RENNES-LE-CHÂTEAU 10:40 SÁNG
MALONE ĐI THEO MARK TIẾN LẠI GẦN NHÀ THỜ MARY Magdalene. Trong mùa hè ở đây không làm lễ. Chủ nhật có vẻ là một ngày rất đông khách du lịch, cả một đoàn người đã đứng xếp hàng bên ngoài, chụp ảnh và quay phim.
“Chúng ta cần mua vé”, Mark nói. “Không thể vào nhà thờ này mà không trả tiền phí đâu”.
Malone bước vào Villa Béthanie và đợi trong một hàng người ngắn. Trở lại bên ngoài, anh thấy Mark đang đứng trước một khu vườn có hàng rào nơi có cây cột của người Visigoth và tượng Đức Mẹ Đồng Trinh mà Claridon đã nói đến. Anh đọc được dòng chữ PENITENCE, PENITENCE và MISSION 1891 khắc trên một mặt cột.
“Notre Dame de Lourdes”, Mark nói, đưa tay chỉ bức tượng. “Saunière mê mệt với Lourdes, nơi có lần hiện hình đầu tiên của Đức Mẹ Đồng Trinh vào thời của ông ấy. Trước Fatima ở Bồ Đào Nha. Ông ấy muốn Rennes trở thành một trung tâm hành hương, cho nên ông ấy đã cho làm khu vườn này và vẽ kiểu cho bức tượng và cái cột”.
Malone chỉ vào đám người. “Ông ấy đã hoàn thành được ước nguyện rồi”.
“Đúng. Nhưng không phải vì lý do mà ông ấy từng nghĩ. Tôi chắc rằng không ai trong số những người có ở đây hôm nay biết rằng cây cột này chỉ là một bản sao. Một bản sao được đặt vào đây đã nhiều năm. Bản gốc khó đọc lắm. Thời tiết gây nhiều hư hại mà. Nó nằm trong bảo tàng bên trong cơ. Cũng như vậy đối với nhiều cái ở đây. Rất ít thứ còn lại từ thời Saunière”.
Họ tiến lại gần cửa chính của nhà thờ. Bên dưới mặt đường trải nhựa, Malone đọc được dòng chữ TERRIBILIS EST LOCUISTE. Trích từ Sáng thế Ký. Nơi này đáng sợ thay (Đây là đoạn trong Cựu Ước (Sáng thế ký: 28), kể lại giấc mơ của Jacob trong đó Thiên Chúa hiện ra hứa sẽ làm cho dòng giống Jacob sinh sôi nảy nở dồi dào).
Anh biết câu chuyện về Jacob, người mơ thấy một cái cầu thang để cho các thiên thần leo lên và, sau khi tỉnh dậy, bật ra những từ đó – Nơi này đáng sợ thay – rồi đặt cái tên đó cho cái mà ông mơ thấy về Bethel, có nghĩa là “nhà của Chúa.” Một ý nghĩ khác vụt đến trong óc anh. “Nhưng trong sách Cựu Ước, Bethel đã trở thành một đối thủ của Jerusalem với tư cách một trung tâm tôn giáo”.
“Chính xác. Một dấu vết tinh tế khác mà Saunière đã để lại. Ở bên trong còn có nhiều thứ khác nữa cơ”.
Họ đều ngủ muộn, mới tỉnh dậy cách đó nửa giờ. Stephanie nằm trong phòng ngủ của chồng và vẫn còn ở trong đó, cửa đóng kín khi Malone đề nghị Mark đi cùng mình đến nhà thờ. Anh muốn nói chuyện với chàng thanh niên mà không có mặt Stephanie ở gần đó, và muốn bà có thêm thời gian để bình tĩnh lại. Anh biết là bà đang chờ đợi một cuộc chiến, và sớm hay muộn con trai bà cũng sẽ đối đầu với bà. Nhưng anh nghĩ rằng đẩy lùi điều không thể tránh khỏi đó có thể là một ý hay. Geoffrey đề nghị xin đi cùng, nhưng Mark bảo anh ở lại nhà. Malone cảm thấy Mark Nelle cũng muốn nói chuyện riêng với anh.
Họ bước vào gian chính của nhà thờ.
Nhà thờ chỉ có một lối đi với cái trần rất cao ở phía trên. Hình một con quỷ khắc rất xấu xí, cúi người xuống thấp, mặc một cái
áo dài màu xanh lá cây, và nhăn mặt dưới sức nặng của một chậu nước thánh, chào đón họ.
