Chương 41

Chương 41

DE ROQUEFORT ĐANG VÔ CÙNG GIẬN DỮ. BỐN GIỜ TRƯỚC, gã được báo rằng, trong đêm Trưởng giáo chết, hệ thống bảo vệ của thư viện đã ghi lại một cuộc viếng thăm vào mười một giờ năm mươi phút đêm. Giám quản đã ở trong đó mười hai phút, rồi đi khỏi với hai quyển sách. Các nhãn điện tử gắn vào từng quyển sách ghi lại sự thiếu vắng của hai quyển sách, một bản chép tay thế kỷ mười ba mà gã biết rất rõ và báo cáo của một tướng quân viết vào hồi cuối thế kỷ mười chín, mà gã cũng đã từng đọc.

Khi tra hỏi Royce Claridon vài giờ trước, gã không hề tỏ ra là mình biết rất rõ bản mật mã có trong quyển nhật ký của Lars Nelle. Nhưng bản vẽ có trong báo cáo của viên tướng quân trước đây cùng với nơi tìm thấy câu đố – trong nhà thờ của tu viện trưởng Gélis nằm ở Coustausa, không xa Rennes-le-Château lắm. Gã nhớ là đã đọc được rằng viên tướng quân đã nói chuyện với Gélis không lâu trước khi vị linh mục bị giết và biết được rằng Saunière cũng đã tìm được một bản mật mã ở nhà thờ của mình. Khi so sánh với nhau, hai cái đó giống hệt. Có vẻ như là Gélis đã giải được câu đố và viên tướng quân cũng biết lời giải, nhưng không thấy ghi lại và nó chưa bao giờ được tìm ra sau khi Gélis chết. Cả hiến binh địa phương và viên tướng quân đều nghi kẻ giết Gélis tìm những gì có ở trong cặp giấy tờ của Gélis. Chắc chắn đó là cách giải mã của Gélis. Nhưng Saunière có phải là hung thủ không? Rất khó nói. Tội ác chưa bao giờ được làm sáng tỏ. Thêm nữa, căn cứ vào những gì mà de Roquefort biết, vị tu sĩ Rennes chưa bao giờ nằm trong danh sách những người bị tình nghi.

Giờ đây báo cáo của viên tướng quân đã biến mất. Điều đó cũng không thật sự nghiêm trọng lắm vì gã đã có trong tay quyển nhật ký của Lars Nelle, trong đó có vẽ lại bức mật mã của Saunière. Nhưng liệu đó có đúng là bản mật mã của Gélis không? Không có cách nào để biết nếu không có báo cáo của viên tướng quân, cái chắc chắn đã bị lấy đi khỏi thư viện vì một lý do mà gã biết rõ.

Năm phút trước, gã đã nghe một cái microphone gắn ở một cửa sổ tiếng Stephanie Nelle và giáo hữu Geoffrey nói chuyện với nhau, biết được rằng Mark Nelle và Cotton Malone đã đi bộ đến nhà thờ. Stephanie đã khóc sau khi đọc lá thư của trưởng giáo trước. Cảm động biết bao. Rõ ràng là trưởng giáo đã lên một kế hoạch chi tiết từ trước và toàn bộ vấn đề giờ đây đã thoát ra khỏi tầm kiểm soát của gã. Gã cần phải siết chặt hơn nữa dây cương và làm giảm tốc độ của đối phương. Vậy nên trong khi Royce Claridon nói chuyện với những người đang có mặt trong nhà Lars Nelle, gã sẽ đi gặp hai người còn lại.

Cái máy định vị điện tử vẫn gắn vào cái xe thuê của Malone, cho thấy Malone và Stephanie Nelle đã từ Ayignon quay trở lại Rennes hồi đêm. Hẳn là Mark Nelle đã phải đi thẳng đến đó từ tu viện, điều này không có gì đáng ngạc nhiên.

