Chương 62

Chương 62

MALONE LÀ NGƯỜI CUỐI CÙNG TRÈO LÊN. KHI BƯỚC LÊN khỏi cầu thang, anh nhìn thấy trong nhà thờ đã có sáu gã đàn ông cầm súng trấn giữ, cộng thêm với de Roquefort. Bên ngoài, mặt trời đã lặn. Bên trong giờ đây được chiếu sáng bởi hai đống lửa nhỏ, khói bay vào màn đêm qua các cửa sổ.

“Ông Malone, cuối cùng chúng ta cũng tận mắt gặp được nhau”, Raymond de Roquefort nói. “Ông đã hết sức tự chủ trong nhà thờ lớn ở Roskilde”.

“Rất mừng vì có ông là một fan hâm mộ”.

“Làm thế nào mà ông tìm được chúng tôi ?”, Mark hỏi.

“Chắc chắn là không phải nhờ vào quyển nhật ký lừa đảo của bố ông rồi, dù cho ông ta có khôn ngoan đến đâu đi chăng nữa. Ông ta toàn nói những chuyện hiển nhiên và thay đổi các chi tiết đến mức biến tất cả trở thành không có giá trị gì cả. Khi ông Claridon giải được bức mật mã trong đó, dĩ nhiên bức thông điệp không dẫn đến đâu cả. Ông ta đã nói với chúng tôi là ông ta che giấu bí mật của Chúa. Nói cho tôi nghe xem nào, bởi vì các vị đã ở dưới đó, ông ta có che giấu các bí mật đó hay không ?”

“Đã có cơ hội để tìm ra đâu”, Malone nói.

“Vậy thì chúng ta phải sửa chữa điều đó. Nhưng để trả lời câu hỏi của ông…”

“Geoffrey đã phản bội chúng ta”, Thorvaldsen nói.

Sự kinh ngạc hiện rõ trên khuôn mặt của Mark. “Tại sao ?”

Malone đã nhìn thấy khẩu súng trên tay Geoffrey. “Điều đó có đúng không ?”

“Tôi là một giáo hữu của Dòng, trung thành với trưởng giáo của tôi. Tôi thực thi nghĩa vụ của tôi”.

“Nghĩa vụ của ngươi ?”, Mark kêu lên. “Đồ dối trá không đáng một xu”. Mark lao vào Geoffrey, nhưng hai giáo hữu đã chặn đường anh lại. Geoffrey vẫn đứng yên. “Ngươi dẫn ta đi qua tất cả những chuyện đó chỉ để de Roquefort có thể chiến thắng thôi sao ? Đó là điều Trưởng giáo của chúng ta đã nói với ngươi à ? Ông ấy đã tin ngươi. Ta đã tin ngươi”.

“Tôi đã biết cậu là một vấn đề rồi mà”, Cassiopeia lên tiếng. “Mọi thứ ở cậu đều cho thấy sự bất tín”.

“Và cô nên nhớ”, de Roquefort nói, “rằng cô đã chơi xấu tôi thế nào. Để lại quyển nhật ký của Lars Nelle cho tôi tìm thấy ở Ayignon. Cô nghĩ rằng điều đó sẽ làm tôi mất phương hướng trong một lúc. Nhưng cô cũng thấy đấy, thưa quý cô, lòng trung thành của các giáo hữu đã chiến thắng. Cho nên các nỗ lực của cô có mang lại kết quả nào đâu”. De Roquefort nhìn thẳng vào Malone. “Ở đây tôi có sáu người, thêm sáu người bên ngoài nữa và họ biết cách phải cư xử như thế nào. Các vị không có vũ khí, giáo hữu Geoffrey đã nói lại với tôi như vậy. Nhưng cũng vẫn phải đề phòng”. Gã ra hiệu và một tay giáo hữu bước đến lục soát người Malone, rồi chuyển sang những người khác.

“Ngươi đã làm gì ? Gọi điện đến tu viện khi đi mua đồ à ?”, Mark hỏi Geoffrey. “Ta đã tự hỏi không biết tại sao ngươi lại tình nguyện đi. Trong suốt hai ngày ngươi có rời khỏi ta đâu”.