“Thật ra đó là thần Asmodeus chứ không phải là quỷ”, Mark nói.
“Một thông điệp khác à ?”
“Có vẻ như là anh có biết nó.”.
“Một vị thần chuyên giữ các bí mật, nếu tôi nhớ không nhầm”.
“Anh không nhầm đâu. Nhìn hết bức tranh đi”.
Phía dưới chậu nước thánh có bốn thiên thần, mỗi thiên thần đang làm một động tác dấu thánh khác nhau. Phía dưới có viết chữ, PAR CE SIGNE TU LE VAINCRAS. Malone dịch dòng chữ sang tiếng Anh. Bằng dấu hiệu này ngươi sẽ chiến thắng nó.
Anh biết ý nghĩa của những từ đó. “Đó là lời Hoàng đế Constantine (Đây là vị Hoàng đế La Mã đầu tiên chính thức công nhận Thiên Chúa giáo, vào thế kỷ thứ tư) đã nói khi lần đầu tiên chiến đấu chống lại đối thủ của mình, Maxentius. Theo câu chuyện, ông ta đã nhìn thấy một cây thánh giá trong ánh mặt trời trên đó có khắc dòng chữ ấy”.
“Nhưng có một điểm khác biệt”. Mark chỉ những chữ khắc đó. “Trong câu nguyên văn không có từ nó. Mà chỉ có ‘Bằng dấu hiệu này ngươi sẽ chiến thắng”.
“Điều đó có quan trọng gì không ?”
“Bố tôi đã phát hiện một truyền thuyết cổ của người Do Thái kể về việc ông vua làm thế nào để ngăn chặn sự quấy rối của các vị ác thần trong quá trình xây dựng đền Solomon. Một trong số các thần đó, Asmodeus, bị buộc phải khiêng nước – việc mà nó khinh bỉ. Chính vì vậy mà tính chất biểu tượng của dòng chữ này không nằm ngoài đó. Nhưng từ nó trong câu trích dẫn rõ ràng là do Saunière cho thêm vào. Một số người nói nó chỉ đơn giản là một dẫn chiếu đến việc khi nhúng ngón tay vào nước thánh và làm dấu, những gì mà người Thiên Chúa giáo vẫn làm, thì con quỷ – nghĩa là nó — sẽ bị chinh phục. Nhưng những người khác đã lưu ý đến vị trí của từ này trong câu tiếng Pháp. Par ce signe tu le vain-cras. Từ le, ‘nó’, chỉ hai số mười ba và mười bốn. 1314”.
Anh nhớ đến những gì đã đọc trong cuốn sách về các Hiệp sĩ Đền thờ. “Đúng năm Jacques de Molay bị hành hình”.
“Có phải là một sự trùng hợp không ?”, Mark hỏi.
Khoảng hai mươi người đang xếp hàng chụp ảnh và ngắm nghía những hình ảnh lòe loẹt, tất cả đều bao hàm những ám chỉ liên quan đến hầm mộ. Những cửa sổ gắn kính chạy dọc theo các bức tường, trở nên sống động trong ánh sáng mặt trời chói chang, và anh nhìn thấy những cảnh đó. Mary và Martha ở Bethany. Mary Magdalene gặp Christ phục sinh. Larazus sống lại.
“Giống như là một nhà cười mang tính thần học nhỉ”, anh thì thầm.
“Đó cũng là một cách nói không dở”.
Mark đi về phía khoảng sàn nhà kẻ ô vuông phía trước ban thờ. “Lối vào hầm mộ ở đây, ngay phía trước tấm lưới sắt, được giấu ở dưới hàng gạch lát nền. Vài năm trước một số nhà địa lý người Pháp đã giấu radar dò tìm ngầm dưới đất vào đây và đã tìm ra một số thứ trước khi giới chức trảch địa phương ngăn lại được. Các kết quả cho thấy phía dưới nền nhà này có gì đó không bình thường, ngay dưới ban thờ ấy, rất có thể là một hầm mộ”.
“Người ta không đào lên à ?”
“Người dân địa phương sẽ không bao giờ cho phép chuyện đó đâu. Sẽ có quá nhiều nguy cơ đối với ngành du lịch”.
Anh mỉm cười. “Đó cũng chính là điều Claridon đã nói hôm qua”.
Họ ngồi xuống một hàng ghế.