Sau những gì xảy ra hồi đêm qua với người phụ nữ trên cầu, gã nghĩ rằng Malone và Stephanie Nelle không còn quan trọng nữa, chính vì vậy mà gã đã ra lệnh cho người của mình chỉ vô hiệu hóa họ trong một lúc. Giết một nhân viên cao cấp hiện nay và một nhân viên trước đây của chính phủ Mỹ chắc chắn sẽ gây ầm ĩ. Gã đã đến Ayignon để khám phá những bí mật mà kho lưu trữ của cung điện có được và bắt được Claridon, chứ không phải là để thu hút sự chú ý của toàn bộ cộng đồng phản gián Mỹ. Gã đã hoàn thành được cả ba mục đích và đã lấy được thêm quyển nhật ký của Lars Nelle như một thứ tặng thưởng thêm. Tính đến tất cả những điều đó, đêm vừa qua không hề tệ chút nào. Thậm chí gã còn sẵn sàng để cho Mark Nelle và Geoffrey đi khỏi, bởi vì khi ở xa tu viện bọn họ không còn nguy hiểm lắm nữa. Nhưng sau khi biết về hai quyển sách bị mất, toàn bộ chiến lược sẽ phải thay đổi.

“Chúng tôi đến nơi rồi đây”, một giọng nói vang lên trong tai gã.

“Ở yên đó cho đến khi ta gọi”, gã thì thầm vào cái micro nhỏ xíu.

Gã đã mang theo sáu giáo hữu đi cùng với mình và giờ đây họ đã trấn giữ nhiều nơi quanh làng, hòa lẫn vào dòng người đông đảo ngày Chủ nhật. Ngày rất sáng, nắng, và vô cùng nhiều gió. Trong khi các thung lũng của sông Aude ấm áp và hiền hòa, những đỉnh núi xung quanh họ vẫn quanh năm vần vũ những cơn gió dữ dội.

Gã đi theo phố chính để đến nhà thờ Mary Magdalene, không hề tìm cách che giấu việc mình đang đến đó.

Gã muốn Mark Nelle biết rằng gã đang ở đó.

o O o

Mark đứng bên mộ bố mình. Ngôi mộ nhìn ngay ngắn, giống như tất cả các ngôi mộ khác, bởi vì giờ đây có vẻ như là nghĩa trang đã trở thành một phần không thề tách rời của ngành du lịch đang phát triển mạnh của thành phố.

Trong sáu năm đầu tiên sau khi bố mất, anh thường xuyên đến thăm mộ, gần như là tất cả các cuối tuần. Bố anh rất nổi tiếng đối với người dân Rennes vì ông đã viết về ngôi làng với rất nhiều trìu mến và tỏ ra tôn trọng Saunière. Có lẽ đó chính là lý do khiến bố anh đã cho vào những quyển sách của mình rất nhiều câu chuyện hư cấu về Rennes. Điều bí ẩn được tô điểm đó thực sự là một cỗ máy làm ra tiền cho cả vùng, và các tác giả nói những điều không tốt về bí ẩn đó đều không được mấy người thích thú. Vì những gì chắc chắn về câu chuyện đó có rất ít, nên người ta thả sức tô vẽ thêm vào. Điều đó cũng giúp bố anh được coi là người khiến cho cả thế giới quan tâm đến câu chuyện ấy, mặc dù Mark biết rằng một quyển sách tiếng Pháp ít được biết đến của Gérard de Sẽde, Le Trésor Maudit, xuất bản vào cuối những năm 1960, cũng chính là quyển sách đầu tiên đánh thức sự tò mò của bố anh. Anh vẫn luôn nghĩ đến cái tên quyển sách – Kho báu bị nguyền rủa – vô cùng thích hợp, nhất là sau khi bố anh chết. Lần đầu tiên đọc cuốn sách của bố mình, Mark vẫn còn là một đứa trẻ, nhưng phải mãi đến nhiều năm sau này, khi anh đã học đại học, có thêm nhiều hiểu biết về lịch sử thời Trung cổ và triết học tôn giáo, bố anh mới nói với anh điều thực sự là một mối nguy hại.

