THỨ SÁU, 23 THÁNG SÁU 1:30 CHIỀU
MALONE VÀ STEPHANIE RA KHỎI COPENHAGEN BẰNG XA lộ số 152. Mặc dù đã từng lái xe từ Rio de Janeiro đến Petropolis và dọc theo bờ biển từ Naples đến Amalfi, Malone tin rằng lối đi phía Bắc Hensingor, dọc theo bờ biển phía Đông lởm chởm đá của Đan Mạch, đẹp hơn tất cả những con đường dọc biển khác. Những ngôi làng ngư dân, rừng sồi, nhà nghỉ mùa hè, và bình nguyên màu ghi trải rộng không gợn sóng, tất cả hòa quyện với nhau để tạo nên một sự huy hoàng phi tuổi tác.
Thời tiết rất đặc trưng. Mưa đập vào cửa kính trước, gió quật lồng lộn. Đi qua một trong những khu nghỉ ven bờ biển nhỏ hơn, đóng cửa vào buổi đêm, đường cao tốc đi sâu vào đất liền đến một quãng rừng. Qua một cánh cổng đang mở, phía xa vượt ngoài hai ngôi nhà gỗ màu trắng, Malone đi theo một lối đi mọc đầy cỏ và đỗ vào một cái sân trải sỏi. Ngôi nhà phía trên là một mẫu hình Ba rốc Đan Mạch đẹp đẽ – cao bốn tầng, xây bằng gạch và đá làm từ cát, trên cùng phủ một mái ngói bọc đồng cong cong đầy duyên dáng. Một chái nhà quay vào phía trong đất liền. Mặt kia nhìn ra biển.
Anh biết rõ lịch sử của nó. Tên là Christiangate, ngôi nhà được xây ba trăm năm trước bởi một Thorvaldsen khôn ngoan, người đã biến hàng tấn than bùn vô giá trị thành chất đốt để sản xuất đồ sứ. Vào những năm 1800, Nữ hoàng Đan Mạch phong nhà máy thủy tinh này làm người cung cấp chính thức cho hoàng cung, và Adelgate Glasvaerker, với biểu tượng đặc biệt vẽ hình hai vòng tròn với một đường kẻ thẳng bên dưới, vẫn còn thống trị cả Đan Mạch và Châu Âu. Người điều hành tổ hợp sản xuất đó hiện nay là ông chủ gia đình, Henrik Thorvaldsen.
Cánh cửa ngôi nhà được một gia nhân mở ra, ông ta không hề ngạc nhiên khi nhìn thấy hai người. Điều này hết sức đáng chú ý, vì khi đó đã là sau nửa đêm và Thorvaldsen sống cô đơn như một con cú mèo. Họ được dẫn vào một căn phòng nơi những thanh xà gỗ sồi, đồ sắt, và những bức chân dung vẽ bằng sơn đầu gợi lên rõ rệt nơi trú ngụ của một nhà quý tộc. Một cái bàn dài chiếm gần hết chỗ của sảnh lớn – bốn trăm năm tuổi, Malone còn nhớ có lần Thorvaldsen đã nói, thứ gỗ thích màu tối dùng để làm bàn phản ánh một sự kết thúc đó chỉ có được sau hàng thế kỷ được sử dụng một cách khôn ngoan. Thorvaldsen ngồi ở một đầu bàn, một cái bánh cam và một bình xa-mô-va bốc khói đặt trên bàn trước mặt ông.
“Xin mời vào. Mời ngồi”.
Thorvaldsen đứng dậy từ cái ghế một cách có vẻ hết sức khó nhọc và cố nở một nụ cười. Cái dáng người lom khom kiểu người bị bệnh viêm khớp của ông không cao hơn năm feet rưỡi, cái bướu trên lưng được giấu sau một cái áo khoác kiểu Na Uy ngoại cỡ. Malone nhận ra một vẻ láu lỉnh trong đôi mắt màu ghi sáng. Người bạn của anh đang âm mưu một điều gì đó. Rất rõ ràng.
Malone chỉ cái bánh. “Ông chắc là chúng tôi sẽ đến nên làm bánh à?”
“Tôi không chắc là cả hai người sẽ đến, nhưng tôi biết là hai người có thể làm vậy”.
“Tại sao thế?”
“Khi tôi biết là hai người có mặt ở chỗ đấu giá, tôi biết sẽ chỉ là vấn đề thời gian trước khi hai người phát hiện sự dính líu của tôi”.
Stephanie bước lên trước. “Tôi muốn quyển sách của tôi.”
Thorvaldsen nheo mắt nhìn bà vẻ nghiêm khắc. “Không chào? Không rất vui vì được gặp ông? Chỉ có ‘Tôi muốn quyển sách của tôi’”.
“Tôi không thích ông”.
Thorvaldsen trở lại chỗ ngồi ở đầu bàn. Malone quyết định rằng cái bánh trông rất ngon, nên anh ngồi xuống và cắt một miếng.
