RENNES-LE-CHATEAU 9:30 TỐI
STEPHANIE ĐI DẠO QUANH NGÔI NHÀ CỦA NGƯỜI chồng quá cố. Vẻ ngoài của nó rất đặc trưng trong vùng. Những sàn nhà lát gỗ cứng, trần là những thanh xà, lò sưởi đá, đồ gỗ thông mộc mạc. Không rộng lắm, nhưng cũng đủ cho hai phòng ngủ, một phòng làm việc nhỏ, một phòng tắm, bếp, và một phòng rộng. Lars rất thích tiện gỗ và một lúc trước bà đã nhận ra những cái máy tiện, mấy cái mặt nghiêng, đục đều còn nguyên ở đó, tất cả được treo lên và đã phủ một lớp bụi mờ. Ông rất khéo léo với máy tiện. Bà vẫn còn giữ được những cái bắt, hộp, và giá đỡ nến do chính ông làm từ những loại gỗ trong vùng.
Trong suốt cuộc hôn nhân giữa hai người, bà chỉ đến đây vài lần. Bà và Mark sống ở Washington, rồi Atlanta. Lars chủ yếu sống ở Châu Âu, và mười năm cuối cùng là ở đây, Rennes. Cả hai người đều chưa bao giờ xâm phạm lãnh thổ của nhau mà chưa được phép. Mặc dù gần như không bao giờ nhất trí với nhau về điều gì, họ vẫn hết sức lịch thiệp với nhau. Có thể thậm chí là còn hơi quá, đã nhiều lần bà nghĩ vậy.
Bà vẫn luôn tin rằng Lars đã mua cái nhà với tiền nhuận bút kiếm được từ cuốn sách đầu tiên, nhưng giờ đây bà biết rằng Henrik Thorvaldsen đã giúp ông mua nó. Điều này rất giống với Lars. Ông không mấy quan tâm đến tiền bạc, tiêu sạch tiền kiếm được trong các chuyến đi và cho những gì ám ảnh ông, nhiệm vụ thanh toán các loại hóa đơn thuộc về bà. Mãi mới gần đây bà mới trả xong khoản nợ món tiền ngày xưa từng vay để trả tiền học trung học và đại học cho Mark. Con trai bà nhiều lần đề nghị được trả món nợ đó, đặc biệt vào một lần khi họ gặp khó khăn, nhưng lúc nào bà cũng từ chối. Một trong những công việc của bố mẹ là nuôi con cái, và bà coi công việc đó của mình là hết sức nghiêm túc. Có thể là quá mức, giờ thì bà nghĩ vậy.
Bà và Lars không hề nói chuyện với nhau trong những tháng trước khi ông chết. Cuộc gặp cuối cùng của họ là một cuộc gặp tồi tệ, lại thêm một trận cãi cọ về vấn đề tiền bạc, trách nhiệm, gia đình. Ngày hôm qua, mong muốn bảo vệ ông với Henrik Thorvaldsen nghe có vẻ trống rỗng, nhưng bà chưa bao giờ nhận ra rằng có ai đó biết được sự thật về những khó khăn của cuộc hôn nhân của bà. Dẫu vậy, có vẻ như là Thorvaldsen có biết. Có thể là ông và Lars đã từng hết sức thân thiết. Thật không may là bà không hề biết gì về chuyện đó. Đó chính là môi nguy của sự tự tử — chấm dứt đau khổ của một người chỉ kéo dài cơn hấp hối của những người mà anh ta để lại sau lưng. Bà vô cùng mong muốn thoát được khỏi cái cảm giác tồi tệ ăn sâu bắt rễ trong dạ dày mình. Nỗi đau đớn về thất bại, đã từng có nhà văn nói như vậy. Và bà đồng ý.
Bà kết thúc cuộc đi dạo và vào căn phòng làm việc nhỏ, ngồi đối diện với Malone, từ bữa tối vẫn tiếp tục đọc quyển nhật ký của Lars.
“Chồng chị là một nhà nghiên cứu đầy tỉ mỉ”, anh nói.
“Rất nhiều trong đó khó hiểu lắm – giống hệt ông ấy”,
Có vẻ như là anh đã nhận ra sự giận dữ của bà. “Chị có muốn nói với tôi tại sao chị cảm thấy có trách nhiệm về vụ tự tử của ông ấy không?”
Bà quyết định để anh biết. Bà cần nói về chuyện đó. “Tôi không cảm thấy có trách nhiệm, tôi chỉ cảm thấy có can dự thôi. Cả hai chúng tôi đều quá kiêu hãnh. Và cả bướng bỉnh nữa. Tôi
thì với Bộ Tư pháp, Mark đã lớn, và tôi được giao phụ trách một đơn vị, vì vậy tôi tập trung vào những gì tôi nghĩ là quan trọng. Lars cũng vậy. Thật không may là không ai trong chúng tôi coi trọng việc của người kia cả”.