“Tâm điểm của Cơ đốc giáo là sự phục sinh của các thân xác cụ thể. Đó là điều hoàn thành lời hứa của Cựu Ước. Nếu những người Công giáo không được hồi sinh thì lòng tin của họ sẽ không để làm gì. Không có sự phục sinh nào cũng đồng nghĩa là các Phúc Âm chỉ là một lời nói dối – lòng tin Công giáo chỉ để đành cho cuộc đời này – không có gì ở sau đó cả. Chính phục sinh là điều làm cho Chúa trở nên có giá trị. Các tôn giáo khác rao giảng về thiên đường và một cuộc sống khác sau cái chết. Nhưng chỉ có Cơ đốc giáo là có một vị Chúa trở thành người thường, đem cái chết để mang lại phúc lành cho những người đi theo mình, rồi sống lại từ cái chết để cai quản mãi mãi”.

“Nghĩ về điều đó đi”, bố anh đã nói. “Người Công giáo có thể có rất nhiều niềm tin khác nhau về nhiều vấn đề. Nhưng tất cả họ đều đồng ý với nhau về chuyện phục sinh. Đó là hằng số phổ quát của họ. Jesus sống lại từ cái chết để cho họ. Cái chết đã được chinh phục để cho họ. Christ vẫn còn sống và làm mọi cách để cứu rỗi họ. Vương quốc thiên đường đang chờ đợi họ, vì cả họ cũng sẽ sống lại từ cái chết để sống mãi mãi ở nước Chúa. Cái đó lúc nào cũng vậy ở tất cả các bi kịch, vì phục sinh mang lại hy vọng cho một tương lai”.

Rồi bố anh đặt cái câu hỏi mà kể từ đó lúc nào cũng ám ảnh đầu óc anh.

“Điều gì sẽ xảy ra nếu chuyện đó là không hề có? Điều gì sẽ xảy ra nếu Christ chỉ đơn giản là đã chết, bị chôn sâu xuống đất?”

Đúng vậy, điều gì sẽ xảy ra?

“Cứ nghĩ đến hàng triệu người từng bỏ mạng nhân danh Christ phục sinh. Chỉ riêng trong cuộc Thập tự chinh Albigensia, mười lăm nghìn đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã bị thiêu chết chỉ vì từ chối không chịu tin vào cuộc chịu nạn của Chúa. Tòa án Dị giáo giết thêm hàng triệu người nữa. Các cuộc Thập tự chinh đến Đất Thánh làm chết hàng trăm nghìn người. Tất cả là để cho cái vẫn được gọi là Chúa phục sinh. Các giáo hoàng trong nhiều thế kỷ đã sử dụng sự hy sinh của Christ như một phương cách để khuyến khích các chiến binh. Nếu sự phục sinh chưa bao giờ diễn ra thì sẽ không có lời hứa nào về một cuộc sống sau cái chết, và con nghĩ là sẽ có bao nhiêu người trong số đó có thể đối mặt được với cái chết đây?”

Câu trả lời hết sức đơn giản. Không người nào hết.

Điều gì sẽ xảy ra nếu không hề có phục sinh?

Mark vừa bỏ ra năm năm để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi đó, trong cái Dòng tu mà cả thế giới nghĩ rằng đã biến mất từ bảy trăm năm trước. Và anh đã rời khỏi tu viện với cùng sự bối rối giống như khi lần đầu tiên anh được đưa đến đó.

Anh đã có được gì?

Điều quan trọng hơn, anh đã mất gì?