“Có một điều chắc chắn”, Mark nói nhanh, “ở đây không có lối vào kho báu nào hết. Nhưng Saunière đã dùng nhà thờ này để ghi lại những gì mà ông ấy tin vào. Và từ tất cả những gì mà tôi từng đọc về ông ấy, hành động này vô cùng tương thích với tính cách của ông ấy”.
Malone nhận ra xung quanh mình, không có gì dịu dàng mềm mại hết. Màu sắc chói và mạ quá nhiều vàng khiến cho tất cả trở nên xấu xí. Rồi thêm một điểm nữa trở nên rõ ràng. Không có gì là nhất quán. Tất cả các biểu hiện về mặt nghệ thuật, từ những bức tượng cho đến các phù điêu, rồi cửa sổ, tất tật đều mang tính cá nhân – không hề có chủ đề, như thể theo một cách nào đó sự tương tự đã bị loại trừ.
Một bộ sưu tập không đồng nhất các vị thánh bí hiểm đang nhìn chằm chằm xuống anh với những biểu hiện kỳ cục, như thể là họ cũng bối rối vì màu sắc lòe loẹt của mình. Thánh Roch giơ ra một cái đùi bị thương. Thánh Germaine để thò ra một túm hoa hồng từ tạp dề của mình. Thánh Magdalene cầm một cái bình hình thù kỳ quái. Anh đã vào rất nhiều nhà thờ ở Châu Âu và lúc nào cũng cảm thấy một ý thức sâu thẳm về thời gian và lịch sử. Nhà thờ này thì lại là một lời khước từ tất cả những cái đó.
“Saunière theo dõi sát sao từng chi tiết trang trí một”, Mark vẫn nói tiếp. “Không gì được có mặt ở đây mà không được sự đồng ý của ông ấy”. Mark chỉ một bức tượng. Thánh Anthony xứ Padua. Chúng ta cầu nguyện ông ta khi tìm kiếm cái gì đó đã đánh mất”.
Anh hiểu ra được sự mỉa mai trong câu nói. “Thêm một thông điệp nữa ?”
“Rõ ràng. Cứ nhìn kỹ những bức tranh miêu tả cuộc chịu nạn mà xem”.
Tổng cộng có bảy cái, bắt đầu từ bục giảng kinh, dọc theo bức tường phía Bắc, rồi bảy cái nữa ở phía Nam. Mỗi cái đều là một hình phù điêu màu sắc sặc sỡ miêu tả một thời điểm trong cuộc chịu nạn của Christ. Lớp đồng mạ sáng bóng của chúng và các chi tiết rất hoạt trông thật không hợp với một nơi trang nghiêm như thế này.
“Thấy lạ không ?”, Mark hỏi. “Khi được đặt vào đây năm 1887, chúng khá phổ biến trong vùng. Ở Racamadow có một bộ gần như giống hệt. Giscard House ở Toulouse làm cả những cái đó và những cái này. Rất nhiều điều đã được nói về chúng. Những người có đầu óc nhiều nghi ngờ cho rằng chúng có nguồn gốc Tam điểm hoặc thực chất là một kiểu bản đồ kho báu. Không có ai trong số họ nói đúng cả. Nhưng trong chúng có các thông điệp”.
Malone nhận ra một số khía cạnh kỳ lạ. Đứa bé nô lệ da đen đang cầm cái bình đựng rác cho Pilate. Tấm mạng mà Pilate đeo. Một cái kèn trumpet đang thổi khi Christ ngã xuống trong cuộc chịu nạn. Ba cái đĩa bằng bạc treo lơ lửng. Thằng bé đứng trước mặt Christ, người quấn một chiếc khăn kẻ ô vuông kiểu Scotland. Một người lính La Mã đang gieo xúc xắc để lấy cái áo của Christ, những con số ba, bốn và năm hiện rõ trên các mặt xúc xắc.
“Nhìn vào bức tranh số mười bốn kia đi”, Mark nói, chỉ về hướng bức tường phía Nam.
Malone đứng dậy và bước đến phía mặt trước nhà thờ. Những cây nến đang cháy trước ban thờ và anh nhanh chóng nhìn thấy bức phù điêu phía dưới. Một người phụ nữ, Mary Magdalene, anh nghĩ vậy, đang khóc, quỳ gối xuống trong một hang đá trước một cây thánh giá được tạo nên từ hai cành cây. Một cái sọ người nằm ở cành ngang và ngay lập tức anh nhận ra đó chính là cái sọ người đêm qua đã nhìn thấy trong bản sao in litô bức tranh ở Ayignon.