Geoffrey vẫn đứng yên, mặt rắn đanh lại vẻ tin tưởng.

“Ngươi thật là một kẻ xấu xa”, Mark hét lên.

“Tôi đồng ý”, de Roquefort nói, và Malone nhìn thấy khẩu súng của de Roquefort giơ lên và gã bắn ba phát vào ngực Geoffrey. Mấy viên đạn đẩy tay thanh niên ngã ngửa ra sau, và de Roquefort hoàn thành vụ giết người của mình bằng một phát đạn vào đầu

anh ta.

Xác Geoffrey đổ xuống sàn. Máu túa ra từ các vết thương. Anh không thể làm được gì nữa.

Mark lao vào de Roquefort.

Nòng súng chĩa vào ngực Mark.

Anh dừng lại.

“Hắn đã tấn công tôi ở tu viện”, de Roquefort nói. “Tấn công trưởng giáo phải chịu án tử hình”.

“Sau năm trăm năm mọi việc khác rồi”, Mark kêu lên.

“Hắn là một kẻ phản bội. Cả với các vị và cả với tôi. Cả hai bên chúng ta đều không cần hắn nữa. Làm nghề gián điệp thì phải chịu vậy thôi. Chắc chắn là hắn biết phải chịu những rủi ro như thế nào”.

“Ông có biết những rủi ro của ông không ?”

“Một câu hỏi kỳ cục, của một người đã giết chết một giáo hữu của Dòng này. Hành động đó cũng bị trừng trị bằng án tử hình đấy”.

Malone nhận ra cảnh diễn này là để dành cho những người khác đang có mặt. De Roquefort đang cần kẻ thù của mình, ít nhất là vào lúc này.

“Tôi đã làm những gì cần phải làm”, Mark nói.

De Roquefort mở lại kim hỏa khẩu tự động của mình. “Tôi cũng sẽ làm như vậy”. Stephanie bước đến giữa hai người, lấy thân mình che lấy Mark. “Và ông cũng giết tôi luôn chứ ?”

“Nếu cần”.

“Nhưng tôi là một người Cơ đốc giáo và tôi chưa hề làm hại giáo hữu nào của ông”.

“Đó chỉ là ngôn từ thôi, thưa bà. Chỉ là ngôn từ thôi”.

Bà với tay tháo sợi dây chuyền đeo một cái khánh từ trên cổ xuống. “Đức Mẹ Đồng Trinh. Đi đâu tôi cũng đeo theo sợi dây chuyền này”.

Malone biết de Roquefort sẽ không thể bắn bà. Bà cũng đã cảm thấy tính chất sân khấu của cảnh tượng mà gã đang tạo ra trước người của mình. De Roquefort không thể tiếp tục tỏ ra là một kẻ giả dối được. Gã bị ấn tượng. Một khẩu súng nạp sẵn đạn chĩa vào người khác. Không tệ với một tay hề.

De Roquefort hạ súng xuống.

Malone chạy đến bên cái xác đầy máu me của Geoffrey. Một gã đàn ông chìa tay ra để ngăn anh lại. “Tôi sẽ bỏ tay ra nếu là anh”, anh nói.

“Để hắn đi”, de Roquefort nói.

Anh lại gần cái xác. Henrik đang đứng lặng nhìn xuống đó. Một cái nhìn đau đớn lộ rõ trên khuôn mặt ông già Đan Mạch, và anh nhìn thấy một điều gì đó mà anh đã không nhìn thấy khi gặp ông.

Nước mắt.”

“Ông và tôi sẽ đi xuống dưới”, de Roquefort nói với Mark, “và ông sẽ chỉ cho tôi thấy các vị đã tìm thấy gì. Những người khác sẽ ở lại đây”.

“Cuốn xéo đi”.

De Roquefort nhún vai và lại giơ khẩu súng lên, chĩa vào người Thorvaldsen. “Ông ta là một người Do Thái. Giới luật cho phép”.

“Đừng cưỡng lại”, Malone nói với Mark. “Làm như ông ta bảo đi”. Anh hy vọng Mark hiểu rằng có lúc phải cứng nhưng cũng có lúc phải mềm.