Anh cố rũ sự bối rối khỏi đầu óc của mình và chú tâm trở lại vào ngôi mộ của bố mình. Anh đã đặt làm phiến đá này và đã đứng đó nhìn khi người ta đặt nó xuống vào một buổi chiều tháng Năm ảm đạm. Bố anh đã được tìm thấy một tuần trước đó, treo cổ ở một cây cầu cách đó khoảng nửa giờ xe về phía Nam của Rennes. Mark đang ở nhà mình tại Toulouse thì cảnh sát gọi điện đến. Anh còn nhớ khuôn mặt của bố mình khi đến nhận dạng cái chết – làn da xám ngắt, một cái miệng há hốc, đôi mắt chết chóc.

Một hình ảnh ghê gớm mà anh sợ là sẽ không bao giờ quên nổi.

Mẹ anh quay trở lại Georgia ngay sau đám tang. Họ nói chuyện với nhau rất ít trong ba ngày bà ở Pháp. Khi đó anh hai mười bảy tuổi, vừa bắt đầu nhận chức giáo sư trợ giảng tại trường đại học Toulouse, không mấy thoải mái với cuộc đời. Nhưng giờ dây, mười một năm sau, anh tự hỏi không biết mình có thấy thoải mái hơn chút nào không. Hôm qua anh đã suýt giết chết Raymond de Roquefort. Điều gì đã xảy đến với tất cả những gì mà anh được dạy? Đâu là cái kỷ luật mà anh đã tự áp dụng cho mình? Những việc làm sai lạc của de Roquefort cũng dễ hiểu – một ý thức giả về trách nhiệm do cái ego điều chính – nhưng sự yếu ớt của chính anh cũng rất đáng lo. Trong vòng ba ngày, anh đã từ vị thế một giám quản để trở thành một kẻ trốn chạy. Từ sự an toàn đến hỗn độn. Từ chỗ có mục đích rõ ràng đến chỗ lang thang.

Và vì điều gì?

Anh cảm thấy khẩu súng giấu dưới áo jacket cộm lên tì vào người. Sự đảm bảo mà nó tạo cho anh thật đáng sợ – chỉ là thêm một cảm giác mới và kỳ lạ khiến cho anh cảm thấy yên ổn.

Anh rời khỏi mộ bố mình và tiến đến nơi an nghỉ của Ersnt Scoville. Anh quen ông già người Bỉ sống khép kín này và rất thích ông. Có vẻ như là trưởng giáo cũng có biết ông, vì ông đã gửi cho Scoville một bức thư mới vào tuần trước. De Roquefort đã nói gì vào hôm qua về hai cái bưu kiện gửi qua đường bưu điện đó? Tôi đã gặp một trong hai người. Có vẻ như là đúng vậy. Nhưng gã còn nói gì nữa? Và sẽ nhanh chóng gặp người còn lại. Mẹ anh đang gặp nguy hiểm. Tất cả họ đều gặp nguy hiểm. Nhưng sẽ làm được rất ít việc mà thôi. Báo cảnh sát ư? Sẽ không ai tin họ. Tu viện rất được kính trọng, và sẽ không có giáo hữu nào khai báo những điều chống lại Dòng. Tất cả những gì có thể tìm được ở đó là một chúng viện yên ắng thờ phụng Chúa một cách sùng kính. Có rất nhiều phương án đã được vạch sẵn để đổì phó với những rò rỉ tin tức về dòng tu, và không người nào sống trong tu viện sẽ ngã lòng hết.

Cái đó thì anh có thế chắc chắn. Không, họ phải tự lo cho mình thôi.

o O o

Malone đứng trong khu vườn chờ Mark từ nghĩa trang quay lại. Anh không muốn xâm nhập một việc có tính chất cá nhân như vậy, kể từ khi anh hiểu được hoàn toàn những cảm xúc lớn mà chàng thanh niên đã trải qua. Bố anh mất khi anh mới mười tuổi, nhưng nỗi buồn mà anh cảm thấy khi biết rằng mình sẽ không bao giờ còn gặp bố nữa chưa bao giờ phai nhạt. Không giống như Mark, anh không có nghĩa trang nào để đến thăm cả. Ngôi mộ của bố anh nằm ở đáy biển vùng phía Bắc Đại Tây Dương, bên trong khoang lái một cái tàu ngầm bị đắm. Đã có một lần anh thử tìm hiểu chi tiết về những gì đã xảy ra, nhưng hồ sơ sự cố đó đã được xếp lại.