“Giờ đây, khi nhiều năm đã trôi qua, những cái đó dễ thấy. Nhưng hồi đó thì làm sao thấy được”.
“Thì đó chính là vấn đề mà, Cotton. Tôi ở đây. Ông ấy thì không”. Bà thấy thật không thoải mái khi phải nói về mình, nhưng có nhiều điều cần được nói ra. “Lars là một nhà văn đầy tài năng và là một nhà nghiên cứu giỏi. Tất cả mọi thứ tôi đã nói với anh lúc trước, về Saunière và thành phố này? Chúng thú vị đến đâu? Nếu khi ông ấy còn sống, tôi quan tâm một chút, thì hẳn là giờ đây ông ấy vẫn còn ở đây”. Bà do dự. “Ông ấy là một người hết sức bình tĩnh. Không bao giờ lên giọng. Im lặng là vũ khí của ông ấy. Ông ấy có thể không nói một lời nào trong suốt nhiều tuần. Cái đó làm tôi điên tiết lắm”.
“Giờ thì tôi hiểu rồi”. Và anh mỉm cười.
“Tôi biết. Cái tính nóng nảy của tôi. Lars không bao giờ có thể chịu được điều đó. Cuối cùng ông ấy và tôi quyết định tốt hơn hết là ông ấy sống cuộc đời của ông ấy, và tôi sống cuộc đời của tôi. Không ai trong chúng tôi muốn ly dị”.
“Điều đó nói lên rất nhiều điều mà ông ấy nghĩ về chị. Rất sâu sắc”.
“Tôi chưa bao giờ thấy điều đó. Tất cả những gì tôi thấy là có Mark ở giữa. Nó bị kéo về phía Lars. Có thời gian tôi gặp khó khăn về chuyện tình cảm lắm. Lars không giống như vậy. Và Mark sở hữu sự tò mò của bố nó. Hai người giống nhau lắm. Con trai tôi đã chọn bố nó chứ không phải tôi, nhưng tôi đã cố tình làm cho nó chọn như vậy. Thorvaldsen nói đúng đấy. Với một người quá quan tâm đến công việc như thế, tôi đã không làm được gì để tự giải quyết các vấn đề của cuộc đời mình. Trước khi Mark bị giết, tôi không nói chuyện với nó trong suốt ba năm”. Sự đau đớn làm chao đảo tâm hồn bà. “Anh có tưởng tượng được không, Cotton? Giữa con trai tôi và tôi có đến ba năm không nói năng gì với nhau”.
“Nguyên nhân sự rạn nứt là gì?”
“Nó đứng về phía bố nó, nên tôi một mình đi con đường của mình, còn hai người kia có một con đường chung. Mark sống ở Pháp. Tôi ở lại Mỹ. Sau một thời gian thì quên nó đi cũng là một chuyện dễ đàng. Đừng bao giờ xảy ra chuyện tương tự giữa anh và Gary. Làm tất cả những gì anh phải làm đi, nhưng đừng bao giờ để chuyện đó xảy ra”.
“Thì tôi cũng đi xa đến bốn nghìn dặm đấy thôi”.
“Nhưng con trai anh yêu quý anh. Hàng nghìn dặm đó không
có nhiều ý nghĩa”.
“Lúc nào tôi cũng tự hỏi không biết mình làm có đúng không”,
“Anh phải sống cuộc đời của riêng anh, Cotton. Con đường của anh. Có vẻ như là con trai anh tôn trọng điều đó, cho dù nó còn nhỏ. Con trai tôi thì nhiều tuổi hơn và cứng rắn với tôi hơn nhiều”.
Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Mặt trời sẽ lặn trong hai mươi phút nữa. Sắp đến lúc rồi đấy”.
“Anh phát hiện chúng ta bị theo dõi lần đầu tiên khi nào?”
“Ngay sau khi chúng ta tới đây. Hai gã đàn ông. Đều giống hệt những tay ở nhà thờ lớn. Chúng đã theo chúng ta từ nghĩa trang, rồi đi quanh thanh phố. Giờ thì chúng đang ở ngay bên ngoài thôi”.
“Không có nguy cơ chúng sẽ vào đây chứ?”
Anh lắc đầu. “Chúng chỉ ở đây để quan sát thôi”.
