MALONE NHĂN MẶT TRƯỚC CÂU NÓI CỦA STEPHANIE. ANH đã nghĩ đến việc không biết lúc nào sự kiên nhẫn của bà sẽ cạn kiệt.
“Mẹ không thể làm thế được”, Mark nói. “Điều cuối cùng mà chúng ta muốn là bị chính phủ dây dưa vào đây”.
“Tại sao lại không ?”, Stephanie hỏi. “Cái tu viện đó sẽ bị xóa sổ. Rõ ràng là tất cả những gì họ làm ở đó đều không có dính dáng gì đến tôn giáo cả”.
“Ngược lại mới đúng”, Geoffrey nói, giọng run run. “ở đó là cả một không khí sùng đạo. Các giáo hữu sùng kính Chúa. Họ dành cả cuộc đời để cầu nguyện Người”.
“Và nhân tiện các người học về thuốc nổ, chiến đấu tay đôi, và bắn súng bách phát bách trúng chứ gì. Hơi mâu thuẫn đấy, đúng không ?”
“Hoàn toàn không”, Thorvaldsen nói. “Các Hiệp sĩ Đền thờ đầu tiên kính Chúa và là một đạo quân vô cùng thiện chiến”.
Rõ ràng là Stephanie không hề cảm thấy bị ấn tượng. “Bây giờ không phải là thế kỷ mười ba nữa rồi. De Roquefort có cả một chương trình hành động và quyền năng để bắt người ta phải tuân theo đó. Ngày nay, người ta gọi hắn là một tên khủng bố”.
“Mẹ vẫn chẳng thay đổi gì cả” Mark thốt ra.
“Không, mẹ không hề thay đổi. Mẹ vẫn tin rằng các tổ chức bí mật có nhiều tiền, vũ khí, và thiết bị hiện đại là những vấn đề lớn. Công việc của mẹ là xử lý những việc như thế”.
“Điều đó có liên quan gì đến mẹ đâu”.
“Vậy thì tại sao Trưởng giáo của con lại lối kéo mẹ vào ?”
Câu hỏi rất chuẩn, Malone nghĩ.
“Mẹ không hề hiểu gì khi Bố còn sống, và bây giờ vẫn vậy”.
“Thế thì tại sao con không giải thích hết mọi chuyện cho mẹ ?”
“Ông Malone”, Cassiopeia nói, giọng vui vẻ. “Ông có muốn đi xem công trình phục chế lâu đài không ?”
Có vẻ như là nữ chủ nhà đang muốn nói chuyện riêng với anh. Điều đó rất tốt — anh cũng có vài câu hỏi dành cho cô. “Tôi rất muốn”.
Cassiopeia đẩy ghế đứng dậy. “Thế thì để tôi chỉ cho ông. Mọi người ở đây sẽ có thời gian để nói chuyện với nhau – rõ ràng là họ đang cần điều đó. Xin cứ tự nhiên nhé. Ông Malone và tôi sẽ quay lại ngay thôi”.
Anh đi theo Cassiopeia ra ngoài, trong một buổi chiều nắng tươi. Họ đi dọc theo lối đi phủ bóng cây, về phía bãi đỗ xe và công trường xây dựng.
“Khi nào làm xong”, Cassiopeia nói, “một lâu đài theo phong cách thế kỷ mười ba sẽ mọc lên ở đây, chính xác giống như bảy trăm năm trước”.
“Thật là một công trình lớn”.
“Tôi thích làm các công trình lớn”.
Họ bước vào công trường qua một cái công lớn bằng gỗ và đi về phía một ngôi nhà gỗ tường bằng sa thạch bên trong có một nơi tiếp tân hiện đại. Bên ngoài tỏa ra mùi bụi, mùa ngựa, và mùi của đổ nát, với khoảng một trăm người đang tham quan.
“Toàn bộ móng bao quanh đã làm xong và tường thành nối hai đài quan sát sẽ được xây”, Cassiopeia nói và đưa tay chỉ. “Chúng tôi sắp bắt đầu dựng mấy cái tháp canh và mấy tòa nhà chính. Nhưng sẽ phải mất thời gian. Chúng tôi phải tạo hình dáng cho gạch, đá, gỗ, và vữa sao cho thật giống với bảy trăm năm trước đây, sử dụng cùng các phương pháp và công cụ với thời đó, thậm chỉ còn mặc đúng các loại quần áo đó”.
“Họ có ăn cùng thứ đồ ăn không ?”
Cô mỉm cười. “Chúng tôi cũng có những ứng biến cho hợp với thời đại chứ”.
Cô dẫn anh đi qua khu vực xây dựng và bước vào một lối đi dốc, sườn một ngọn đồi dẫn lên một mỏm đất khiêm nhường, từ đó có thể nhìn được bao quát toàn bộ khu vực.
“Tôi thường xuyên đến chỗ này. Một trăm hai mươi đàn ông và phụ nữ được thuê làm việc ở dưới kia”.
“Tốn kém nhỉ”.