Anh quay lại và ngắm nhìn bức tranh cuối cùng vẽ lại quá trình chịu nạn, số 14, miêu tả cơ thể Christ đang được hai người đàn ông vác đi trong khi ba người phụ nữ khóc than. Đằng sau họ là một vách đá phía trên treo một vầng trăng tròn, trên bầu trời đêm.
“Jesus được mang đến mộ”, anh thì thầm với Mark, người đã tiến lại gần phía sau anh.
“Theo luật La Mã, một người bị treo lên cây thập tự không bao giờ được phép mang đi chôn. Kiểu hành hình đó chỉ được đành cho những kẻ phạm những tội lỗi chống lại vương quốc, ý tưởng là bắt kẻ phạm tội phải chết từ từ trên thập giá – cái chết kéo dài trong nhiều ngày và bày ra ở đó, để cho các loài chim ăn xác chết rỉa. Thế nhưng Pilate đưa xác Christ cho Joseph xứ Arimathea để chôn. Anh có bao giờ tự hỏi là tại sao không ?”
“Không thật sự”.
“Những người khác thì có. Cứ nhớ Christ đã bị giết vào đêm lễ Sabbath. Theo luật lệ, người ta không được phép chôn ông ấy sau khi mặt trời lặn”. Mark lấy tay chỉ hình vẽ số 14. “Thế nhưng Saunière lại treo bức tranh này lên, mà rõ ràng là nó lại vẽ khi đó là vào ban đêm”.
Malone vẫn chưa hiểu được ý nghĩa.
“Điều gì sẽ xảy ra nếu thay vì được mang đến mộ, Christ lại được đưa ra ngoài, sau khi trời tối ?”
Anh không nói gì.
“Anh biết rất nhiều về các Phúc Âm Ngộ đạo phải không ?”, Mark hỏi.
Anh có biết. Chúng đã được tìm thấy ở thượng nguồn sống Nile vào năm 1945. Bảy người Bedouin đang đào đất thì va phải một bộ xương người và một cái bình niêm phong. Nghĩ rằng nó có vàng ở trong, họ đã mở bình ra và tìm thấy mười ba bản chép tay bọc da. Không hoàn toàn là một quyển sách. Những văn bản được viết bằng tiếng Copte một cách cẩn thận, lề đã tung, rất có khả năng là được các thầy tu sống gần chúng viện Pachomia thực hiện vào thế kỷ thứ tư. Chúng chứa bốn mươi sáu bản thảo viết tay Công giáo cổ, nội dung được ghi ngày tháng từ thế kỷ thứ hai, bản thân các bản viết được trang trí theo lối của thế kỷ thứ tư. Một số sau đó đã mất, để làm mồi nhóm lửa hoặc bị phân tán đi đâu đó, nhưng vào năm 1947 những gì còn lại đã được một viện bảo tàng địa phương mua lại.
Anh nói với Mark là anh có biết.
“Câu trả lời về việc tại sao các thầy tu lại chôn các bản viết tay đó có trong lịch sử”, Mark nói. “Vào thế kỷ thứ tư, Athanasius, giám mục Alexandria, đã viết một bức thư gửi cho tất cả các nhà thờ ở Ai Cập. Ông ta tuyên bố rằng chỉ hai mươi bảy quyển sách trong số các Tân Ước, hay Tin Mừng, mới được viết ra mới có thể được coi là Kinh Thánh. Tất cả những quyển sách dị giáo khác đều phải bị phá hủy. Không một cái nào trong số bốn mươi sáu bản thảo trong cái bình đó phù hợp. Vì vậy các thầy tu ở chúng viện Pachomia đã chọn cách giấu đi mười ba bản viết thay vì đốt chúng, có thể là với mục đích chờ có thay đổi trong đường lối của Nhà thờ. Tất nhiên là sau đó không có thay đổi nào hết. Thay vào đó, Thiên Chúa giáo La Mã lại phát triển rực rỡ. Nhưng nhờ trời mà các bản viết đó vẫn còn lại. Chúng là các Phúc Âm Ngộ đạo mà ngày nay chúng ta biết. Trong một bản, bản của Peter, có viết. Và khi họ kể lại những gì đã trông thấy, họ lại nhìn thấy ba người đàn ông bước ra từ nấm mồ, và hai trong số đó đang khiêng người còn lại.