“Giờ thì tôi hiểu tại sao anh rời khỏi Billet. Sự lo lắng. Quá nặng nề. Anh không bao giờ có thể ngừng cảnh giác. Anh đã đúng khi ở Copenhagen. Tôi không phải là nhân viên hoạt động bên ngoài”.
“Sự rắc rối xảy đến với tôi khi tôi bắt đầu thích sự vội vàng. Chính đó là cái sẽ làm cho người ta nhanh chóng mất mạng”.
“Tất cả chúng ta đều sống một cuộc đời tương đối yên bình. Nhưng còn bị theo dõi sát từng bước chân, lúc nào cũng chăm chăm giết chúng ta, thì sao? Giờ đây tôi đã thấy được chuyện đó có thể gây ảnh hưởng như thế nào. Quả thực là anh cần phải trốn chạy khỏi đó.”
“Huấn luyện giúp được nhiều việc. Học được cách đối mặt với sự không chắc chắn. Nhưng chị đã bao giờ được huấn luyện đâu”. Anh mỉm cười. “Chị chỉ vừa mới bắt đầu thôi”.
“Tôi hy vọng anh biết là tôi không hề muốn lối kéo anh vào”.
“Về điểm đó chị đã khá rõ ràng”.
“Nhưng tôi rất mừng vì có anh ở đây”.
“Không thể không như vậy được”.
Bà mỉm cười. “Anh từng là nhân viên giỏi nhất mà tôi có”.
“Tôi chỉ là người may mắn nhất thôi. Và tôi có đủ kinh nghiệm để có thể nói là khi nào”.
“Peter Hansen và Ersnt Scoville đều đã bị giết”. Bà dừng lại và cuối cùng nói ra điều mà có vẻ bà đã bắt đầu tin vào. “Có thể là cả Lars nữa. Gã đàn ông ở nhà thờ lớn muốn tôi biết điều đó. Cách gã truyền đạt một thông điệp”.
“Xét về mặt lôgic thì không ổn lắm”.
“Tôi biết. Không có bằng chứng. Nhưng tôi có cảm giác, và mặc dù không phải là nhân viên làm việc trên thực địa, tôi cũng tin vào các cảm giác của mình. Như tôi vẫn thường nói với anh đấy, không bao giờ có kết luận đúng nếu chỉ thuần túy dựa trên các giả thuyết. Phải có các sự kiện. Toàn bộ chuyện này thật là kỳ quái”.
“Nói với tôi về nó đi. Các Hiệp sĩ Đền thờ. Những bí mật trên bia mộ. Các thầy tu tìm kiếm kho báu biến mất”.
Bà liếc nhìn bức ảnh của Mark đặt trên cái bàn nhỏ, chụp vài tháng trước khi anh chết. Hình ảnh của Lars có ở khắp nơi trên khuôn mặt đầy hứng khởi của chàng thanh niên. Cùng cái cằm chẻ, đôi mắt sáng, và làn da ngăm đen. Tại sao bà lại để mọi chuyện tồi tệ đến thế?
“Thật lạ lùng vì nó ở đây”, Malone nói, khi nhìn thấy vẻ chăm chú của bà.
“Tôi để nó ở đây vào lần cuối đến đây. Năm năm rồi. Ngay sau lần lở tuyết”. Thật khó tin là đứa con trai duy nhất của bà đã chết cách đây năm năm. Những đứa con không bao giờ nên chết đi với ý nghĩ bố mẹ chúng không yêu chúng. Không giống như người chồng treo cổ của bà, vẫn có được một ngôi mộ, Mark bị chôn vùi dưới hàng tấn tuyết của dãy Pyrénées cách đây ba mươi dặm về phía Nam. “Mẹ phải chấm dứt chuyện này”, bà lẩm bẩm về phía bức ảnh, giọng nói ngập ngừng.
‘Tôi vẫn chưa chắc là chuyện đó như vậy”.
Bà cũng không.
Malone vung vẩy tờ báo. “ít nhất chúng ta biết cần phải tìm Claridon ở Ayignon ở đâu, theo như lá thư gửi Ersnt Scoville đã chỉ dẫn. Ông ta là Royce Claridon. Có tên và địa chỉ trên báo đây. Lars và ông ấy từng là bạn”.
“Tôi đang tự hỏi anh đã tìm ra điều đó khi nào”.
“Tôi có quên điều gì không?”
“Khó nói được cái gì là quan trọng lắm. Quá nhiều thứ”.
“Chị phải ngừng nói dối tôi đi”.
Bà đã chờ đợi điều này. “Tôi biết”.
“Tôi sẽ không thể giúp nếu chị không nói gì”.
Bà đã hiểu. “Những trang nhật ký thiếu gửi đến chỗ Scoville thì sao? Có gì không?”