“Chỉ là bỏ ra một chút tiền để được xem lại lịch sử thôi mà”.
“Biệt danh của cô, engénieur. Họ gọi cô như vậy à ? Kỹ sư ?”
“Các nhân công gọi tôi như thế đấy. Tôi đã được đào tạo về các kỹ thuật xây dựng thời Trung cổ. Tôi đã thiết kế toàn bộ công trình này”.
“Cô biết không, một mặt, cô là một con mụ cao ngạo, ở mặt còn lại, cô lại có thể là một người khá thú vị”.
“Tôi thấy rằng lời nhận xét của tôi trong lúc ăn, về việc đã xảy ra với con trai của Henrik, không mấy hay ho. Tại sao ông không phản ứng ?”
“Để làm gì cơ chứ ? Cô có biết gì về những chuyện đã xảy ra đâu”.
“Tôi sẽ có không có những đánh giá tương tự nữa”.
Anh chặc lưỡi. “Tôi ngờ đấy, và tôi cũng không nhạy cảm đến mức đó đâu. Từ bao lâu nay, tôi đã tự tạo cho mình một lớp da kỳ nhông rồi. Phải làm vậy nếu muốn sống sót được trong cái nghề này”.
“Nhưng ông đã bỏ việc rồi”,
“Không bao giờ là bỏ hoàn toàn đâu. Chỉ là đứng bên ngoài vùng chiến sự thường xuyên hơn thôi”.
“Vậy ông đang giúp Stephanie đơn thuần với tư cách bạn bè ?”
“Như thế thì lạ lắm à ?”
“Hoàn toàn không, Thật ra, cái đó thích hợp hoàn hảo với tính cách của ông”.
Anh trở nên tò mò. “Làm thế nào mà cô biết được tính cách của tôi ?”
“Khi Henrik yêu cầu tôi tham gia, tôi đã tìm hiểu rất nhiều về ông. Ông có nhiều bạn bè khi còn làm công việc trước kia. Tất cả họ đều đánh giá ông rất cao”.
“Thật mừng vì được nhiều người nhớ đến”.
“Ông có biết nhiều về tôi không ?”, cô hỏi.
“Chỉ một tí chút thôi”.
“Tôi có nhiều điều đặc biệt lắm”.
“Vậy ra cô và Henrik đã quen biết từ lâu rồi”.
Cô mỉm cười. “Tôi thấy là ông biết rất rõ ông ấy”.
“Cô biết ông ấy từ bao lâu rồi ?”
“Từ khi tôi còn nhỏ. Ông ấy quen bố mẹ tôi. Nhiều năm trước, ông ấy đã nói với tôi về Lars Nelle. Những gì mà Lars làm lúc đó hấp dẫn tôi rất nhiều. Vì vậy tôi đã trở thành thiên thần hộ mệnh của Lars, mặc dù ông ấy vẫn luôn nghĩ tôi giống như một con quỷ. Thật là không may, tôi không thể giúp được gì cho ông ấy vào ngày cuối cùng của cuộc đời ông ấy”.
“Khi đó cô ở đâu ?”
Cô lắc đầu. “Ông ấy đi về phía Nam, vào vùng núi. Tôi đang ở đây thì Henrik gọi điện thoại và nói người ta đã tìm thấy xác của ông ấy”.
“Ông ấy tự tử à ?”
“Lars là một người buồn bã, cái đó thì rất rõ. Lúc nào ông ấy cũng giận dữ. Cả đám tay mơ kia lợi dụng tác phẩm của ông ấy và vặn vẹo đủ kiểu không chút xấu hổ. Câu đố mà ông ấy tìm cách giải vẫn là một bí ẩn suốt một thời gian dài. Vậy nên điều đó là có thể”.
“Cô thường bảo vệ ông ấy khỏi những gì ?”
“Nhiều người tìm cách ăn cắp nghiên cứu của ông ấy. Phần lớn trong số đó là những kẻ săn tìm kho báu nhiều tham vọng, một số là những kẻ cơ hội, nhưng cuối cùng người của de Roquefort đã xuất hiện. Thật may mắn là tôi luôn luôn tránh được việc lộ diện trước chúng”.
“Giờ đây de Roquefort đã là trưởng giáo rồi”.
Cô nhíu mày. “Điều đó giải thích tại sao hắn tiếp tục các nỗ lực tìm kiếm. Giờ đây gã đã nắm được toàn bộ các thông tin của Đền thờ rồi”.
Có vẻ như là cô không biết gì về Mark Nelle và nơi anh đã sống trong năm năm qua, nên anh kể cho cô, rồi nói, “Mark đã thua de Roquefort trong cuộc bầu trưởng giáo mới”.
“Như vậy là chuyện giữa họ có tính chất cá nhân à ?”
“Chắc chắn là có một phần”. Nhưng hoàn toàn không, anh nghĩ, khi nhìn xuống dưới và thấy một chiếc xe ngựa kéo đang đi qua một khoảng đất khô cằn về phía dãy tường.