“Bà không thích tôi?”, Thorvaldsen nhắc lại. “Kỳ cục thật đấy, vì chúng ta đã bao giờ gặp nhau đâu”.
“Tôi biết về ông”.
“Có nghĩa là Magellan Billet có một hồ sơ về tôi?”
“Tên ông nằm ở những nơi kỳ lạ nhất. Chúng tôi gọi ông là người đáng quan tâm ở mức độ quốc tế”.
Mặt Thorvaldsen nhăn lại, như thể đang phải chịu một sự ăn năn của người hấp hối. “Bà nghĩ tôi là một tên khủng bố hay tội phạm à?”
“Ông là cái nào trong hai cái đó?”
Người đàn ông Đan Mạch nhìn thẳng lại vào mặt bà với một vẻ tò mò đột ngột. “Tôi được biết là bà có thiên tài trong việc hình dung ra những kỳ công vĩ đại và tài khéo léo để xem xét chúng thật cẩn thật. Lạ thật đấy, với tất cả những kỹ năng đó, thế mà cuối cùng bà lại thất bại trong tư cách một người vợ và một người mẹ”.
Đôi mắt Stephanie lóe lên sự tức tôi. “Ông không biết gì về tôi hết”.
“Tôi biết bà và Lars không sống cùng nhau trong nhiều năm trước khi ông ấy chết. Tôi biết bà và ông ấy khác biệt nhau về rất nhiều thứ. Tôi biết bà và con trai bà không hòa hợp”.
Một cơn điên giận làm hai má Stephanie đỏ rực lên. “Chó chết”.
Thorvaldsen có vẻ không bị ảnh hưởng gì với phản ứng của bà, “Bà sai rồi, Stephanie ạ”,
“Về cái gì?”
“Về rất nhiều điều. Và đã đến lúc bà cần biết dự hội rồi”.
De Roquefort tìm thấy ngôi nhà ở đúng nơi mà căc í bông tin gã yêu cầu đã chỉ dẫn. Khi hắn biết được ai đã làm việc cùng Peter Hansen để mua quyển sách, tên phó của gã chỉ cần mất nửa giờ đồng hồ để dựng một hồ sơ. Giờ đây gã đang nhìn chằm chằm vào ngôi nhà êm ả của người đã bỏ tiền mua quyển sách – Honrik Thorvaldsen – và điều này khiến cho mọi việc trở nên rõ ràng.
Thorvaldsen là một trong những công dân giàu có nhất của Đan Mạch, với nguồn gốc gia đình xa xôi, ngược lên đến tận thời của người Viking. Tài sản của ông ta thật ấn tượng. Ngoài Adelgate Glasvaerker, ông ta còn sở hữu lợi tức ở sắc ngân hàng Anh, hầm mỏ Ba Lan, nhà máy Đức, và giao thông Châu Âu. Trên một châu lục như vậy, Thorvaldsen đứng ở hàng đầu của phần lớn các bản danh sách về người giàu. Ông ta là một người kỳ quặc, một người hướng nội thỉnh thoảng mới rời khỏi nhà của mình đi đâu đó. Những khoản tiền từ thiện của ông ta lên đến mức huyền thoại, đặc biệt là tiền đành cho những người sống sót khỏi lò thiêu Đức Quốc xã, các tổ chức chống cộng, và hoạt động y tế thế giới.
Ông sáu mươi tuổi và gần gũi với gia định hoàng gia Đan Mạch, đặc biệt là Nữ hoàng. Vợ và con ông đã chết, vợ ông vì bị ung thư, còn con trai bị bắn chết hơn một năm trước trong khi thực hiện một công vụ của Đan Mạch ở Mexico City. Người đã bắn hí.i một trong số những kẻ giết người là một luật sư – điệp viên người Mỹ tên là Cotton Malone. Có thêm cả một đường kết nối tới Lars Nelle, mặc dù mối quan hệ đó không hề tốt đẹp, vì Thorvaldson là tác giả của những lời bình luận không mấy thiện cảm dành cho các nghiên cứu của Nelle. Sự cố xảy ra mười lăm năm trước ở thư viện Sainte-Genevieve ở Paris, khi hai người đụng độ và cãi cọ từng được báo chí Pháp đưa tin rộng rãi. Tất cả những chuyện đó giải thích tại sao Henrik Thorvaldsen quan tâm đến lời đề nghị của Peter Hansen, nhưng không hoàn toàn như vậy.
Gã cần phải biết được tất cả.
Làn không khí mạnh bạo của biển thổi vào vùng Oresund giờ đây đang tối om và mưa đang chuyển dần thành sương mù. Hai gã đồ đệ đứng bên cạnh gã. Hai gã khác đang đợi trong xe, đỗ ở phía trên khu nhà, đầu óc vẫn u mê vì bị thứ thuốc gì đó bắn vào. Gã vẫn chưa biết ai là người đã can thiệp vào vụ đó. Dù cả ngày không cảm thấy bị ai nhòm ngó, gã vẫn bị một người nào đó khéo lén theo sát bước. Một người nào đó giỏi đến mức sử dụng được cả những ngọn phi tiêu gây mê.
