DE ROQUEFORT DỪNG LẠI ở Lối VÀO KHU Đổ NÁT VÀ RA hiệu cho người của mình vây lấy hai bên. Nơi này có vẻ im ắng một cách khó chịu. Không có chuyển động nào. Không có giọng nói nào. Không gì hết. Giáo hữu Geoffrey đứng bên cạnh gã. Gã vẫn lo mình sẽ bị rơi vào bẫy. Chính vì vậy gã đã mang theo những người có mang súng. Gã rất hài lòng với sự lựa chọn của hội đồng các hiệp sĩ — những người này là những người giỏi nhất, những tay lính chiến đầy kinh nghiệm, có sự can đảm hiếm có và rất khỏe – những gì mà gã đang rất cần.
Gã đi vòng qua một đống gạch vụn đầy địa y mọc ở trên, đi vào sâu hơn trong khu vực để nát, qua những đám cỏ mọc. Vòm trời sáng phía trên đầu gã đang mờ dần đi khi mặt trời bắt đầu xuống sau các dãy núi. Bóng tối sắp ập xuống. Và gã thấy lo lắng về thời tiết. Vào mùa hè, ở vùng Pyrénées này, những cơn bão và mưa có thể đổ xuống bất kỳ lúc nào.
Gã ra hiệu và người của gã tiến lên phía trước, chạy vượt qua những tảng đá mòn và dãy tường đổ. Gã đưa mắt dò xét một khu trại giữa ba mảnh tường. Đã có gỗ được xếp lại để chuẩn bị cho một đống lửa.
“Tôi sẽ vào trong”, Geoffrey thì thầm. “Họ đang đợi tôi”.
Gã hiểu việc đó là khôn ngoan và gật đầu.
Geoffrey bình tĩnh bước vào trong và tiến lại gần cái trại, vẫn không có ai ở xung quanh. Rồi tay thanh niên biến mất vào đống đổ nát. Một lúc sau anh ta hiện ra và ra hiệu cho họ đi vào.
De Roquefort bảo người của mình đứng chờ và đi một mình vào. Gã đã ra lệnh cho tay phó của mình phải tấn công nếu thấy cần thiết.
“Trong nhà thờ chỉ có Thorvaldsen thôi”, Geoffrey nói.
“Nhà thờ nào ?”
“Các thầy tu đã khoét vào vách đá để làm một nhà thờ. Họ đã phát hiện được một cánh cửa dưới ban thờ dẫn xuống hầm. Những người khác đang ở dưới đó để tìm kiếm. Tôi nói với Thorvaldsen là tôi phải trở ra để lấy đồ”.
Gã thích thú lắng nghe.
“Ta muốn gặp Henrik Thorvaldsen”.
Súng trên tay, gã đi theo Geoffrey vào nhà thờ khoét trong đá. Thorvaldsen đang đứng quay lưng ra ngoài, chăm chú nhìn xuống chỗ đã từng là bệ đỡ của ban thờ.”
“Ông già quay đầu lại khi họ tiến lại gần.
De Roquefort giơ khẩu súng lên. “Không được nói gì. Nếu không đó sẽ lời cuối cùng của ông”.
Đất dưới chân Stephanie sụt xuống và chân bà rơi xuống một trong những cái bẫy mà họ đã hết sức cố gắng để tránh. Bà đã nghĩ gì thế này ? Nhìn thấy dòng chữ khắc trên đá và rồi cánh cửa kim loại đang đợi để được mở, bà đã nhận ra rằng chồng mình đúng. Vì vậy bà đã quên thận trọng và chạy về phía trước. Mark đã cố gắng ngăn bà lại. Bà nghe thấy tiếng hét của anh, nhưng đã quá muộn.
Bà đã bắt đầu rơi xuống.
Hai tay bà với lên phía trên tìm cách lấy thăng bằng và bà đã sẵn sàng để những cây chông đâm vào người. Nhưng rồi bà cảm thấy một cánh tay ôm chặt lấy ngực bà. Rồi bà ngã bật ngược trở ra, rơi xuống đất, và nhận ra mình đang nằm trên một người.
Một giây sau, vẫn im ắng.
Mark đang nằm dưới bà.
“Con ổn chứ ?”, bà lăn người về phía anh hỏi.
Con trai bà đứng lên trên nền đất rải sỏi. “Mấy hòn đá đó rơi xuống lưng con dữ dội quá”.
Những tiếng bước chân nặng nề vang lên trong bóng tối sau lưng họ, cùng với hai ánh đèn rọi tới. Malone và Cassiopeia xuất hiện.
“Có chuyện gì thế ?”, Malone hỏi.
“Tôi đã không thận trọng”, bà nói, đứng dậy, phủi bụi trên người.
Malone chiếu đèn xuống cái hố hình vuông. “Suýt nữa thì có một cú ngã đẫm máu. Đầy chông nhọn hoắt ở dưới kìa”.