“Công việc ngày hôm nay được làm là để dành cho khách tham quan”, cô nói, nhận ra vẻ chú ý của anh. “Một phần của vở kịch. Chúng tôi sẽ quay trở lại với công việc xây dựng nghiêm túc vào ngày mai”.
“Cái bảng ngoài kia viết là sẽ phải mất ba mươi năm mới hoàn thành được”.
“Dễ thế thật”.
Cô nói đúng. Cô có rất nhiều điểm đặc biệt.
“Tôi đã cố tình để lại quyển nhật ký của Lars cho de Roquefort tìm được ở Ayignon đấy”.
Câu nói làm anh cảm thấy bị chấn động. “Tại sao ?”
“Henrik muốn nói chuyện riêng với hai mẹ con nhà Nelle. Chính vì thế mà chúng ta ở đây. Ông ấy cũng nói rằng ông là một người trọng danh dự. Tôi tin rất ít người trên đời này, nhưng Henrik là một trong số đó. Vì vậy tôi tin từng lời ông ấy nói và sẽ nói cho anh những điều mà không ai khác biết được”.
***
Mark lắng nghe Henrik Thorvaldsen giải thích. Mẹ anh cũng có vẻ rất quan tâm, nhưng Geoffrey chỉ đơn giản là nhìn chăm chăm xuống bàn, mắt gần như không chớp, như thể đang ở trạng thái xuất thần.
“Đã đến lúc bà cần phải hiểu được toàn bộ những gì mà Lars tin vào”, Henrik nói với Stephanie. “Trái ngược với những gì mà bà từng nghĩ, ông ấy không phải là một kẻ chăm chăm đi tìm kho báu đâu. Một mục tiêu hết sức nghiêm túc nằm sau những tìm kiếm của ông ấy”.
“Tôi sẽ bỏ qua lời lăng mạ của ông, vì tôi muốn nghe những gì ông cần phải nói”.
Một tia nhìn giận dữ thoáng qua đôi mắt của Thorvaldsen. “Giả thuyết của Lars hết sức đơn giản, mặc dù nó không hoàn toàn là của ông ấy. Ersnt Scoville là chủ nhân chính của nó, điều liên quan đến một cách nhìn mới đành cho các sách Phúc Âm trong kinh Tân Ước, đặc biệt là cách nhìn nhận sự phục sinh. Lúc nãy Cassiopeia đã nói một số điểm”.
“Chúng ta sẽ bắt đầu với Phúc Âm của Mark. Đó là Phúc Âm thứ nhất, được viết vào khoảng năm 70, có thể là Phúc Âm duy nhất mà những người Công giáo thời kỳ đầu có được sau khi Christ chết đi. Nó chứa sáu trăm sáu mươi lăm câu, nhưng chỉ có tám câu liên quan đến phục sinh. Sự kiện đáng chú ý nhất lại chỉ được nói đến rất ngắn như vậy. Tại sao ? Câu trả lời hết sức đơn giản. Khi Phúc Âm của Mark được viết ra, câu chuyện về cuộc phục sinh còn chưa phổ biến lắm, và sách Phúc Âm đã kết thúc mà không nói gì đến việc các môn đồ tin rằng Jesus đã sống lại. Thay vào đó, nó kể cho chúng ta về chuyện các tông đồ bỏ chạy. Chỉ có các phụ nữ xuất hiện trong phiên bản của Mark kể về những gì đã xảy ra, và họ không hề biết đến mệnh lệnh nói lại với các tông đồ rằng phải đi đến Galilee để gặp được Christ, sẽ sống lại ở đó. Thay vì đó, các phụ nữ cũng sợ hãi và chạy trốn, không nói cho ai khác về những gì mình nhìn thấy. Không có thiên thần nào, chỉ có một người thanh niên mặc đồ trắng bình tĩnh nói rằng Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa. Không có lính gác, không có tang phục, và không có vị Chúa phục sinh nào cả”.
Mark biết tất cả những gì Thorvaldsen nói cho đến lúc này đều đúng. Anh đã nghiên cứu kinh Tân Ước rất kỹ.
“Lời chứng của Matthew xuất hiện khoảng một thập kỷ sau đó. Thời ấy người La Mã đã san phẳng Jerusalem và phá hủy Đền thờ. Nhiều người Do Thái chạy trốn đến các vùng nói tiếng Hy Lạp. Những người Do Thái chính thống ở lại Đất Thánh coi những người Cơ đốc giáo Do Thái là một vấn đề – ngang bằng với vấn đề người La Mã ở đó. Giữa người Do Thái chính thống và những người Cơ đốc giáo Do Thái mới xuất hiện nảy sinh xung đột. Phúc Âm của Matthew có khả năng đã được một người Cơ đốc giáo Do Thái không ai biết đến viết ra. Phúc Âm của Mark đã để lại nhiều câu hỏi không lời giải đáp, cho nên Matthew đã thay đổi câu chuyện cho phù hợp với giai đoạn biến động đó”.