Nhưng những điều đầu tiên phải nghĩ đến đầu tiên. Gã men theo con đường chạy qua cái sân ướt đến một hàng rào chắn trước ngôi nhà thanh lịch. Có ánh đèn ở tầng dưới cùng, nơi từ đó có thể nhìn ra khung cảnh biển đẹp tuyệt vời vào ban ngày. Gã không thấy có người canh gác hoặc hệ thống báo động. Thật đáng tò mò, nhưng không đáng kinh ngạc.
Gã tiến lại gần cửa sổ sáng đèn. Gã nhìn thấy một cái xe đỗ trên lối vào và tự hỏi không biết có phải cơ may của mình đã tan biến mất rồi hay không. Gã thận trọng nhìn vào trong và thấy Stephanie cùng Cotton Malone đang nói chuyện với ông già.
Gã mỉm cười. Quả thật là các cơ may của gã đã đến cùng một lúc.
Gã ra hiệu và một trong các gã đàn ông mang đến một cái hộp nhựa. Gã mở nắp và lấy ra một cái microphone. Gã cẩn thận đính cái đáy của nó vào góc cửa sổ. Bộ thu nhận âm thanh trong cái túi ny lông giờ đây có thể nghe được mọi thứ.
Gã cắm một tai nghe nhỏ vào tai.
Trước khi giết họ, gã cần phải nghe đã.
“Tại sao bà không ngồi?”, Thorvaldsen hỏi.
“Ông tốt quá, Herr Thorvaldsen ạ, nhưng tôi thích đứng hơn”, Stephanie nói rõ ràng, giọng nói có vẻ khinh miệt.
Thorvaldsen với tay lấy bình cà phê và rót vào cóc của mình. “Tôi đề nghị là có thể gọi tôi bằng bất kỳ cách nào, trừ Herr”. Ông đặt cái ấm xa-mô-va xuống. “Tôi ghét mọi thứ liên quan đến nước Đức, dù là xa xôi”.
Malone nhìn Stephanie đang lấy lại thế thượng phong. Chắc chắn nếu ông là một “người đáng quan tâm” trong các hồ sơ của Billet, thì bà phải biết rằng ông nội, các chú, các dì, anh chị em họ của Thorvaldsen đều từng là nạn nhân của quân Đức Quốc xã chiếm đóng Đan Mạch. Ngay cả như vậy, anh vẫn trông chờ Stephanie phản công, nhưng thay vì đó mặt bà lại dịu đi. “Thế thì Henrik vậy”.
Thorvaldsen thả một viên đường vào cốc cà phê của mình. “Tính khối hài của bà đã được ghi nhận”. Ông khuấy cà phê. “Từ trước đây lâu rồi tôi đã biết rằng mọi thứ đều có thể được giải quyết quanh một tách cà phê. Người ta sẽ tâm sự với bạn nhiều hơn về đời tư của mình sau khi uống một tách cà phê ngon lành, hơn là sau một ly sâm banh hoặc rượu vang”.
Malone biết rằng Thorvaldsen muốn làm cho người đối diện cảm thấy thoải mái bằng cách nói những điều vu vơ, để có thời gian đánh giá tình hình. Ông già uống cà phê từ cái tách.
“Như tôi đã nói, Stephanie, đã đến lúc chị cần biết sự thật”.
Bà tiến lại gần cái bàn và ngồi đối diện với Malone. “Vậy thì ông tìm cách phá bỏ tất cả những ý nghĩ sẵn có của tôi về ông đi”.
“Và những ý nghĩ đó có thể là những gì?”
“Tôi có thể nói. Có một số điểm nổi bật. Ba năm trước đây ông có dính dáng đến một nghiệp đoàn trộm tranh có hậu thuẫn của các nhóm cực đoan Israel. Năm ngoái ông đã can thiệp vào cuộc bầu cử quốc gia ở Đức, cấp tiền một cách bất hợp pháp cho một số ứng cử viên. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, cả người Đức lần người Israel đã chọn cách không trừng trị ông”.
Thorvaldsen phác một cử chỉ sốt ruột. “Có tội ở cả hai bên. Các hậu thuẫn của các nhóm cực đoan Israel, như bà gọi ấy, là những người không cảm thấy yên ổn được với một chính phủ Israel tham nhũng. Để giúp họ, chúng tôi cung cấp tiền từ những người Arập buôn tranh ăn cắp. Chỉ đơn giản là những bức tranh được ăn cắp trở lại từ những tên trộm. Có lẽ các hồ sơ của bà cũng ghi rõ rằng những tác phẩm đó đã được trả về cho chủ của chúng”. “Nhưng phải trả tiền”.