Bố anh rất yêu Hải quân và nước Mỹ – ông từng là một người yêu nước sẵn sàng xả thân cho tổ quốc. Và điều đó luôn làm cho Malone cảm thấy hãnh diện. Mark Nelle là người may mắn. Anh được chia sẻ trong nhiều năm với bố mình. Họ đã dần dần hiểu được nhau và chia sẻ cuộc sống. Nhưng theo nhiều cách thức, anh và Mark rất giống nhau. Cả hai đều có những ông bố quá chú tâm đến công việc của mình. Cả hai đều đã chết. Không cái chết nào có được một lời giải thích rõ ràng.

Anh đứng trong vườn và nhìn dòng khách du lịch đi vào nghĩa trang. Cuối cùng, anh nhìn thấy Mark đang đi sau một nhóm người Nhật Bản.

“Thật là nặng nề”, Mark nói khi đã tiến lại gần hơn. “Tôi nhớ ông ấy”.

Anh quyết định nói tiếp câu chuyện mà họ đã bỏ dở lúc trước. “Anh và mẹ anh sẽ phải có những thỏa thuận với nhau”.

“Trong chuyện đó có nhiều cảm giác không hề tốt đẹp, và việc đứng trước mộ ông ấy làm cho chúng càng trở nên sống động hơn”.

“Bà ấy có một trái tim. Nó được bọc sắt, tôi biết, nhưng trái tim vẫn nằm ở đó”.

Mark mỉm cười. “Có vẻ như là anh rất biết bà ấy”.

“Tôi có một số kinh nghiệm mà”.

“Lúc này, chúng ta cần tập trung vào tất cả những gì mà Trưởng giáo đã chuẩn bị sẵn”.

“Hai người đều rất giỏi lẩn tránh câu hỏi”.

Mark lại mỉm cười. “Ăn vào máu rồi mà”.

Anh nhìn đồng hồ đeo tay. “Mười một giờ rưỡi. Tôi cần phải đi. Tôi muốn đến gặp Cassiopeia Vitt trước khi trời tối”.

“Tôi sẽ lấy cho anh một tấm bản đồ. Không xa đây lắm đâu”.

Họ rời khỏi khu vườn và quay trở lại phố chính. Cách đó khoảng một trăm feet, Malone nhìn thấy một gã đàn ông thấp lùn, dáng vẻ gồ ghề, hai tay thọc vào túi một cái áo jacket da, đang bước đi về phía nhà thờ.

Anh nắm lấy vai Mark. “Chúng ta có bạn đồng hành rồi”.

Mark nhìn theo anh và cũng nhìn thấy de Roquefort.

Malone nhanh chóng cân nhắc các lựa chọn của họ khi nhìn thấy ba cái đầu cắt tóc ngắn khác. Hai người đang đứng trước Villa Béthanie. Người còn lại chặn lối đi về phía bãi đỗ xe.

“Có ý tưởng gì không?”, Malone hỏi.

Mark quay ngược trở lại nhà thờ. “Đi theo tôi”.

o O o

Stephanie mở cửa và Royce Claridon bước vào nhà. “Ông từ đâu đến thế?”, bà hỏi, ra hiệu cho Geoffrey hạ súng xuống.

“Họ bắt tôi ở cung điện đêm qua và đưa tôi đến đây. Họ giữ tôi trong một căn hộ cách đây hai phố, nhưng tôi vừa tìm cách trốn ra được mấy phút trước”.

“Trong làng có bao nhiêu giáo hữu?”, Geoffrey hỏi Claridon.