“Giờ đây, người đưa tin thông báo về sự phục sinh đã trở thành một thiên thần. Vị thiên thần đó hiện ra trong một cơn động đất, với một khuôn mặt lóe sáng. Quân lính ngã như ngả rạ. Phiến đá được chuyển ra khỏi ngôi mộ, và một thiên thần cúi xuống đó nhìn. Các phụ nữ vẫn rất sợ hãi, nhưng điều đó nhanh chóng được thay thế bằng niềm vui. Trái ngược với những người phụ nữ trong sách của Mark, các phụ nữ ở đây chạy đi báo tin cho các tông đồ về chuyện vừa xảy ra và quả thật đã nhìn thấy Chúa sống lại. Ở đây, lần đầu tiên Chúa phục sinh đã thực sự được miêu tả. Và những người phụ nữ đã làm gì ?”
“Họ quỳ rạp xuống chân Người và cầu nguyện Người”, Mark nhẹ nhàng nói. “Sau này, Jesus xuất hiện trước các tông đồ của Người và tuyên bố rằng “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”. Người nói là lúc nào mình cũng ở bên cạnh họ”.
“Một sự thay đổi lớn biết bao”, Thorvaldsen nói. “Thiên sứ Do Thái tên là Jesus giờ đây đã trở thành Christ đối với thế giới. Trong sách của Matthew, mọi thứ đều hết sức sống động. Và kỳ diệu nữa. Rồi đến Luke, vào khoảng năm 90. Khi đó người Cơ đốc giáo Do Thái đã tách xa đạo Do Thái nhiều hơn, cho nên Luke đã sửa đổi đến tận gốc rễ câu chuyện về sự phục sinh để phù hợp với thay đổi đó. Lại có những người phụ nữ ở chỗ mộ, nhưng lần này họ thấy nó trống không và chạy đi báo cho các tông đồ. Peter quay trở lại và chỉ nhìn thấy đống vải liệm tung tóe. Rồi Luke kể lại câu chuyện chưa bao giờ xuất hiện ở đâu trong Kinh Thánh hết cả. Nó liên quan đến Jesus ăn mặc giả trang để đi lại, gặp một số tông đồ, ăn cùng với họ, rồi, khi bị nhận ra, thì biến mất. Ngoài ra còn có một cuộc gặp sau này với tất cả các tông đồ, nơi họ nghi ngờ về hiện hữu của Người, vì thế mà Người ăn cùng với họ, rồi biến mất. Và chỉ trong sách của Luke chúng ta mới tìm được câu chuyện về Jesus bay lên thiên đường. Điều gì đã xảy ra ? Giờ đây một trạng thái say mê đã được gắn cho vị Chúa sống lại”.
Mark cũng đã đọc các phân tích Kinh Thánh tương tự trong thư viện của Dòng Đền thờ. Biết được rằng các giáo hữu đã nghiên cứu Lời từ hàng trăm năm nay, ghi nhận các sai lầm, đánh giá các mâu thuẫn, và đặt giả thuyết về nhiều xung đột về tên, ngày tháng, địa danh, và sự kiện.
“Rồi đến John”, Thorvaldsen nói. “Cuốn Phúc Âm được viết vào thời điểm cách xa cuộc đời Jesus nhất, vào khoảng năm 100. Có quá nhiều thay đổi trong quyển Phúc Âm này, gần như thể là John nói về một Christ khác hẳn. Không còn có chuyện sinh ra ở Bethlehem nữa – bây giờ Chúa sinh ra ở Nazareth. Ba người kia nói đến kỳ trị vì ba năm. John nói là chỉ có một năm. Bữa ăn cuối cùng trong sách của John diễn ra vào ngày trước ngày Quá hải – cuộc hành hình vào ngày con cừu dùng để tế cho lần Quá hải đó bị giết chết. Khác hẳn với các Phúc Âm khác, John cũng chuyển thời điểm dọn đẹp Đền thờ từ ngày sau Chủ nhật của Lễ Chiến thắng sang khoảng thời gian trước kỳ trị vì của Christ.
“Trong sách của John, Mary Magdalene một mình đi đến mộ và thấy nó trống không. Bà không hề nghĩ đó là một cuộc phục sinh, mà tưởng rằng cái xác đã bị lấy cắp. Chỉ khi cùng Peter và các tông đồ khác quay trở lại bà mới nhìn thấy hai thiên thần. Rồi các thiên thần biến thành Chúa.
“Hãy nhìn vào chi tiết đó, về việc ai ở trong mộ, thay đổi như thế nào. Người thanh niên của Mark mặc đồ trắng trở thành thiên thần chói lòa trong Matthew, rồi Luke cho phát triển thành hai thiên thần, và với John thì hai thiên thần đó biến thành Chúa. Và liệu có phải là Chúa đã được nhìn thấy trong khu vườn vào ngày đầu tiên trong tuần, như người Cơ đốc giáo vẫn thường được học không ? Mark và Luke nói là không. Matthew nói là có. John nói là đầu tiên thì không, nhưng sau này Mary Magdalene đã nhìn thấy Người. Việc đã xảy ra hết sức rõ ràng. Theo thời gian, cuộc phục sinh ngày càng được miêu tả theo hướng kỳ dỉệu nhiều hơn để thích hợp với thế giới đang thay đổi”.