“Tiền phí đó nhà sưu tập nghệ thuật nào cũng có thể chịu được. Chúng tôi chỉ chuyển tiền kiếm được vào những mục tiêu có giá trị hơn. Tôi nhìn thấy một công lý nào đó bằng cách làm ấy. Còn kỳ bầu cử ở Đức? Tôi đã chi tiền cho nhiều ứng cử viên dám đối đầu với cánh hữu cực đoan. Với sự giúp đỡ của tôi, tất cả bọn họ đều chiến thắng. Tôi không thấy có lý do nào để phải cho phép chủ nghĩa phát xít mới tiến lên được dù chỉ là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Bà không thấy thế à?”
“Những gì ông làm là phạm pháp và gây ra nhiều vấn đề”. “Những gì tôi làm là giải quyết một vấn đề. Điều đó nhiều hơn so với những gì người Mỹ đã làm”.
Stephanie không có vẻ gì là bị ấn tượng. “Tại sao ông lại can thiệp vào chuyện của tôi?”
“Đó là câu chuyện của bà đến mức độ nào?”
“Nó liên quan đến tác phẩm của chồng tôi”.
Mặt Thorvaldsen đanh lại. “Tôi không nhớ đã có bao giờ bà quan tâm đến tác phẩm của Lars khi ông ấy còn sống hay chưa”.
Malone nhận ngay ra những từ đầy tính phê phán. Tôi không nhớ. Điều đó thể hiện ông rất biết về quá khứ của Lars Nelle. Thật lạ là Stephanie không tỏ ra là đang lắng nghe.
“Tôi không định tranh luận về đời tư của tôi. Chỉ cần nói tại sao ông lại mua quyển sách đó vào tối vừa rồi thôi”.
“Peter Hansen thông báo cho tôi về mối quan tâm của bà. Ông ấy cũng nói với tôi rằng có thêm một người khác cũng muốn bà có được quyển sách ấy. Nhưng trước đó tay đàn ông kia muốn có một bản sao. Hắn ta đã trả tiền cho Hansen để đảm bảo được chắc chắn là mọi chuyện sẽ diễn ra như vậy”.
“Ông ta có nói đó là ai không?”, bà hỏi.
Thorvaldsen lắc đầu.
“Hansen chết rồi,” Malone nói.
“Không có gì phải ngạc nhiên cả”. Không cảm xúc nào hiện ra trong giọng nói của Thorvaldsen.
Malone kể lại cho ông chuyện đã xảy ra.
“Hansen tham lam quá”, Thorvaldsen nói. “Ông ấy tin rằng quyển sách có giá trị rất lớn, vì vậy ông ấy muốn bí mật mua nó và bán lại với giá cao cho một người khác”.
“Và đó là điều ông đã chấp nhận làm, vì ông vẫn là một kiểu nhà từ thiện”. Có vẻ như là Stephanie không hề có ý định châm chọc.
“Hansen và tôi từng làm chung với nhau rất nhiều việc. Ông ấy nói với tôi toàn bộ câu chuyện và tôi đề nghị được tham gia. Tôi sợ nếu không ông ấy sẽ đi đâu đó tìm một người mua vô danh nào đó. Cả tôi cũng muốn bà có được quyển sách, thế cho nên tôi đồng ý với ông ấy, nhưng tôi không hề có ý định để nó lọt vào tay Hansen”.
“Ông không thật lòng tin rằng…”
“Bánh thế nào?”, Thorvaldsen hỏi.
Malone nhận ra rằng người bạn của anh đang tìm cách kiểm soát cuộc nói chuyện. “Ngon lắm”, anh nói bằng một cái miệng ngậm đầy bánh.
“Chúng ta đi thẳng vào vấn đề đi”, Stephanie đề nghị. “Cái sự thật mà tôi cần biết ấy”.
“Chồng bà và tôi từng là những người bạn thân thiết”.
Khuôn mặt của Stephanie xám lại trong một vẻ ghê tởm “Lars không bao giờ nói với tôi về ông”.
“Nhìn vào các mối quan hệ chằng chịt của bà, điều đó vô cùng dễ hiểu. Nhưng, ngay cả như vậy, cũng như trong nghề của bà thôi, nghề của ông ấy cũng có bí mật chứ”.
Malone đã ăn xong miếng bánh và nhìn Stephanie đang nghĩ ngợi về điều mà rõ ràng là bà không tin một chút nào.
“Ông nói dối”, cuối cùng bà tuyên bố.
“Tôi có thể cho bà xem đống thư từ, chúng sẽ chứng minh những gì tôi vừa nói là đúng. Lars và tôi thường xuyên viết cho nhau. Một nỗ lực cộng tác với nhau. Tôi chi tiền cho nghiên cứu ban đầu của ông ấy và giúp ông ấy vào những lúc khó khăn. Tôi đã trả tiền cho ngôi nhà của ông ấy ở Rennes-le-Château. Tôi chia sẻ niềm say mê của ông ấy, và rất vui mừng vì thân thiết được với ông ấy”.
“Niềm say mê nào?”