“Anh là ai?”

“Tên cậu ấy là Geoffrey”, Stephanie nói, hy vọng rằng cậu sẽ chịu khó nói thêm một chút nữa.

“Có bao nhiêu giáo hữu ở đây?”, Geoffrey lại hỏi.

“Bốn”.

Stephanie bước về phía cửa sổ bếp và nhìn ra phố bên ngoài. Cả hai phía đều không có người. Nhưng bà thấy lo cho Mark và Malone. “Các giáo hữu đó ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi nghe thấy họ nói với nhau là bà đang ở nhà Lars, nên tôi đến thẳng đây”.

Bà không thích câu trả lời đó. “Đêm qua chúng tôi đã không giúp gì được ông. Chúng tôi không biết họ đưa ông đi đâu. Chúng tôi bị đánh bất tỉnh trong khi đuổi theo de Roquefort và người phụ nữ. Khi chúng tôi tỉnh dậy, tất cả đã đi khỏi”.

Claridon giơ hai tay lên. “Thôi được rồi, thưa bà, tôi hiểu mà. Các bạn không thể làm được gì”.

“De Roquefort có ở đây không?”, Geoffrey hỏi.

“Ai cơ?”

“Trưởng giáo. Ông ta có ở đây không?”

“Tôi có biết cái tên nào đâu”. Claridon nhìn thẳng vào mặt bà. “Nhưng tôi nghe họ nói rằng Mark vẫn còn sống. Điều đó có đúng không?”

Bà gật đầu. “Nó và Cotton đang đến chỗ nhà thờ. Nhưng sẽ về đây sớm thôi”.

“Một phép màu. Tôi đã nghĩ là cậu ấy chết hẳn rồi”.

“Cả tôi cũng nghĩ thế”.

Ông ta nhìn quanh phòng. “Tôi đã không đến đây được một thời gian rồi. Lars và tôi đã từng ngồi đây nhiều lần”.

Bà mời ông ta ngồi xuống bàn. Geoffrey đứng cạnh cửa sổ, và bà nhận ra một khía cạnh khác trong các biểu hiện của anh.

“Chuyện gì đã xảy ra với ông?”, bà hỏi Claridon.

“Tôi bị trói cho đến tận sáng nay. Họ cởi trói để tôi duỗi người được một chút. Trong phòng vệ sinh, tôi trèo ra khỏi cửa sổ và đến

thẳng đây. Chắc chắn là họ đang đi tìm tôi, nhưng tôi không có nơi nào khác để đến cả. Ra khỏi thành phố này là một việc khó khăn, vì chỉ có một lối ra vào”. Claridon ngả người ra ghế. “Cho tôi uống chút nước được không?”

Bà đứng dậy và rót một cốc nước từ vòi. Clariclon uống một hơi cạn cốc. Bà lại rót thêm.

“Tôi sợ họ lắm”, Claridon nói.

“Họ muốn gì?”, bà hỏi.

“Họ tìm kiếm Bí mật Lớn của họ, đúng như Lars đã nói”.

“Và ông đã nói gì với họ?”, Geoffrey hỏi, trong giọng nói có một chút nghi ngờ.

“Tôi không nói gì cho họ hết, nhưng họ mới hỏi ít thôi. Họ muốn tra hỏi tôi vào hôm nay cơ, sau khi đã làm xong một việc gì đó. Nhưng họ không nói đó là việc gì”, Claridon nhìn bà chằm chằm. “Bà có biết họ muốn gì ở bà không?”

“Họ đã có quyển nhật ký của Lars, quyển sách ở chỗ đấu giá, và bản sao litô bức tranh. Họ còn muốn có gì hơn nữa?”

“Tôi nghĩ đó là Mark”.

Những từ đó rõ ràng làm Geoffrey rùng mình.

Bà muốn biết, “Họ muốn gì ở nó?”