“Tôi cho rằng”, Stephanie nói, “ông không mấy tin vào nguyên tắc không thể sai lầm của Kinh Thánh”.
“Không có gì chân phương trong Kinh Thánh hết. Đó là một câu chuyện đầy rẫy những điều không nhất quán, và cách duy nhất để giải thích chúng là thông qua việc sử dụng lòng tin. Việc đó đã có hiệu quả một nghìn năm trước, thậm chỉ là năm trăm năm trước, nhưng giờ đây thì không thể chấp nhận được nữa. Đầu óc con người ngày nay bắt đầu đặt câu hỏi rồi. Chồng bà đã đặt câu hỏi”.
“Đó chính là điều mà Lars muốn làm ?”
“Một điều không thể”, Mark thì thầm.
Mẹ anh nhìn anh với cái nhìn thấu hiểu đến kỳ lạ. “Nhưng điều đó chưa bao giờ ngăn cản được ông ấy cả”. Giọng nói trầm và du dương, như thể bà vừa nhận ra một chân lý lâu nay vẫn bị giấu kín. “Nếu không phải là một cái gì đó khác, thì ông ấy là một người mơ mộng tuyệt diệu”.
“Nhưng những giấc mơ của ông ấy có cơ sở”, Mark nói. “Các Hiệp sĩ Đền thờ đã từng biết rằng Bố muốn biết. Ngay cả hiện nay họ vẫn đọc và nghiên cứu Kinh Thánh nhưng không còn bám sát vào Tân Ước nữa. Phúc Âm của Philip, Thư của Bamabas, Truyện của Peter, Thư Tông đồ, Sách của John, Phúc Âm của Mary, Didache (Các văn bản nùy thuộc vào hệ thông Phúc Âm Ngộ đạo (Gnoslic Gospels), những gì liên quan đến sự nghiệp của Jesus Christ và các tông đồ nhưng không được đưa vào Tân Ước. Trong số đó, Phúc Âm của Thomas đóng vai trò lớn hơn cả). Và Phúc Âm của Thomas, với họ có lẽ là cái thuật lại gần gũi nhất với những gì mà Jesus đã thực sự nói, vì không bị rơi vào cảnh phải trải qua nhiều lần dịch. Rất nhiều trong số các văn bản vẫn hay được gọi là dị giáo đó miêu tả rất chính xác. Và điều đó làm cho các Hiệp sĩ trở nên đặc biệt. Cội nguồn chính quyền lực của họ. Không phải là tài sản hay sức mạnh, mà là hiểu biết”.
***
Malone đứng dưới bóng những cây dương cao mọc rải rác trên mỏm đất. Một cơn gió lạnh thổi qua làm rung rinh những tia nắng, khiến anh nghĩ đến một buổi chiều trên bờ biển. Anh đang đợi Cassiopeia nói cho mình những gì mà không ai biết. “Tại sao cô lại để cho de Roquefort lấy được quyển nhật ký của Lars Nelle ?”
“Bởi vì nó không còn ích lợi gì nữa”. Một vẻ láu lỉnh xuất hiện ở khóe mắt cô.
“Tôi nghĩ rằng trong đó có các suy nghĩ riêng tư của Lars cơ mà. Những thông tin chưa bao giờ ông ấy cho xuất bản. Chìa khóa cho mọi thứ”.
“Một số trong đó đúng, nhưng nó không phải là chìa khóa cho mọi thứ đâu. Lars viết nó ra để đành riêng cho các Hiệp sĩ đấy”.
“Liệu Claridon có biết điều đó không ?”
“Nhiều khả năng là không. Lars là một người rất kín đáo. Ông ấy không nói cho ai mọi điều đâu. Đã có lần ông ấy nói rằng chỉ có kẻ nào mắc chứng hoang tưởng mới có thể nghĩ à mình biết được hết công việc của ông ấy thôi”.
“Làm thế nào mà cô biết được điều đó ?”
“Henrik thính lắm. Lars không bao giờ nói về các chi tiết, nhưng ông ấy nói với Henrik về các cuộc gặp của ông ấy với các Hiệp sĩ. Có lúc, ông ấy tin rằng mình đã nói chuyện với những giáo hữu của Dòng. Họ đã nói chuyện nhiều lần, nhưng cuối cùng thì de Roquefort nhảy vào cuộc. Và hắn thì hoàn toàn khác hẳn, sấn sổ hơn, ít lòng khoan dung hơn. Vì vậy Lars đã viết quyển nhật ký đó để khiến cho de Roquefort tập trung vào đấy – không khác gì những trò đánh lạc hướng của Sauniòre đâu”.