“Được rồi. Chúng ta sẽ xuống đó”, Mark nói.

“Tôi muốn đi”. Malone nói.

“Không”, de Roquefort nói. “Đây là một vấn đề của Dòng. Mặc dù chưa bao giờ tôi coi Nelle thuộc về chúng tôi, nhưng ông ta đã tuyên thệ, và điều đó cũng có một ý nghĩa nào đó. Ngoài ra, kinh nghiệm của ông ta sẽ có ích. Còn ông thì rất có thể sẽ trở thành một vấn đề”.

“Làm thế nào mà ông biết Mark sẽ ngoan ngoãn làm theo những gì ông muốn ?”

“Ông ta sẽ làm vậy. Nếu không, dù có là người Cơ đốc giáo hay không, tất cả các vị sẽ chết trước khi ông ta lên được từ cái hố đó”.

Mark bước xuống cầu thang, theo sau là de Roquefort. Anh chỉ tay sang trái và nói với de Roquefort về căn phòng mà họ đã tìm thấy.

De Roquefort nhét súng vào một cái bao đeo ở vai và chĩa đèn về phía trước. “Ông dẫn đường đi. Và ông cũng biết điều gì sẽ xảy ra với ông nếu có bất kỳ vấn đề gì”.

Mark bắt đầu bước đi, đèn của anh cùng chiếu với đèn của de Roquefort. Họ đi vào quanh cái hố đã sụt, mới lúc trước suýt lấy mạng của Stephanie.

“Thật là tinh quái”, de Roquefort nói khi cúi xuống nhìn cái hố.

Họ tìm thấy cái cửa đã mở.

Mark nhớ đến lời cảnh báo của Malone về chuyện có thể có thêm những cái bẫy nữa nên chỉ đi từng bước rất ngắn. Lối đi dần hẹp lại, cho đến khoảng một yard chiều rộng, rồi rẽ ngoặt sang phải. Chỉ sau đó vài feet, một lối rẽ khác sang bên trải. Anh tiến lên từng bước ngắn một.

Anh rẽ lần cuối cùng và dừng lại.

Anh chiếu đèn và nhìn thấy trước mặt mình một căn phòng, khoảng mười yard vuông với một cái trần hình tròn. Lời nói của Cassiopeia, cho rằng vòm trần ngầm dưới đất có thể có nguồn gốc La Mã, có vẻ là đúng. Căn phòng rộng này là một kho đựng đồ hoàn hảo, và khi ánh đèn của anh xua bóng tối đi, một loạt những vật báu hiện ra trước mắt.

Trước tiên anh nhìn thấy những bức tượng. Những mảnh nhỏ nhiều màu. Nhiều cái là tượng Đức Mẹ và Chúa Hài đồng. Tượng vàng miêu tả cảnh gỡ Chúa từ thập giá xuống. Các thiên thần. Tượng người. Tất cả được xếp thành nhiều hàng ngang, trông giống như những người lính xếp thành hàng ngũ. Rồi ánh phản chiếu của vàng từ những cái hòm vuông. Một số nằm lẫn với ngà voi, một số khác cùng với mã não, một ít với đồng và được trang trí bằng các hình ảnh tôn giáo. Cái nào trông cũng vô cùng quý giá. Chúng là những hộp nhỏ đựng thánh tích, có thể là được sắp xếp vội vã, để vào tất cả những gì có thể tìm được trước khi chuyển đi.

Anh nghe tiếng de Roquefort bỏ cái túi mà gã mang theo xuống, và đột nhiên căn phòng chìm trong ánh sáng màu da cam rực rỡ chiếu ra từ một cái đèn tuýp chạy điện. De Roquefort đưa cho anh một cái. “Như thế này thì tốt hơn”.

Anh không hề muốn cộng tác với quái vật, nhưng biết rằng gã nói đúng. Anh cầm lấy cái đèn, và họ chiếu ánh sáng ra xung quanh để xem xét những gì có ở trong phòng.

“Lấy cái gì phủ lên cậu ấy đi”, Malone chỉ tay vào xác Geoffrey và nói với một tay giáo hữu.