Thorvaldsen chằm chằm nhìn bà. “Bà biết quá ít về ông ấy. Chắc hẳn những niềm hối hận của bà phải hành hạ bà ghê gớm lắm”.
“Tôi không cần ông phải phân tích”.
“Thật à? Bà đến Đan Mạch để mua một quyển sách mà bà không biết một chút gì về mối liên quan đến tác phẩm của một người đã chết được hơn mười năm nay. Và bà không cảm thấy hối hận ư?”
“Ông là đồ nói năng vớ vẩn, tôi muốn quyển sách đó”.
“Trước hết bà phải nghe những gì tôi phải nói đã”.
“Nhanh lên”.
“Cuốn sách đầu tiên của Lars là một thành công vang dội. Nhiều triệu bản được bán trên toàn thế giới, mặc dù ở Mỹ nó chỉ bán được rất khiêm tốn. Cuốn thứ hai không được đón nhận nồng nhiệt bằng, nhưng chúng bán được — đủ để trang trải cho các chi phí của ông ấy. Lars nghĩ rằng một cách nhìn đối ngược có thể giúp truyền bá rộng rãi truyền thuyết về Rennes. Vì vậy tôi đã trả tiền cho nhiều người để họ viết sách phê phán Lars, những cuốn sách phân tích các kết luận của ông ấy về Rennes và chỉ ra những điểm sai lầm. Một cuốn sách kéo theo một cuốn sách khác và một cuốn sách khác nữa. Một số hay, một số dở. Bản thân tôi có lần cũng đã có những lời bình luận không mấy thiện cảm về Lars. Và rất nhanh thôi, đúng như ông ấy muốn, một thể loại đã ra đời”.
Đôi mắt của bà sáng bừng lên. “Các ông có điên không đấy?” “Tranh luận gay gắt chính là một cách quảng cáo. Và Lars thì lại không viết cho công chúng đông đảo. Tuy nhiên, sau một thời gian, mọi chuyện đã có quỹ đạo riêng. Rennes-le-Château trở nên khá nổi tiếng. Các chương trình đặc biệt trên truyền hình được thực hiện, các tạp chí làm chuyên đề về nó, trên Intemet đầy những trang web dành cho những bí ẩn của nó. Du lịch trong vùng tăng vọt. Nhờ có Lars, giờ đây du lịch thành phố đã trở thành cả một ngành công nghiệp”.
Malone biết rằng hàng trăm cuốn sách về Rennes đã được viết ra. Nhiều giá sách trong cửa hiệu của anh chất đầy những cuốn sách in đi in lại. Nhưng anh cần phải biết. “Henrik, hôm nay có hai người chết. Một người nhảy từ Round Tower xuống gãy cổ. Người còn lại bị ném ra khỏi cửa sổ. Cái đó thì không phải là một trò định hướng đám đông nữa rồi”.
“Tôi có thể nói ngay rằng người hôm nay anh đối mặt ở Round Tower là một giáo hữu của Dòng Hiệp sĩ Đền thờ.”.
“Thường thì tôi sẽ nói ông bị điên, nhưng gã đàn ông đó trước khi nhảy xuống đã hét lên cái gì đó. Beauseant”
Thorvaldsen gật đầu. “Tiếng hét xung trận của các Hiệp sĩ. Việc một đám đông trên lưng ngựa đồng thanh hét lên từ đó đã đủ để khiến kẻ thù sợ khiếp vía rồi”.
Anh nhớ đến điều đã đọc được trong cuốn sách lúc trước. “Các Hiệp sĩ đã bị Thanh Trừng vào năm 1307. Làm gì còn hiệp sĩ!
“Không đúng, Cotton. Đã từng có ý định Thanh Trừng, nhưng chính Giáo hoàng lại do dự. Sau này đã có chỉ dụ Chinon chính thức công nhận các Hiệp sĩ không mắc tội dị giáo. Clement V đích thân ra chỉ dụ đó, một cách bí mật, vào năm 1308. Nhiều người nghĩ rằng văn bản đó đã mất khi Napoléon cướp phá Vatican, nhưng mới đây nó đã được tìm thấy. Không. Lars tin rằng Dòng vẫn còn tồn tại, và cả tôi cũng vậy”.
“Trong các sách của Lars có rất nhiều dẫn chiếu đến các Hiệp sĩ”, Malone nói, “nhưng tôi không hề nhớ ông ấy có viết là họ vẫn còn tồn tại cho đến nay”.
Thorvaldsen gật đầu. “Đó là vì ông ấy định như vậy. Ngày xưa đã lắm điều đối nghịch, giờ vẫn còn. Chấp nhận nghèo khổ, dù rất nhiều tài sản và kiến thức. Chú trọng quá khứ, nhưng lại rất khéo léo trong cách hành xử. Nhà tu và chiến binh. Khuôn mẫu theo kiểu Hollywood và Hiệp sĩ thực thụ là hai thực thể khác nhau. Đừng tin tưởng vào mấy thứ bịa đặt đó. Họ là một đám người tàn bạo”.