“Liệu vị trưởng giáo của Đền thờ có biết điều đó không ? Khi Mark được đưa đến tu viện, cậu ấy có cầm theo quyển nhật ký. Trưởng giáo đã giấu nó cho đến một tháng trước đây, rồi ông ấy gửi nó cho Stephanie”.
“Khó nói lắm. Nhưng nếu ông ấy gửi quyển nhật ký cho Stephanie, thì có thể là trưởng giáo đã tính trước rằng de Roquefort sẽ tiếp tục theo đuổi nó. Rõ ràng là ông ấy muốn Stephanie nhảy vào cuộc, cho nên còn cách nào tốt hơn là nhử bà ấy bằng một cái gì đó không thể cưỡng lại được ?”
“Thật là thông minh”, anh buộc phải công nhận, “Và trò đó đã thành công”.
“Chắc chắn là Trưởng giáo cảm thấy rằng Stephanie sẽ sử dụng các nguồn lực đáng kể của mình để giúp đỡ cho cuộc tìm kiếm, cô nói.
“Ông ấy không biết Stephanie. Quá bướng bỉnh. Trước liên bà ấy đã thử làm mọi việc một mình”.
“Nhưng anh đã có mặt ở đó để giúp đỡ”.
“Chỉ là chuyện tình cờ thôi”,
“Ồ, không đến nỗi tệ như thế đâu, Nếu không chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau cả.”
“Thì tôi đã nói là tôi gặp may mà.”
“Tôi sẽ coi đó là một lời khen. Bằng không thì các cảm xúc của tôi sẽ bị đau đớn”.
“Tôi không nghĩ là cô dễ bị tổn thương đến vậy đâu”.
“Ở Copenhagen anh đã xoay xở rất khá”, cô nói. “Và cả ở Roskilde nữa”.
“Cô cũng có mặt trong nhà thờ lớn à ?”
“Một lúc thôi, nhưng tôi đã đi khỏi khi nảy ra cuộc đọ súng. Khi đó tôi sẽ không thể giúp được, ngoài cách lộ mặt, nhưng Henrik muốn mọi chuyện bí mật”.
“Thế điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không đủ sức chặn đứng bọn người trong đó lại ?”
“Ôi, nào nào. Anh ư ?”. Cô làm anh mỉm cười. “Nói cho tôi một chút đi. Anh đã cảm thấy bị sốc thế nào khi tay giáo hữu nhảy từ Round Tower xuống ?”
“Việc đó có phải ngày nào cũng xảy ra đâu”.
“Anh ta đã hoàn thành lời thề. Bị vây dồn, anh ta đã chọn cái chết chứ không muốn lâm vào nguy cơ làm lộ bí mật của Dòng”.
“Tôi cho là cô đã ở đó vì tôi đã nói với Henrik rằng Stephanie sẽ đến thăm tôi”.
“Một phần thôi. Khi nghe tin Ersnt Scoville đột ngột chết, tôi đã biết được qua một ông già ở Rennes rằng ông ấy đã nói chuyện với Stephanie và rằng bà ấy sẽ sang Pháp. Tất cả đều là những người say mê với Rennes, cả ngày ngồi chơi cờ và mê mẩn với Saunière. Mỗi người trong số họ đều sống trong một giấc mơ đầy tính chất huyền bí. Scoville nói dối về việc muốn có quyển nhật ký của Lars. Ông ấy không quan tâm gì đến Stephanie, nhưng lại làm cho bà ấy nghĩ ngược lại. Rõ ràng là cả ông ấy cũng không hề hay biết về chuyện quyển nhật ký phần lớn là không có nghĩa gì. Cái chết của ông ấy khiến tôi cảm thấy nghi ngờ, nên tôi đã liên lạc với Henrik và biết được chuyến đi Copenhagen của bà ấy. Tôi đã quyết định sang Đan Mạch”.
“Còn Ayignon ?”
“Tôi có một nguồn tin riêng cắm trong trại điên. Không ai tin rằng Claridon bị điên cả. Dối trá, không dáng tin, cơ hội thì đúng. Nhưng có bệnh tật gì đâu. Vì vậy tôi đã theo dõi cho đến khi anh đến tìm Claridon. Honrik và tôi biết rằng có một cái gì đó trong kho lưu trữ của cung điện giáo hoàng, chỉ không biết là cái gì thôi. Như Honrik đã nói vừa nãy, Mark chưa bao giờ gặp Henrik. Mark khó tiếp cận hơn nhiều so với bố anh ấy. Anh ấy chỉ thỉnh thoảng mới tìm kiếm thôi. Thỉnh thoảng thôi, có lẽ là để giữ ký ức về bố mình. Tất cả những gì tìm được, anh ấy đều giữ riêng cho mình. Anh ấy và Claridon có một thời liên hệ với nhau, nhưng không mấy mặn mà. Vậy nên, khi Mark biến mất trong vụ lở tuyết và Claridon rút vào trại điên, Henrik và tôi đã từ bỏ mọi chuyện”.