“Cái gì bây giờ ?”, gã hỏi.

“Mấy cái dây điện của đồng đèn được bọc trong một mảnh vải. Tôi có thể dùng cái đó”. Anh bước qua nhà thờ, đi qua trước một đống lửa.

Gã đàn ông có vẻ như cân nhắc lời yêu cầu một lúc, rồi nói. “Được rồi. Làm đi”.

Malone đi trên sàn nhà lồi lõm và tìm được mảnh vải, cùng lúc tìm cách đánh giá tình hình. Anh quay lại và dùng mảnh vải bọc lấy người Geoffrey. Ba tay lính gác đã rút đến gần một đống lửa khác. Ba tay còn lại đứng gần cửa ra vào.

“Cậu ấy không phải là một kẻ phản bội”, Henrik thì thầm.

Tất cả nhìn chằm chằm vào ông. “Cậu ấy đã đi một mình đến gặp tôi và nói rằng de Roquefort đang ở đây. Cậu ấy đã gọi cho hắn. Trưởng giáo trước đã bảo cậu ấy làm như vậy, khi nào tìm ra được Bí mật Lớn thì phải báo cho de Roquefort. Cậu ấy không có lựa chọn nào hết. Cậu ấy không muốn làm điều đó, nhưng cậu ấy tin vào ông già. Cậu ấy bảo tôi đóng kịch theo hướng đó, cầu xin tôi tha lỗi, và nói cậu ấy sẽ trông nom tôi. Thật không may là tôi chưa được hưởng lời hứa đó”.

“Cậu ấy điên mất rồi”, Cassiopeia nói.

“Có thể”, Thorvaldsen nói. “Nhưng với cậu ấy lời hứa là thứ rất có trọng lượng.”

“Cậu ấy có nói tại sao lại phải báo cho hắn không ?”, Stephanie thì thầm.

“Chỉ nói rằng Trưởng giáo đã báo trước một cuộc đối đầu giữa Mark và de Roquefort. Nghĩa vụ của Geoffrey là đảm bảo chuyện đó xảy ra”.

“Mark không đủ sức chống lại hắn đâu”, Malone nói. “Anh ấy cần được giúp đỡ”.

“Tôi đồng ý”, Cassiopeia lên tiếng, giọng nói thoảng qua như hơi thở, miệng không hề cử động.

“Tình thế không dễ dàng đâu”, Malone nói. “Mười hai tên có vũ khí, còn chúng ta không có lấy một khẩu súng”.

“Ai bảo anh thế ?”, Cassiopeia thì thầm.

Anh rất thích tia sáng lóe lên trong đôi mắt cô.

Mark quan sát kho báu xung quanh mình. Anh chưa bao giờ nhìn thấy nhiều của cải đến thế. Những cái hộp đựng đồ thánh chứa rất nhiều bạc và vàng, cả tiền đồng lẫn dạng thỏi. Đó là những đồng dinar vàng, đồng drachma bạc, và tiền Byzantine, tất cả được xếp thành những chồng đặt sát nhau. Và đồ trang sức. Ba cái rương đầy ắp đá quý. Quá nhiều, vượt quá khả năng tưởng tượng. Những cái cốc và bình thánh khiến anh chú ý, phần lớn làm bằng gỗ mun, thủy tinh, bạc, và vàng. Một số có hình nổi ở trên và gắn những viên đá quý. Anh tự hỏi trong đó có những gì Anh chắc chắn được về một cái. Anh đọc dòng chữ viết ở trên và thì thầm, “De Molay”, đó là một cái ống pha lê.

De Roquefort tiến lại gần.

Bên trong quách là những mẩu xương đen thui. Mark biết câu chuyện. Jacques de Molay đã bị thiêu sống trên một hòn đảo trên sông Seine, dưới bóng nhà thờ Notre Dame, lớn tiếng tuyên bố sự vô tội của mình và nguyền rủa Philip IV, người lúc đó hẳn cũng đang thản nhiên chứng kiến cảnh tượng. Đêm xuống, các giáo hữu đã bơi qua sống và trườn qua đám tro nóng. Họ đã bơi trở về cùng với những mẩu xương chưa cháy hết của de Molay ngậm trong miệng. Giờ đây anh đang nhìn chăm chú vào chúng.