Malone nhìn chằm chằm vào bức tranh số 14. Hai người đàn ông đang vác một người.
“Các Phúc Âm Ngộ đạo là các văn bản hết sức đặc biệt”, Mark nói. “Hiện nay nhiều học giả cho rằng Phúc Âm của Thomas, có trong số đó, có thể gần nhất với những lời Chúa đã từng nói. Những người Công giáo giai đoạn đầu rất sợ hãi trước các văn bản Ngộ đạo đó. Từ đó bắt nguồn từ một từ Hy Lạp, gnosis, có nghĩa là ‘hiểu biết.’ Nghĩa gốc chỉ đơn giản là những người biết, nhưng phiên bản Thiên Chúa giáo sau này của Công giáo sẽ dần dần loại bỏ tất cả tư tưởng và giáo lý mang tính ngộ đạo”.
“Và các Hiệp sĩ Đền thờ vẫn lưu giữ chúng ?”
Mark gật đầu. “Các Phúc Âm Ngộ đạo, và nhiều thứ khác mà các nhà thần học chưa bao giờ nhìn thấy, nằm trong thư viện của tu viện. Các Hiệp sĩ là những người có đầu óc phóng khoảng với những gì thuộc về Kinh Thánh. Có rất nhiều thứ có thể học được từ những cái vẫn thường được coi là dị giáo đo.”.
“Làm thế nào mà Saunière biết được về các Phúc Âm đó ? Mãi mấy thập kỷ sau khi ông ấy chết người ta mới tìm ra chúng cơ mà”.
“Có thể là ông ta có được những thông tin còn tốt hơn. Để tôi chỉ cho anh một thứ khác nữa nhé”.
Anh đi theo Mark quay lại lối vào nhà thờ và họ bước ra phía ngoài, qua cánh cổng. Phía trên cửa là một cái hộp bằng đá ở trên sơn mấy chữ.
“Đọc những gì viết ở bên dưới đi”, Mark nói.
Malone cố gắng đọc những chữ đó. Nhiều chữ đã mờ và rất khó giải mã, và tất cả đều bằng tiếng Latinh.
REGNUM MUNID ET OMNEM OMATUM SAECULI CONTEMPSI, PROPTER AMOREM DOMININ MEI JESU CHRISTI QUEM VIDI, QUEM AMAYI, IN QUEM CREDIDI, QUEM DILEXI
“Dịch ra thì những từ đó có nghĩa là, ‘Ta coi khinh vương quốc thế giới này, và tất cả những thứ trang trí phàm tục, bởi vì tình yêu Đức chúa Jesus của ta, người mà ta nhìn thấy, người mà ta yêu, người mà ta tin, và người lắng nghe ta cầu nguyện.’ Nhìn qua đó đã là một câu rất thú vị, nhưng có một số lỗi rõ mồn một.” Mark nói tiếp. “Các từ scoeculi, anorem, quen, và cremini bị viết sai. Saunière đã bỏ ra một trăm tám mươi quan cho việc khắc mấy thứ này, và việc sơn chúng nữa, vào thời ấy đó là một món tiền rất lớn. Chúng tôi biết được chuyện đó bởi vì các hóa đơn vẫn còn tồn tại. Ông ta đã bỏ rất nhiều công sức để làm lối vào này, nên không thể có chuyện ông ta để sót mấy lỗi đó được. Sửa chúng cũng hết sức dễ đàng, vì những chữ đó đều chỉ được sơn lên”.
“Có thể là ông ấy không phát hiện ra”.
“Saunière ư ? Ông ấy là người vô cùng kỹ tính. Không gì qua được mắt ông ta đâu”.
Mark dẫn anh ra khỏi lối vào khi một đoàn khách du lịch mới bước vào nhà thờ. Họ dừng lại trước một khu vườn nơi đặt cây cột của người Visigoth và bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh.
“Những chữ viết phía trên cái cửa không nằm trong Kinh Thánh. Nó ở bên trong một bài thánh ca do một người tên là John Tauler viết vào khoảng đầu thế kỷ mười bốn. Các bài thánh ca thường là các bài nguyện hoặc thơ được sử dụng trong những lần đọc kinh và Tauler rất nổi tiếng vào thời của Saunière. Cho nên rất có thể chỉ đơn giản là Saunière thích câu đó. Nhưng cũng hơi bất bình thường”.