“Cho đến bây giờ”.
“Cuộc tìm kiếm lại tiếp tục, và lần này rất có thể là sẽ biết được là sẽ phải đi đâu”.
Anh đợi cô giải thích.
“Chúng ta đã có quyển sách vẽ hình bia mộ và chúng ta cũng đã có bức tranh Đọc các Quy định của Lòng nhân từ. Cùng nhau, chúng ta hoàn toàn có thể tìm ra cái mà Saunière đã tìm thấy, vì chúng ta là những người đầu tiên có được nhiều mảnh ghép đến thế”
“Và chúng ta sẽ làm gì nếu không tìm được gì hết ?”
“Với tư cách là một người Hồi giáo à ? Tôi muốn nói với thế giới. Còn với tư cách một người thực tế ? Tôi không biết. Sự kiêu ngạo từng có trong lịch sử của Cơ đốc giáo thật là phát buồn nôn. Với nó, mọi tôn giáo khác đều là một sự bắt chước. Thực sự là quá mức hài hước. Toàn bộ lịch sử phương Tây được định khuôn theo những quy tắc chật hẹp của nó. Nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc, văn chương – thậm chí chính bản thân xã hội cũng trở thành những người phục vụ cho đạo Cơ đốc. Cái phong trào giản đơn đó cuối cùng đã tạo nên cái khuôn cho toàn bộ nền văn minh phương Tây, và tất cả mọi thứ rất có thể đều được dựa trên một lời nói dối. Liệu anh có muốn biết điều đó không ?”
“Tôi không theo đạo”.
Đôi môi mỏng của cô tạo thành một nụ cười mới. “Nhưng anh là một người kỳ lạ. Henrik nói về lòng can đảm và trí tuệ của anh với những lời lẽ hết sức kính trọng. Một người mê sách, với mội trí nhớ tuyệt vời. Biết bao nhiếu là phẩm chất”
“Và tôi còn biết nấu ăn nữa cơ”.
Cô cười. “Anh đừng có lừa tôi. Tìm ra Bí mật Lớn với anh cũng có ý nghĩa nào đó”.
“Thì cứ nói rằng đó là một cuộc tìm kiếm lạ lùng hơn nữa, “Đúng đấy. Giờ thì cứ nghĩ vậy cái đã. Nhưng nếu chúng ta thành công, tôi sẽ nhìn xem anh phản ứng thế nào”.
“Cô tự tin rằng có gì đó để tìm ra thế cơ à ?”
Cô đưa tay chỉ về phía dãy núi Pyrénées xa xa. “Nó nằm ở đó, không còn nghi ngờ gì nữa. Saunière đã tìm ra. Chúng ta cùng sẽ có thể tìm ra”.
***
Stephanie cân nhắc những gì Thorvaldsen vừa nói về kinh Tân Ước, và nói rõ, “Kinh Thánh không phải là một tác phẩm có thể hiểu được một cách chân phương”.
Thorvaldsen lắc đầu. “Lòng tin của rất nhiều người Công giáo bắt nguồn từ chính chỗ đó. Với họ, Kinh Thánh là Lời Chúa”.
Bà nhìn Mark. “Bố con có tin rằng Kinh Thánh không phải là Lời Chúa không ?”
“Con và bố đã tranh cãi nhiều lần về vấn đề đó. Hồi đầu con rất tin, và đã cãi lại ông ấy. Nhưng dần dần con nghĩ giống như ông ấy. Đó là một cuốn sách kể chuyện. Những câu chuyện vinh quang, được viết ra để chỉ cho người ta con đường đi đến một cuộc sống tốt đẹp. Trong những câu chuyện đó thậm chí còn có sự vĩ đại – vì nó mang lại đạo đức. Con không nghĩ đó nhất thiết phải là Lời Chúa. Đã đến lúc không thể coi đó là một chân lý vĩnh hằng được nữa”.
“Nâng Christ lên hàng thánh thần chỉ đơn giản là một cách nâng tầm quan trọng của thông điệp lên thôi”, Thorvaldsen nói. “Sau khi tôn giáo có tổ chức thống trị khắp nơi vào thế kỷ ba và bốn, người ta đã thêm thắt rất nhiều vào câu chuyện khiến cho người ta không tài nào biết được cội rễ của nó nữa. Lars muốn thay đổi tất cả những cái đó. Ông ấy muốn tìm ra cái mà các Hiệp sĩ Đền thờ từng sở hữu là cái gì. Khi lần đầu tiên biết đến Rennes- le-Château cách đây đã nhiều năm, ngay lập tức ông ấy đã nghĩ rằng Saunière đã tìm ra Bí mật Lớn của Dòng Đền thờ. Vì thế ông ấy bỏ cả đời để tìm cách giải câu đố của Rennes”.
Stephanie vẫn chưa cảm thấy bị thuyết phục. “Điều gì khiến ông nghĩ rằng các Hiệp sĩ đã tẩu thoát được cái gì đó ? Không phải là họ đã bị bắt rất nhanh chóng à ? Lấy đâu ra thời gian để giấu kịp cái gì đó ?”