“Chị sẽ nói cho tôi”. Và anh chìa tám trang giấy ra.
Bà nghĩ rằng tập trung một lúc vào chuyện khác sẽ giúp bà tạm thời quên đi được Lars và Mark, nên bà đọc chăm chú những trang viết tay. Phần lớn trong số đó không có gì quan trọng, nhưng cũng có những đoạn đập thẳng vào tim bà.
… Rõ ràng là Saunière rất chăm sóc người tình của mình. Bà đến với ông khi gia đình bà chuyển đến Rennes. Bố bà và anh bà là các nghệ nhân khéo léo và mẹ bà trông coi nhà ở của linh mục giáo khu. Đó là năm 1892, một năm sau các phát hiện của Saunière. Khi gia đình bà chuyển đi khỏi Rennes để đến làm trong một nhà máy gần đó, bà đã ở lại với Saunière và cùng ông cho đến khi ông chết, hai thập niên sau đó. Vào một thời điểm nào đó, bà đã đứng tên tất cả những gì ông mua, điều đó cho thấy lòng tin chắc chắn mà ông đặt vào bà. Bà tuyệt đối trung thành với ông giữ các bí mật cho ông trong suốt ba mươi sáu năm sau khi ông chết. Tôi ghen tị với Saunière. Ông là một người đàn ông được biết đến tình yêu vô điều kiện của một người phụ nữ và biến tình yêu đó thành lòng tin và sự kính trọng vô điều kiện. Ông là một người khó chiều, một người đã tìm được cách hoàn thành điều gì đó để sau này còn được nhớ đến. Bức tượng sặc sỡ trong nhà thờ Maiy Magdalene có vẻ là di sản của ông. Không có gì được ghi lại cho thấy người yêu ông đã có một lần phản đối ông bất kỳ điều gì về những gì ông đang làm. Mọi thứ đều cho thấy bà là một người phụ nữ trung thành, coi tất cả những gì ông làm là thiêng liêng. Chắc chắn là có những bất đồng, nhưng về cuối, bà đã đứng về phía Saunière cho đến ngày ông chết và cả sau đó, trong gần bốn thập niên. Có rất nhiều điều để nói về sự tận tụy. Một người đàn ông có thể hoàn thành được rất nhiều điều khi người đàn bà mà ông ta yêu ủng hộ ông ta, ngay cả khi bà tin rằng những gì ông ta làm là chuyện điên rồ. Chắc chắn người tình của Sciunière đã từng phải hơn một lần lắc đầu trước sự phi lý của những gì ông tạo ra. Cả Villa Béthanie và Tour Magdala đều hết sức lố bịch vào thời đó. Nhưng bà không bao giờ rẩy một giọt nước nào vào đám lửa của ông. Bà chiều chuộng ông đến mức để cho ông là người mà ông cần phải trở thành, và ngày nay kết quả còn được hàng nghìn người đến Rennes mỗi năm nhìn thấy. Đó chính là di sản của Saunière. Di sản của bà nằm ở chỗ di sản của ông vẫn tồn tại.
“Tại sao anh lại đưa tôi đọc cái này?”, bà nói với Malone khi đọc xong.
“Chị cần đọc”.
Tất cả những bóng ma đó đến từ đâu? Rennes-le-Château có thể không có kho báu nào, nhưng nơi này đã vương vất đủ loại ma quỷ đang tìm cách hành hạ bà.
“Khi tôi nhận được quyển nhật ký này qua bưu điện và đọc nó, tôi nhận ra rằng mình đã không công bằng với cả Lars và Mark. Họ tin vào những gì họ nhìn thấy, đúng như tôi đã tin vào công việc của mình. Mark có thể nói toàn những điều không hay về tôi”. Bà dừng lại, hy vọng các linh hồn đang lắng nghe. “Tôi biết, khi đọc lại quyển nhật ký, rằng mình đã sai. Tất cả những gì Lars tìm kiếm là quan trọng với ông ấy, nên lẽ ra chúng cũng phải quan trọng với tôi. Đó chính là lý do khiến tôi đến đây, Cotton. Tôi nợ họ điều đó”. Bà nhìn anh với đôi mắt mệt mỏi. “Có Chúa biết là tôi nợ họ điều đó. Chỉ là tôi chưa bao giờ nhận ra rằng mức độ lại lớn đến thế nào thôi”.
Anh lại liếc nhìn đồng hồ đeo tay, rồi nhìn chằm chằm vào những cửa sổ tối đen. “Đã đến lúc tìm hiểu kỹ càng mọi chuyện, ở đây chị thấy ổn chứ?”
Bà tập trung sức lực và gật đầu.