“Tôi làm sao biết được, thưa bà. Nhưng tôi tự hỏi không biết liệu tất cả những cái đó có đáng để đổ máu như vậy hay không”.

“Các giáo hữu đã bỏ mạng trong gần chín trăm năm cho những gì mà họ tin tưởng”, Geoffrey nói. “ở đây cũng không có gì khác”.

“Anh nói cứ như là người của Dòng ấy”.

“Tôi chỉ trích dẫn lịch sử thôi”.

Claridon uống cốc nước của mình. “Lars Nelle và tôi đã nghiên cứu Dòng trong nhiều năm. Tôi đã đọc cái lịch sử mà anh đang nói đến”.

“Ông đã đọc gì?”, Geoffrey hỏi, vẻ ngạc nhiên hiện rõ trong giọng nói. “Những cuốn sách được viết bởi những người không biết gì hết cả. Bọn họ viết về dị giáo và thờ cúng thần tượng, hoặc hôn nhau vào miệng, hoặc làm tình theo đường hậu môn, và chối

Chúa. Không một từ nào trong số đó đúng cả. Tất cả những lời nói dối đó được dùng để tàn phá Dòng và cướp đi tài sản của nó” “Giờ thì anh nói giống hệt như một Hiệp sĩ rồi”.

“Tôi nói như một người yêu công lý”.

“Một Hiệp sĩ không phải người như vậy à?”

“Không phải tất cả mọi người đều như vậy à?”

Stephanie mỉm cười. Geoffrey suy nghĩ rất nhanh.

o O o

Malone đi theo Mark quay trở lại nhà thờ Mary Magdalene. Họ vội vã bước dọc theo lối đi trung tâm, đi qua chín hàng ghế, về phía ban thờ chính. Đến đó thì Mark rẽ sang phải và bước vào một căn phòng nhỏ qua một cánh cửa mở. Ba người khách du lịch đang quay camera ở trong đó.

“Xin lỗi mọi người một lát nhé”, Mark nói bằng tiếng Anh. “Tôi là người của viện bảo tàng và hiện đang cần căn phòng này một lúc”.

Không ai hỏi lại và Mark nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng họ. Malone nhìn quanh. Trong phòng được chiếu sáng bởi một ánh sáng lọt qua từ một cửa sổ gắn kính. Một hàng giá để cốc chạy suốt một bức tường. Ba bức tường còn lại đều làm bằng gỗ. Không có đồ đạc gì trong phòng.

“Đây là phòng để đồ thánh”, Mark nói.

Chỉ còn khoảng một phút nữa là de Roquefort sẽ đến nơi, nên anh muốn biết, “Tôi cho rằng anh đã có chủ định rồi chứ?”

Mark tiến lại gần tủ đựng cốc và lấy đầu ngón tay lần tìm phía trên ngăn trên cùng. “Như tôi đã nói với anh rồi đấy, khi Saunière xây dựng khu vườn, ông ta cũng xây luôn cả cái hang. Ông ta và người tình của mình có thể đi xuống thung lũng để nhặt đá sưu tầm”. Mark tiếp tục tìm kiếm cái gì đó. “Họ quay trở lại với những cái thùng đựng đầy đá. Ở đó”.

Mark rút tay ra và nắm chặt lấy cái tủ, cái tủ mở ra để lộ một khoảng không gian kín mít không cửa sổ ở bên trong. “Đây là nơi giấu đồ của Saunière. Tất cả những gì không phải là đá đều được cất ở đây. Rất ít người biết chỗ này. Saunière đã tạo ra nó trong thời kỳ sửa sang nhà thờ. Các bản vẽ trước năm 1891 vẽ nó là một căn phòng mở”.

Mark rút từ dưới áo Jacket ra một khẩu súng tự động. “Chúng ta sẽ đợi ở đây và xem xem chuyện gì sẽ xảy ra”.

‘‘De Roquefort có biết chỗ trốn này không?”

“Chúng ta sẽ biết ngay thôi”.

Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ

Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ

Score 9
Status: Completed Author:

Dòng tu cổ của Hiệp Sỹ Đền Thờ sở hữu một kho báu vô kể và một quyền lực tuyệt đối trên cả các vị vua và các Đức giáo hoàng. Khi bị đưa ra xét xử ở toà án Dị giáo vào thế kỷ XIV, họ bị xoá sổ, và những của cải của họ cũng biến mất.

Nhưng giờ đây, hai thế lực đang ganh đua để giành kho báu, và họ cũng nhận ra rằng không chỉ có của cải như họ từng nghĩ, mà kho báu kia cũng còn chứa đựng một "bí mật lớn" có thể khiến cả thế giới hiện đại choáng váng.

Cotton Malone, một thời từng là đặc vụ cấp cao trong Bộ tư pháp Mỹ, đang tận hưởng một cuộc sống mới thanh bình của người buôn bán sách cũ ở Copenhagen, Đan Mạch. Nhưng rồi một tình huống nguy hiểm bất ngờ ập đến, khơi dậy bản năng hành động sẵn có và lôi anh trở lại với cái thế giới của các thế lực đen tối mà anh ngỡ đã bỏ lại sau lưng.

Stephanie Nelle, cựu chỉ huy của anh, đến Đan Mạch với một mục đích đặc biệt và bị một kẻ lạ mặt giật mất chiếc túi xách khi đi trên đường phố.

Khi biết mình đang nắm giữ những đầu mối quan trọng dẫn tới một loạt những câu đố đã tồn tại từ hàng thế kỷ bị phân tán rải rác khắp châu Âu, Stephanie quyết định sẽ khám phá điều bí ẩn đã ám ảnh các học giả và những kẻ săn lùng kho báu từ nhiều năm nay, bằng cách tìm ra chốn truyền thuyết đó, nơi cất giấu của cải và những "Bí mật lớn" tưởng như đã mất theo Dòng tu các Hiệp sỹ Đền Thờ từ thế kỷ XIV.

Cùng với tham vọng tìm thấy món quà của lịch sử, một kẻ cuồng tín giấu mặt - Robert de Roquefort, cùng với đám sát thủ của y - đã bằng mọi thủ đoạn liều mạng chiếm đoạt những tài liệu quan trọng trong tay Stephanie.

Dẫu được hoan nghênh hay không, cotton vẫn lao vào cuộc tìm kiếm, mặc cho những bất hòa nảy sinh trong suốt cuộc đua nguy hiểm này. Nhưng, càng hiểu thêm về những âm mưu xa xưa xung quanh các Hiệp Sỹ Đền Thờ, anh càng nhận ra rằng điều gì đó còn lớn hơn những sinh mạng đang bị lâm nguy.

Kết thúc trò chơi chết người trong cuộc chinh phục kho báu mà ở đó, đầy rẫy những mưu mô, sự phản bội, những tham vọng quyền lực đớn hèn, là một khám phá gây chấn động có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại và khiến các thế lực đen tối phải quỳ gối.

Một cuốn tiểu thuyết hoàn hảo cho các fan thích đọc chuyện ly kỳ cũng như chuyện lịch sử. Cốt truyện hoang đường lắt léo.
Và hơn hết, còn có một "bí mật lớn" mà những kẻ truy tìm kho báu lẫn các học giả nhiều thời đại đều bị ám ảnh phải khám phá đến cùng, một bí mật có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại.

Bằng lối kể chuyện cuốn hút, ngôn từ giản dị mà tài tình, nhà văn Steve Berry đã khôn khéo dẫn dắt người đọc đi hết từ bất ngờ này đến ngạc nhiên khác, và dâng tặng độc giả một kết thúc hoàn toàn thoả mãn. Ông xứng danh là tác giả best-selling trên toàn thế giới do tờ New York Times danh tiếng bình chọn.

Mời các bạn đón đọc!

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset