có thể chịu được sức rơi mạnh đến thế, hình như tôi còn nghe rõ tiếng xương cốt của A Độ vỡ vụn. Muội ấy đã lấy thân mình làm tấm đệm cho tôi tiếp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào lên:
– A Độ!
Hai chân tôi đau nhói, không thể nào đứng lên được, tôi cố gắng bò dậy, cuống quýt muốn ôm lấy A Độ, nhưng chỉ cần khẽ cử động lại đau buốt. Vẻ mặt A Độ đầy đau đớn, song đôi mắt đen láy của muội ấy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, không mảy may trách móc, như thể tôi vừa bày một trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như trước kia, tôi từng dẫn muội ấy lẻn ra phố. Tôi ôm A Độ, thì thào gọi tên muội ấy.
Tôi biết rõ, từ lâu, tôi đã không còn Tây Lương để về. Tôi chỉ mong A Độ bỏ chạy trước, nhưng tôi có lỗi với A Độ. Tôi biết, A Độ sẽ không để mình tôi phải lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng biết, tôi không thể để A Độ một mình bơ vơ. A Độ nhắm mắt, mặc cho tôi có gọi thế nào đi chăng nữa, muội ấy cũng không hay.
Tôi nghe tiếng cổng thành đang mở, binh lính đổ về phía chúng tôi. Tôi biết bọn chúng vẫn muốn đưa tôi về kiếp sống khốn khổ, chúng muốn đưa tôi về chốn Đông cung cô quạnh. Nhưng tôi không muốn phải chịu đựng những nỗi khổ sở ấy thêm nữa.
Tôi nói với A Độ:
– Chúng ta cùng về Tây Lương thôi.
Tôi nhặt thanh đao của A Độ, lưỡi đao đã sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ chém cật lực vào then sắt. Cuối cùng tôi cắm phập thanh đao vào lồng ngực mình. Chẳng hề đau. Có lẽ tôi đã nếm trải đủ mọi đớn đau, khổ sở trên cõi đời, chết có là gì nữa đâu…
Máu tuôn rơi, đôi bàn tay nhuốm máu nắm chặt tay A Độ, tôi nhoài người nằm bên muội ấy. Tôi biết, cuối cùng chúng tôi cũng được về nhà.
Những cảm giác, sự ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng đang phi ngựa về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ đi bắt một trăm con đom đóm cho tôi thôi.
Giờ đây, tôi muốn tự tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và chúng tôi mãi mãi không chia lìa.
Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.
Trên mảnh đất hoang vu, dường như có ai đang hát bài ca nọ:
“Có con cáo nhỏ cô đơn
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình.
Cơ mà đâu phải ngắm trăng
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê
Có con cáo nhỏ bơ vơ
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình.
Nào đâu cáo muốn sưởi mình
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua…”
Thì ra con cáo nhỏ ấy đã không đợi được người con gái nó mong hoài bấy lâu.
Hoàn Chính văn