Malone đồng ý.
“Các lỗi sai có thể rọi thêm chút ánh sáng vào việc tại sao Saunière lại dùng chúng. Những từ được sơn là quem cremini, ‘người mà ta tin,’ nhưng từ đó lẽ ra phải là credicìi, thế nhưng Saunière lại để nguyên lỗi đó. Liệu điều đó có thể có nghĩa là ông ta không tin vào Người không ? Và rồi cái thú vị nhất nữa. Quem vidL Người mà ta nhìn thấy”.
Ngay lập tức Malone hiểu ra. “Mọi thứ mà ông ấy tìm được đều dẫn đến Chúa. Người mà ông ấy nhìn thấy”.
“Đó cũng chính là điều mà bố tôi đã nghĩ, và tôi đồng ý. Có vẻ như là Saunière không thể cưỡng lại ý muốn để lại các thông điệp. Ông ta muốn thế giới biết những gì ông ta biết, nhưng cứ như thể là ông ta hiểu ra rằng sẽ không có một ai sống ở thời đó có thể hiểu được. Và ông ta đã đúng. Không ai hiểu được hết. Phải mãi đến bốn mươi năm sau cái chết của ông ta người ta mới bắt đầu để ý”. Mark nhìn về phía ngôi nhà thờ cổ. ‘‘Toàn bộ nơi này đều là những sự đảo ngược. Các bức tranh miêu tả cảnh Chúa chịu nạn được treo trên bức tường phía sau tại tất cả các nhà thờ khác trên thế giới. Con quỷ ở cửa – phản đề của cái thiện.” Rồi anh chỉ cây cột của người Visigoth cách đó vài feet. “Lộn ngược. Nhìn vào cây thánh giá và những hình khắc trên đó mà xem”.
HÌNH VẼ
Malone chăm chú nhìn lên mặt cột.
“Saunière đã cho làm cái cột trước khi khắc chữ Mission 1891 vào phía dưới và Penitence, Penitence dọc theo đỉnh”.
Malone nhìn thấy một chữ V với một hình tròn ở trung tâm ở góc dưới bên phải. Anh nhìn ra xung quanh và thấy hình ảnh bị lộn ngược. “Alpha và omega à ?”, anh hỏi.
“Một số người nghĩ vậy. Cả bố tôi nữa”.
“Một cái tên khác của Christ”.
“Đúng vậy”.
“Tại sao Saunière lại cho trồng ngược một cái cột ?”
“Không ai đưa ra được một lý do nào thực sự làm mọi người thỏa mãn cả”.
Mark bước ra khỏi chỗ đó, để những người khác bước lên xem các bức tranh. Rồi anh đi ngược trở lại phía sau nhà thờ, vào một góc của khu vườn Chịu nạn, nơi có một cái hang nhỏ.
“Đây cũng chỉ là bản sao thôi. Cho khách du lịch. Thế chiến thứ hai đã cướp đi bản gốc rồi. Saunière làm nó bằng chỗ đá mà ông ta kiếm được. Ông ta và người tình của mình đã đi khỏi trong nhiều ngày vào thời điểm đó và quay trở lại với một thùng lớn dựng đá. Anh có thấy kỳ cục không ?”
“Còn phụ thuộc vào việc trong cái thùng đó có gì khác nữa”.
Mark mỉm cười. “Một cách để mang một ít vàng về mà không làm ai nghi ngờ”.
“Nhưng có vẻ như Saunière là một người rất đặc biệt. Có thể là ông ấy chỉ đơn giản mang đá về thôi”.
“Tất cả mọi người đến đây đều thấy ngạc nhiên một chút”.
“Kể cả bố anh à ?”
Mark tỏ ra nghiêm trang. “Còn gì nữa. Ông ấy bị ám ảnh. Ông ấy dành cả đời cho nơi này, yêu từng mi li mét vuông của ngôi làng này một. Đây là nhà của ông ấy, theo tất cả các nghĩa”.
“Nhưng không phải là nhà của anh phải không ?”
“Tôi đã có nghĩ vậy. Nhưng tôi không có niềm say mê của ông ấy. Có thể tôi nhận ra rằng toàn bộ chuyện này thật phù phiếm”.
“Vậy thì tại sao anh lại trốn mình vào tu viện trong suốt năm năm trời ?”