Malone không bị ấn tượng. “Làm thế nào mà họ có thể tồn tại suốt bảy trăm năm mà không ai hay biết?”
“Làm thế nào mà một con côn trùng hoặc một loài thú sống trong thiên nhiên mà không ai biết là nó có tồn tại? Thế nên ngày nào cũng có thêm các loài mới được tìm ra”.
Nói đúng, Malone nghĩ, nhưng anh vẫn chưa thấy bị thuyết phục. “Vậy thì như thế nào?”
Thorvaldsen ngửa người ra sau trên cái ghế. “Lars tìm kiếm kho báu của Dòng Hiệp sĩ Đền thờ”.
“Kho báu nào?”
“Hồi đầu kỳ trị vì của mình, Philip IV hạ giá trị đồng tiền Pháp để thúc đẩy kinh tế. Hành động quá sức mất lòng dân này khiến cho đám đông kéo đến tìm cách giết ông ta. Ông ta phải chạy trốn đến Đền Paris và xin được các Hiệp sĩ bảo vệ. Chính vì vậy mà lần đầu tiên ông ta nghe ngóng được tài sản của DÒNG. Nhiếu năm sau, khi ngân quỹ của ông ta cạn kiệt, ông ta đã nghĩ
ra một kế hoạch để kết tội Dòng là dị giáo. Hãy nhớ là tất cả những gì một kẻ dị giáo sở hữu sẽ được chuyển sang tay nhà nước. Thế nhưng, sau những vụ bắt bớ vào năm 1307, Philip phát hiện ra rằng không chỉ ở Paris mà ở cả các cơ sở khác trên nước Pháp, kho tàng đều trống rỗng. Không có lấy một cắc tài sản của Đền được tìm ra”.
“Và Lars nghĩ rằng kho báu đó nằm ở Rennes-le-Château?”, anh hỏi.
“Không nhất thiết là ở đó, nhưng sẽ là đâu đó trong vùng Languedoc”, Henrik nói. “Có đủ dấu hiệu để đảm bảo cho kết luận đó. Nhưng các Hiệp sĩ đã khiến cho việc tìm kiếm nơi ở của họ trở nên khó khăn”.
“Chính vì vậy mà quyển sách ông mua hồi tối có liên quan?”, Malone hỏi.
“Eugène Stoblein là thị trưởng của Fa, một ngôi làng nằm gần Rennes. Ông ta là người rất có học, một nhạc sĩ, và một nhà thiên văn nghiệp dư. Đầu tiên ông ta viết một cuốn sách du lịch về vùng, rồi viết Pierres Grayées du Languedoc. Bia đá khắc vùng Languedoc. Một cuốn sách lạ kỳ miêu tả các tảng đá trong và xung quanh Rennes. Một mối quan tâm lạ thường, đúng thế, nhưng cũng không hiếm lắm – miền Nam nước Pháp nổi tiếng với những ngôi mộ hình thù độc đáo. Trong cuốn sách có một bản vẽ một tấm bia mộ khiến Stoblein chú ý. Hình vẽ đó quan trọng bởi vì ngôi mộ không còn tồn tại nữa”.
“Tôi có thể xem cái mà ông đang nói về không?”, Malone hỏi.
Thorvaldsen khó nhọc đứng dậy khỏi ghế và lết chân đến một cái bàn phụ. Ông quay lại cùng với quyển sách của phiên đấu giá. “Vừa được chuyển đến một giờ trước”.
Malone mở đến một trang được đánh dấu sẵn và xem xét hình vẽ.
HÌNH VẼ
“Đặt giả thuyết rằng bức vẽ của Stobloin là chính xác, Lars tin rằng tấm bia là một đầu mối dẫn đến chỗ giấu kho báu. Lars đã tìm kiếm cuốn sách này từ nhiều năm. Lẽ ra phải có một quyển ở Paris, vì Thư viện Quốc gia lưu trữ tất cả các sách từng được in ở Pháp. Nhưng, mặc dù có tên trong tổng danh mục, quyển sách không có ở đó’
“Lars có phải là người duy nhất biết về quyển sách này không?”, Malone hỏi.
“Tôi không biết. Phần lớn mọi người không tin là quyển sách tồn tại”.
“Quyển sách này đã được tìm thấy ở đâu?”
“Tôi đã nói chuyện với nhà đấu giá. Một kỹ sư đường sắt xây dựng con đường đi từ Carcassonne về phía Nam, đến dãy Pyrénees, sở hữu nó. Viên kỹ sư về hưu vào năm 1927 và chết năm 1946. Quyển sách nằm trong tài sản của con gái ông ta khi bà ta chết mới gần đây. Người cháu trai mang nó đi bán đấu giá. Viên kỹ sư rất quan tâm đến vùng Languedoc, đặc biệt là Rennes, và bản thân ông ta cũng có riêng cả một bộ sưu tập các tấm bia mộ.