De Roquefort làm dấu thánh và lẩm bẩm cầu nguyện. “Nhìn xem họ đã làm gì đi”.

Nhưng Mark còn nhận thấy một tầm quan trọng lớn hơn. “Điều này có nghĩa là đã có ai đó đến đây sau tháng Ba năm 1314. Hẳn là họ còn tiếp tục quay trở lại nhiều lần, cho đến khi tất cả đều chết. Năm người biết về nơi này. Nạn dịch Đen hẳn là đã giết chết họ vào khoảng giữa thế kỷ mười bốn. Nhưng họ chưa bao giờ để lộ ra, và căn phòng này trở thành điều bí ẩn vĩnh viễn”. Một thoáng buồn chạy qua tâm trí anh.

Anh quay đi và chiếu đèn vào những cây thập giá và tượng gỗ mun treo trên một bức tường, khoảng bốn mươi cái cả thảy, các phong cách biến đổi từ La Mã đến German, rồi Byzantine, cho đến Gô tích, các chi tiết được làm khéo léo đến mức các bức tượng như thể vẫn đang hít thở.

“Thật là kỳ vĩ”, de Roquefort nói.

Có vô số của cải, đầy ắp các hốc đá trên hai bức tường. Mark đã nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử và ý nghĩa của nghệ thuật điêu khắc Trung cổ từ các mẫu vật trưng bày ở nhiều bảo tàng, nhưng ở đây, trước mặt anh, là cả một cuộc trưng bày mênh mông, đầy ấn tượng những thứ đồ chế tác từ thời Trung cổ.

Bên tay phải của anh, trên một bệ đá, anh nhìn thấy một quyển sách to quá khổ. Bìa sách vẫn lấp lánh sáng và anh đoán là được dát vàng – và đính những viên ngọc trai. Có vẻ như là ai đó đã từng mở nó ra, vì phía dưới, những mẩu da dê rơi lả tả như những chiếc lá. Anh cúi người xuống, đưa đèn lại gần hơn, và nhìn thấy tiếng Latinh. Anh đọc được vài chữ và nhanh chóng hiểu ra đó là một bản kiểm kê.

De Roquefort nhận ra mối quan tâm của anh. “Cái gì thế ?”

“Sổ sách kế toán. Có khả năng là Saunière đã tìm cách xem xét nó khi tìm thấy nơi này. Nhưng ông phải cẩn thận với những trang da dê đó đấy”.

“Ăn cắp. Ông ta là một kẻ ăn cắp. Một tên kẻ cắp mạt hạng. Ông ta không có quyền lấy đi bất kỳ cái gì ở đây hết”.

“Thế chúng ta có quyền à ?”

“Chúng thuộc về chúng ta. Do chính de Molay để lại. Ông ấy đã bị đóng đinh lên cây thập giá treo trên một cánh cửa nhưng không hề nói gì cho chúng. Xương của ông ấy nằm ở đây. Chúng là của chúng ta”.

Sự chú ý của Mark chuyển sang một cái rương mở nắp. Anh rọi đèn vào và nhìn thấy một quyển sách da dê khác. Anh chậm rãi mở nó ra, không mấy khó khăn. Anh không dám chạm vào các trang đang dính chặt vào nhau, nên chỉ tìm cách giải mã những gì viết trên bìa. Tiếng Pháp cổ, anh nhanh chóng kết luận. Anh hiểu được khá nhiều thứ tiếng này để hiểu ngay rằng đây là một bản di chúc.

“Các loại giấy tờ mà Dòng cất giữ. Cái rương này nhiều khả năng chứa đầy các di chúc và giấy tờ của thế kỷ mười ba và mười bốn”. Anh lắc đầu. “Cuối cùng thì các giáo hữu đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình”. Anh xem xét các khả năng. “Chúng ta sẽ biết được gì từ các tài liệu này ?”

“Đây chưa phải là tất cả”, đột nhiên de Roquefort lên tiếng. “Không có sách. Không một quyển nào. Hiểu biết đó nằm ở đâu ?”