Bà lại gần, nhìn chằm chằm xuống phía dưới, rồi quay đầu lại về phía Mark, “Cảm ơn, con trai”.
Mark đang lấy tay xoa cổ. “Không có gì”.
“Malone”, Cassiopeia nói. “Nhìn này”.
Stephanie thấy Malone và Cassiopeia xem xét câu châm ngôn của Đền thờ mà bà và Mark đã tìm ra. “Tôi đang đi đến chỗ cánh cửa kia thì vấp phải cái hố.
“Hai cái liền”, Malone thì thầm, “ở hai đoạn cuối của cái hành lang này”.
“Có một cái phên khác nữa à ?” Mark hỏi.
“Với một dòng chữ khác”.
Bà nghe Malone kể lại họ đã tìm được gì.
“Tôi đồng ý với hai người”, Mark nói. “Bộ xương đó hẳn là của vị tướng quân mất tích ngày xưa của chúng tôi.” Anh kéo từ dưới áo ra một sợi dây chuyền. “Tất cả chúng tôi đều mang nó. Chúng tôi được nhận trong lễ nhập đạo”.
“Có vẻ như là”, Malone nói, “các Hiệp sĩ Đền thờ đã rào kín của cải của mình lại và chia làm hai bên”. Anh chỉ vào cái bẫy trên sàn. “Và họ tạo ra những thử thách mà người ta phải trải qua để tìm được chúng. Lẽ ra viên tướng quân nên cẩn thận hơn”. Malone nhìn Stephanie. “Cũng như chúng ta”.
“Tôi hiểu”, bà nói. “Nhưng, như anh vẫn thường nói với tôi, tôi không phải là một nhân viên hoạt động bên ngoài”.
Anh mỉm cười trước câu nói mỉa mai của bà. “Vậy thì chúng ta sẽ tìm hiểu xem đằng sau tấm phên kia có gì”.
De Roquefort chĩa cái nòng súng ngắn ngủn của mình vào giữa hai hàng lông mày rậm của Henrik Thorvaldsen. “Tôi được biết ông là một trong những người giàu nhất Châu Âu”.
“Còn tôi được biết ông là một trong những chức sắc tôn giáo nhiều tham vọng nhất giai đoạn hiện nay”.
“Lẽ ra ông không nên nghe lời Mark Nelle”.
“Tôi có nghe đâu. Bố cậu ấy nói với tôi đấy chứ.”
“Bố hắn ta không biết tôi”.
“Ông không thể nói vậy được. Ông đã đi theo ông ấy khắp nơi còn gì”.
“Hóa ra là chỉ mất thời gian”.
“Điều đó không làm cho việc giết ông ấy trở nên dễ dàng hơn à ?”
“Ông nghĩ vậy đấy à ? Rằng tôi đã giết Lars Nelle ?”
“Ông ấy và Ersnt Scoville”.
“Ông chẳng biết gì cả, ông già ạ”.
“Tôi biết rằng cậu là một vấn đề”, Thorvaldsen chỉ Geofftey. “Tôi biết cậu ta là một kẻ phản bội người bạn của cậu ta. Và phản bội lại Dòng”.
De Roquefort nhìn cảnh Geoffrey lĩnh đủ lời nhục mạ, vẻ cao ngạo hiện lên trong đôi mắt màu ghi nhạt của tay thanh niên, rồi nhanh chóng biến mất.
“Tôi trung thành với Trưởng giáo của tôi. Đó là lời thề mà tôi đã thưc hiên”.
“Như vậy là cậu đã phản bội chúng tôi vì lời thề đó ?”
“Tôi không nghĩ là ông có thể hiểu được”.
“Tôi không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu”.
De Roquefort hạ súng xuống, rồi lấy tay ra hiệu cho người của mình. Họ ùa vào nhà thờ và im lặng di chuyển. Vài cái ra hiệu bằng tay và ngay lập tức họ hiểu rằng sáu người cần phải ở lại bên ngoài, còn sáu người vây lấy xung quanh.
Malone bước vòng qua cái bẫy mà Stephanie suýt rơi vào và tiến lại gần cái rào kim loại. Những người khác đi theo anh. Anh nhận ra một ổ khóa hình trái tim treo ở một sợi dây xích. “Đồng thau”. Anh vuốt ve cánh cửa. “Nhưng cửa thì làm bằng đồng”.
“Ổ khóa và dây xích chắc là có từ thời Saunière”, Mark nói. “Đồng thau là một thứ hàng hiếm vào thời Trung cổ. Cần phải có kẽm mới làm được nó và kẽm thì khó tìm”.
“Kiểu ổ khóa này”, Cassiopeia nói, “đã từng rất phổ biến trong vùng, dùng làm những sợi dây xích trói những người nô lệ”.
Không ai tiến lại gần cánh cửa và Malone biết là tại sao. Có thể vẫn còn có một cái bẫy nữa đợi sẵn ở trước đó.