Malone không thấy thỏa mãn về lời giải thích của ông. “Vậy thì ai là người đã báo tin cho Stephanie về cuộc đấu giá?”
“Hiện tại, đó là câu hỏi của đêm nay”, Thorvaldsen nói.
Malone nhìn thẳng vào Stephanie. “Lúc ở khách sạn, chị có nói rằng một lá thư được gửi đến cùng với quyển nhật ký. Chị có nó ở đây không?”
Bà tìm trong túi xách và rút ra một quyển sổ bìa da đã cũ. Kẹp trong đó là một tờ giấy màu nâu sẫm gập lại. Bà đưa tờ giấy cho Malone và anh thấy nó được viết bằng tiếng Pháp.
Vào ngày 22 tháng Sáu, ở Roskilde, một quyển Pierres Grayées du Languedoc sẽ được mang ra bán đấu giá. Chồng bà đã từng tìm kiếm cuốn sách đó. Đây là một cơ hội để bà làm được việc mà chồng bà đã thất bại. Le bon Dieu soit loué.
Malone dịch thầm trong đầu dòng cuối cùng, cầu Chúa lòng lành. Anh nhìn Stephanie bên kia bàn. “Chị nghĩ bức thư này từ đâu đến?”
“Từ một trong các đồng sự của Lars. Tôi chỉ nghĩ rằng một trong những người từng làm việc với ông ấy muốn tôi giữ quyển nhật ký và nghĩ rằng tôi quan tâm đến quyển sách”.
“Sau mười một năm?”
“Tôi đồng ý, điều đó có vẻ rất kỳ cục. Nhưng ba tuần trước tôi không nghĩ đến nó nhiều lắm. Như tôi đã nói rồi, lúc nào tôi cũng nghĩ rằng những tìm kiếm của Lars là vô hại”.
“Vậy tại sao bà lại đến?”, Thorvaldsen hỏi.
“Như ông nói đây, Henrik, tôi thấy hối hận”.
“Và tôi không muốn làm trầm trọng hóa thêm những hối hận đó. Tôi không biết bà, nhưng tôi biết rất rõ Lars. Ông ấy là một người tốt và những tìm kiếm của ông ấy, đúng như bà đã nói, hoàn toàn vô hại. Nhưng tuy vậy chúng rất quan trọng. Cái chết của ông ấy đã làm tôi rất buồn. Tôi vẫn luôn tự hỏi không biết đó có phải là một vụ tự tử không”.
“Tôi cũng vậy”, bà nói trong hơi thở. “Tôi đã cố đổ tội sang mọi nơi để có thể hợp lý hóa được điều đó, nhưng trong thâm tâm tôi không bao giờ chấp nhận việc Lars tự giết mình”.
“Điều đó giải thích tại sao, nhiều hơn mọi thứ khác, bà có mặt ở đây”, Henrik nói.
Malone có thể nói rằng bà cảm thấy không thoải mái, vì thế anh tìm cách giúp bà tránh thể hiện các cảm xúc của mình. “Cho tôi xem quyển nhật ký được không?”
Bà đưa cho anh quyển sổ và anh lật giở, tất cả có khoảng một trăm trang, rất nhiều con số, hình vẽ, biểu-tượng, và những trang kín đặc chữ. Rồi anh xem xét gáy cuốn sổ với con mắt đầy kinh nghiệm của một người sành sỏi về sách vở và điều gì đó làm anh chú ý. “Có nhiều trang bị thiếu”.
“Anh muốn nói gì?”
Anh chỉ cho bà đoạn đầu gáy sách. “Nhìn này. Những khoảng cách nhỏ ấy”. Anh tẻ đoạn gáy ra. Chỉ có một mảnh giấy lúc ban đầu còn lại ở nơi trước đây đã từng dính vào gáy nhiều trang khác. “Đã bị tách ra bằng một lưởi dao cạo. Lúc nào tôi cũng trông chừng điều này. Không có gì phá hoại giá trị một quyển sách bằng việc làm thiếu trang của nó”. Anh nhìn lại hai đầu quyển sổ và chắc chắn là tám trang đã bị mất.
“Tôi chưa bao giờ chú ý đến điều đó”, bà nói.
“Chị thường bỏ qua nhiều thứ”.
Một vẻ tức tối hiện ra trên mặt bà. “Tôi sẵn sàng công nhận là mình đã làm rối tung mọi việc lên”.
“Cotton”, Thorvaldsen nói, “toàn bộ sự hăng hái này có thể có nhiều ý nghĩa hơn. Tài liệu lưu trữ của Dòng có thể là một phần của mọi tìm kiếm. Lưu trữ gốc của Dòng được giữ ở Jerusalem, rồi chuyển về Acre, và cuối cùng là đảo Cyprus. Lịch sử cho biết là sau năm 1312, số tài liệu lưu trữ này được chuyển sang cho Dòng Hiệp sĩ Bệnh viện, nhưng không có bằng chứng nào xác nhận điều đó. Từ năm 1307 đến năm 1314, Philip IV đã cố công tìm kiếm số lưu trữ đó, nhưng không tìm được. Nhiều người nói rằng kho đó là một trong những bộ sưu tập lớn nhất của thời Trung cổ. Thử tưởng tượng xem việc định vị được chỗ cất giấu những văn bản đó có thể có ý nghĩa gì”.