“Họ đã được chuẩn bị”, Mark nói. “Biên niên sử rất rõ ràng về chuyện đó. Việc Philip IV làm không phải là không có tiền lệ. Một trăm năm trước cũng đã từng có chuyện với Frederik Hosck II, vua Đức và Sicily. Năm 1228, ông ta đến Đất Thánh với tư cách là một người bị rút phép thông công, nghĩa là không được quyền chỉ huy một cuộc thập tự chinh. Các Hiệp sĩ Đền thờ và Hiệp sĩ Bệnh viện vẫn trung thành với Giáo hoàng và từ chối theo ông ta. Chỉ có các hiệp sĩ Teutonic dòng Germain chiến đấu cho ông ta. Cuối cùng, ông ta đã thỏa thuận được một hiệp ước hòa bình với người Saracen, dẫn đến việc chia cắt Jerusalem. Núi Đền, nơi các Hiệp sĩ từng có lúc đóng đại bản doanh, theo thỏa thuận đó sẽ thuộc về tay người Hồi giáo. Cho nên mẹ có thể tưởng tượng được rằng các Hiệp sĩ nghĩ gì về ông ta. Ông ta phi luân giống như Nero và bị tất cả căm ghét. Thậm chí ông ta còn bắt cóc cả trưởng giáo của Dòng. Cuối cùng ông ta rời khỏi Đất Thánh vào năm 1229, và trong khi đi vào cảng ở Acre, người dân địa phương đã ném cứt lên người ông ta. Ông ta ghét các Hiệp sĩ Đền thờ vì không chịu theo mình, và khi quay lại Siclly, ông ta lấy hết đất đai của Đền thờ và bắt bớ người. Tất cả những cái đó đều được ghi lại trong Biên niên sử.”
“Như vậy là Dòng đã sẵn sàng chờ đợi à ?”, Thorvaldsen hỏi “Trước hết, Dòng đã từng chứng kiến một nhà cai trị thù địch có thể gây ra những gì. Philip IV cũng tương tự thôi. Khi còn trẻ ông ta xin gia nhập Dòng Đền thờ và bị từ chối, cho nên cả đời ông ta nuôi một sự căm ghét to lớn đối với Dòng. Khi ông ta lên ngôi, các Hiệp sĩ đã cứu sống Philip khi ông ta tìm cách phá giá tiền và người dân nổi dậy phản đối. Ông ta đã chạy đến Đền thờ Paris để trốn. Và các vị quân vương không bao giờ muốn nợ nần ai điều gì. Cho nên, đúng vậy, tháng Mười năm 1307, Dòng đã được chuẩn bị sẵn sàng. Thật không may là không có gì được ghi lại nói cho chúng ta biết người ta đã làm những gì”. Cái nhìn của Mark chiếu thẳng vào Stephanie. “Bố đã bỏ cả đời để tìm cách giải thích bí ẩn đó”.
Mặc dù đang trả lời cho ông già người Đan Mạch, Mark vẫn nhìn chăm chú vào bà. “Đó là một trong rất ít điều thực sự làm ông ấy cảm thấy vui. Ông ấy muốn làm cho cả vợ ông ấy và chính ông ấy vui, nhưng thật không may là ông ấy không làm được cả hai việc. Vì vậy ông ấy đã chọn cách đi khỏi. Quyết định rời bỏ tất cả chúng ta”.
“Mẹ đã không bao giờ muốn tin là ông ấy đã tự sát”, Stephanie nói với con trai.
“Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ biết được, phải không nào ?”
“Có thể là có đấy”, Geoffrey nói. Và lần đầu tiên chàng thanh niên ngẩng đầu lên khỏi cái bàn. “Trưởng giáo nói rằng bà có thể biết được sự thật về cái chết của ông ấy”.
“Cậu biết gì ?”, bà hỏi.
“Tôi chỉ biết những gì mà Trưởng giáo nói với tôi thôi”.
“Ông ấy đã nói gì về bố ta ?”. Sự giận dữ bóp méo khuôn mặt Mark. Stephanie không thể nhớ đã từng nhìn thấy anh tỏ thái độ khủng khiếp như thế với ai ngoài bà chưa.
“Hai người phải tự tìm hiểu thôi. Tôi không biết”. Giọng nói thật kỳ lạ, trống rỗng, và đầy vẻ hòa giải. “Trưởng giáo nói tôi phải biết khoan dung đối với cảm xúc của cha. Ông ấy nói rõ rằng cha là bậc bề trên của con, và con phải nhất mực kính trọng cha”.
“Nhưng có vẻ như là chỉ có một mình cậu biết các câu trả lời”, Stephanie nói.
“Không, thưa bà. Tôi chỉ biết những chỗ chỉ điểm thôi. Các câu trả lời, trưởng giáo đã nói rồi, đều xuất phát từ chỗ hai người”.