Anh lấy bàn chân đi ủng thò ra phía trước thăm dò mặt đất. Vững. Anh lấy đèn của mình xem xét phía bên ngoài của cánh cửa. Hai bản lề bằng đồng chịu lực ở mép bên phải. Anh chiếu đèn qua cái rào. Hành lang phía bên kia rẽ ngoặt sang tay phải cách đó vài feet và từ đây không thể nhìn thấy gì xa hơn được nữa. Thật tuyệt. Anh ước lượng sợi dây xích và ổ khóa. “Thứ đồng thau này vẫn còn tốt lắm. Chúng ta sẽ không giật xa được đâu”.”
“Cắt có được không ?”, Cassiopeia hỏi.
“Chắc là được. Nhưng dùng cái gì để cắt ?”
“Tôi có mang theo kéo cắt sắt. Nó nằm trong túi đặt cạnh máy phát điện”.’
“Tôi sẽ đi lấy”, Mark nói.
“Có ai ở đó không ?”
Tiếng gọi vọng từ cái hố bên dưới bệ đỡ ban thờ làm de Roquefort giật mình. Rồi gã nhanh chóng nhận ra đó là giọng của Mark Nelle. Thorvaldsen định trả lời, nhưng de Roquefort đã tóm chặt lấy ông và lấy tay bịt miệng ông lại trước khi ông kịp lên tiếng. Rồi gã ra hiệu cho một tay giáo hữu, bảo tay này tiến lại gần để giữ ông già người Đan Mạch đang vùng vẫy, và một bàn tay khác bịt chặt lấy miệng ông. Gã chỉ tay và người tù binh bị lôi đến một góc xa của nhà thờ.
“Trả lời hắn đi”, gã thì thầm nói với Geoffrey.
Đây sẽ là cơ hội tuyệt vời để đánh giá mức độ trung thành của tay đồng minh mới.
Geoffrey nhét khẩu súng xuống dưới thắt lưng và bước đến gần ban thờ. “Con ở đây”.
“Con quay lại rồi đấy à ? Tốt. Có vấn đề gì không ?”
“Không. Mang được tất cả mọi thứ trong danh sách rồi đấy. Dưới đó có chuyện gì ?”
“Đã tìm được một cái gì đó, nhưng cần phải có kéo cắt sắt. Nó nằm trong cái túi để cạnh máy phát điện ấy”.
Gã nhìn theo Geoffrey đang đi về phía máy phát điện và lấy ra một cái kéo to.
Bọn họ đã tìm được gì ?
Geoffrey đưa cái kéo xuống.
“Cảm ơn”, Mark Nelle nói. “Con xuống không ?”
“Con sẽ ở lại đây cùng Thorvaldsen trông coi mọi thứ trên này. Chúng ta không cần đến những vị khách không mời”.
“Đúng đấy. Henrik đâu ?”
“Đang mở đống đồ con mang về và sửa soạn trại cho đêm nay.
Mặt trời sắp lặn rồi. Con ra giúp ông ấy đây”.
“Con chuẩn bị sẵn sàng máy phát điện và dây điện cho mấy cái đèn nhé. Có thể là dưới này sắp cần đến chúng rồi đấy”.
“Con sẽ lo việc đó”.
Geoffrey đứng lại một chút rồi bước đi khỏi ban thờ và thì thầm, “Ông ấy đi rồi”.
De Roquefort đã biết phải làm gì. “Đã đến lúc giành lấy quyền chỉ huy chuyến thám hiểm này rồi”.
Malone dùng cái kéo để cắt sợi dây xích. Sau khi nắm chặt lấy hai cái cán, bóp mạnh và day nhiều lần, sợi dây đã rời ra và rơi xuống đất.
Cassiopeia cúi xuống nhặt nó lên. “Các bảo tàng ở khắp nơi trên thế giới sẽ rất muốn có nó đây. Tôi chắc chắn rằng không có nhiều dây xích tồn tại được lâu đến thế trong những điều kiện này đâu”.
“Thế mà chúng ta lại cắt nó ra mất”, Stephanie nói.
“Không có nhiều lựa chọn đâu”, Malone nói. “Chúng ta đang rất vội”. Anh chiếu đèn qua bên kia cái rào. “Mọi người đứng tránh sang một bên đi. Tôi sẽ mở cánh cửa này thật chậm. Trông không có gì, nhưng không thể biết trước được đâu”.
Anh gài cái kéo vào cái rào, rồi bước tránh sang một bên, nấp người sau một bức tường đá. Mấy cái bản lề đã gỉ và anh phải kéo đi kéo lại nhiều lần mới mở được cửa ra.
Anh đang chuẩn bị bước vào bên trong thì một giọng nói vọng xuống từ phía trên.
“Ông Malone, tôi đang giữ Henrik Thorvaldsen đây. Tôi cần ông và những người đi cùng ông lên đây. Ngay lập tức. Tôi cho các ông mười phút, quá thời gian đó tôi sẽ bắn chết lão già này”.