“Có thể là cuộc tìm kiếm sách lớn nhất trong lịch sử”.
“Những bản thảo viết tay mà chưa một ai từng nhìn thấy kể từ thế kỷ mười bốn, chắc chắn là rất nhiều trong số đó chúng ta không hề biết đến. Triển vọng tìm ra được những cái đó, dù đã là những chuyện xa xôi lắm rồi, cũng xứng đáng để bỏ thời gian và công sức”.
Malone đồng ý.
Thorvaldsen quay sang Stephanie. “Tạm thời ngừng bắn được không? Những gì liên quan đến Lars ấy. Tôi chắc là cơ quan của bà phải làm việc với nhiều ‘người đáng quan tâm’ để cả hai bên cùng đạt được những mục đích có lợi của mình. Tại sao chúng ta không thử làm điều đó luôn ở đây?”
“Tôi muốn xem thư từ giữa ông và Lars”.
Ông gật đầu. “Bà có thể lấy chúng”.
Cái nhìn của Stephanie bắt gặp cái nhìn của anh. “Anh nói đúng, Cotton. Tôi cần được giúp đỡ. Tôi xin lỗi vì cái giọng lúc trước. Tôi đã nghĩ là có thể tự làm được mọi việc. Nhưng vì từ giờ trở đi chúng ta đã trở thành bạn bè chiến hữu, chúng ta sẽ cùng sang Pháp để xem trong nhà của Lars có gì. Đã lâu rồi tôi không đến đó. Cũng có một số người ở Rennes-le-Château mà chúng ta có thể nói chuyện. Những người từng làm việc cho Lars. Rồi chúng ta sẽ đi khỏi đó”.
“Những bóng ma của chị có thể cũng sẽ đến đó”, anh nói.
Bà mỉm cười. “Thật may là vì tôi có anh”.
“Tôi cũng muốn đến đó”, Thorvaldsen nói.
Malone ngạc nhiên. Henrik hiếm khi rời khỏi Đan Mạch. “Thế mục đích của ông là gì khi đi cùng chúng tôi?”
“Tôi biết một chút về những gì Lars tìm kiếm. Cái đó rất có thể sẽ có ích”.
Anh nhún vai, “Tôi nghĩ là không vấn đề gì.
“OK, Henrik”, Sinplumln nói, “Chuyến đi sẽ cho chúng ta thời gian để hiểu về nhau. Có vẻ như là, đúng như ông nói, tôi cần phải học một số điều”,
“Cũng như tất cả chúng tôi thôi, Stephanie. Cũng như tất cả chúng tôi thôi
De Roquofort cố gắng lắm mới kìm giữ được mình. Những nghi ngờ của gã giờ đây đã được khẳng dịnh, Stephanie Nelle đang đi theo con đường mà chồng bà la đã vạch ra. Bà ta cũng là người giữ quyển nhật ký của chồng, cùng với cuốn sách Pievres Grayées du Languedoc, có thể là độc bản hiện nay. Điều đó có được là nhờ Lars Nollo. Ông ta đã rất giỏi. Quá giỏi. Và giờ đây bà vợ góa của ông ta đã nắm được tất cả các đầu mối đó. Gã đã phạm sai lầm khi tin lời Peter Hansen. Nhưng cùng lúc, chuyến do thám này lại có vẻ là một việc rất đúng đắn. Gã sẽ không phạm lại sai lầm đó nữa. Quá nhiều điều không nên tin ở vẻ ngoài của một người lạ.
Gã tiếp tục nghe đến lúc họ quyết định sẽ làm gì khi đến Rennes-le-Château. Malone và Stephanie sẽ đến đó vào ngày hôm sau. Thorvaldsen sẽ đến sau vài ngày nữa. Khi đã nghe xong mọi chuyện, de Roquefort tháo cái microphone ra khỏi cửa sổ và rút lui cùng với hai gã đồng sự ra chỗ đám cây rậm.
Đêm nay sẽ không có bắn giết nữa.
Quyển nhật ký thiếu mất nhiều trang.
Có thể là gã sẽ cần đến những thông tin bị thiếu mất từ quyển nhật ký của Lars Nelle đó. Người gửi quyển nhật ký đã rất khôn ngoan. Chia nhỏ chiến lợi phẩm, chặn trước được các hành động vội vàng. Rõ ràng là có nhiều điều rắc rối hơn là gã biết — và gã đang tham gia trò cút bắt.
Nhưng có vấn đề gì đâu. Một khi tất cả những người chơi đều đã ở Pháp, gã sẽ có thể dễ đàng thỏa thuận được với họ.