“Tôi cần sự cô đơn. Cái đó tốt cho tôi. Nhưng Trưởng giáo có các kế hoạch lớn hơn nhiều. Vì vậy mà tôi ở đây. Một người trốn chạy khỏi tay các Hiệp sĩ Đền thờ”.
“Thế anh đang làm gì trong núi khi tuyết lở ?”
Mark không trả lời.
“Anh đã làm đúng điều mà mẹ anh đang làm ở đây. Cố hòa giải một cái gì đó. Anh chỉ không biết là đang bị theo dõi thôi”.
“Ơn Chúa là họ đã làm vậy”.
“Mẹ anh đang rất đau khổ”.
“Anh và bà ấy từng làm việc cùng nhau à ?”
Anh nhận ra cùng một thủ thuật lảng chuyện. “Trong một thời gian dài. Bà ấy là bạn tôi”.
“Bà ấy cứng đầu cứng cổ lắm”.
“Cứ nói vậy đi, nhưng cũng đã khác rồi. Bà ấy đau khổ vô cùng. Quá nhiều cảm giác tội lỗi và hối tiếc. Đây có thể là cơ hội thứ hai cho bà ấy và cho anh”,
“Mẹ tôi và tôi đã không còn gần gũi từ lâu rồi. Điều đó tốt hơn cả cho cả hai chúng tôi”.
“Vậy anh đang làm gì ở dây ?”
“Tôi đến nhà bố tôi”
“Và khi đến anh đã nhìn thấy có đồ đạc của người nào đó để sẵn đó. Hộ chiếu của chúng tôi cũng để lại đó luôn. Chắc là anh tìm được chúng chứ ? Nhưng anh vẫn ở lại”.
Mark quay đầu đi và Malone nghĩ rằng phải cố gắng lắm anh mới không để lộ sự bối rối. “Anh giống mẹ mình hơn nhiều so với những gì anh công nhận”.
“Tôi đã ba mươi tám tuổi và vẫn cảm thấy mình là một đứa trẻ”, Mark nói. “Tôi đã sống năm năm vừa qua trong một cái tổ kén đóng kín của một tu viện được điều chỉnh bởi một Giới luật hà khắc. Một người mà tôi coi như cha rất thân ái với tôi, và tôi đã lên được một vị trí quan trọng trước đây chưa bao giờ tôi từng biết đến”.
“Như vậy là anh đã đến đây. Ở chính giữa cái gì thì có Chúa mới biết”.
Mark mỉm cười.
“Anh và mẹ cần giải quyết mọi việc đi”.
Chàng trai trẻ vẫn thản nhiên, có vẻ suy nghĩ. “Người phụ nữ đêm qua mà anh đã nói đến, Cassiopeia Vitt. Tôi biết về cô ta. Cô ta và bố tôi từng kình địch với nhau trong nhiều năm. Liệu cô ta có vô hình luôn không ?”
Anh nhận ra Mark có thói quen tránh trả lời các câu hỏi bằng cách đặt các câu hỏi khác, rất giống với mẹ anh. “Còn phụ thuộc nhiều điều. Cô ta có nguy hiểm không ?”
“Khó nói lắm. Có vẻ như là lúc nào cô ta cũng lởn vởn đâu đó, và bố tôi không thích cô ta”.
“Cả de Roquefort cũng không thích đâu”.
“Hẳn nhiên rồi”,
Trong kho tư liệu hồi đêm qua, cô ta không lần nào để lộ mặt và de Requefort không biết tên cô ta. Cho nên khi có Claridon trong tay, hẳn là giờ đây hắn ta đã biết cô ta là ai rồi”.
“Đó có phải là một vấn đề không ?”, Mark hỏi.
“Cô ta đã cứu tôi hai lần. Cho nên cô ta cần được báo trước. Claridon nói với tôi rằng cô ta sống ở gần đây thôi, ở Givers”.
“Mẹ tôi và tôi đã định rời khỏi đây vào hôm nay. Chúng tôi đã nghĩ tìm kiếm này sẽ kết thúc ở đây. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi”
“Tôi cần phải đến gặp Cassiopoia Vitt. Tôi nghĩ hiện tại để tôi lo việc đó một mình là tốt hơn cả”.
“Được thôi. Chúng tôi sẽ chờ ở đây. Ngay lúc này thì tôi cũng phải đi gặp một người. Đã năm năm nay tôi chưa đến thăm mộ bố tôi rồi”.
Và Mark bước đi khỏi, về phía cổng nghĩa trang.