“Là cái mà ông đang nhìn thấy đấy”.

“Ông nói dối. Còn phải có nữa. Ở đâu ?”

“Đừng định chơi tôi. Các giáo hữu của chúng ta đã cất giấu rất kỹ hiểu biết của mình. Ông biết điều đó. Philip chưa bao giờ tìm ra được. Vậy nên nó phải nằm ở đây. Tôi có thể nhìn thấy cái đó trong mắt ông. Còn có nhiều hơn nữa”. De Roquefort với lấy khẩu súng và gí nòng vào giữa hai lông mày của Mark. “Nói đi”.

“Tôi thà chết còn hơn”.

“Nhưng hẳn là ông không muốn thấy mẹ ông chết chứ ? Hoặc là các bạn của ông ở trên kia ? Bởi vì đó là những người tôi sẽ giết đầu tiên trước mắt ông, cho đến khi tôi biết được điều tôi muốn biết”.

Mark cân nhắc. Không phải vì anh sợ de Roquefort – thật lạ lùng, anh không cảm thấy chút sợ hãi nào – mà chỉ đơn giản là anh cũng muốn biết. Bố anh đã tìm kiếm trong hàng năm trời nhưng không tìm được gì cả. Trưởng giáo đã nói với mẹ anh điều gì về anh nhỉ ? Cậu ấy không có được sự kiên quyết để kết thúc trận chiến của mình. Khốn kiếp. Anh chỉ còn cách lời giải đáp cho cuộc tìm kiếm của bố anh một quãng rất ngắn.

“Thôi được. Theo tôi”.

“Ở đây tối tăm quá”, Malone nói với giáo hữu có vẻ là chỉ huy cả nhóm. “Có thể bật máy phát điện và bật mấy cái đèn đó lên không ?”

“Chúng ta phải đợi đến lúc Trưởng giáo trở lại”.

“ở dưới đó họ sẽ cần những cái đèn, và cũng chỉ mất vài phút để làm thôi. Trưởng giáo của các ông sẽ không thích phải đợi khi nào ông ấy gọi để lấy chúng đâu”. Anh hy vọng lời cảnh báo đó sẽ có tác động đến đầu óc gã đàn ông. “Có hại gì đâu ? Chúng ta sẽ chỉ bật vài ngọn đèn lên thôi”.

“Được rồi. Làm di”.

Malone quay lại chỗ những người khác. “Chúng ta lắp đèn thôi”.

Stephanie và Malone đi đến chỗ một bộ đèn, trong khi Henrik và Cassiopeia đến chỗ một bộ khác. Những thanh đèn gồm có hai ngọn đèn halogen đặt trên một bộ chân chống màu da cam. Máy phát điện nhỏ và chạy bằng gasoline. Họ đặt mấy bộ chân máy ở hai đầu nhà thờ và treo mấy cái bóng lên. Dây điện được nối vào và dẫn về chỗ máy phát điện ở gần ban thờ.

Một cái túi đựng dụng cụ nằm gần máy phát điện. Cassiopeia đang lúi húi tìm kiếm ở trong đó thì bị một tay lính gác chặn lại.

“Tôi cắm mấy cái dây điện này. Không dùng ổ cắm được. Tôi tìm một cái tuốc nơ vít”.

Gã đàn ông ngần ngừ rồi bước lùi lại sau, có vẻ chuẩn bị sẵn sàng để can thiệp. Cassiopeia với lấy cái túi và cẩn thận lấy cái tuốc nơ vít ra. Trong ánh sáng của mấy đống lửa, cô cắm mấy sợi dây điện vào ổ của máy phát điện.

“Kiểm tra mấy chỗ nối ở đèn đi”, cô nói với Malone.

Họ đi đến chỗ bộ chân đầu tiên. “Khẩu súng bắn phi tiêu của tôi nằm trong túi đựng dụng cụ”, cô thì thầm.

“Tôi cho rằng đó chính là cái cô đã dùng khi còn ở Copenhagen phải không ?” Môi anh vẫn không, động đậy.

“Chúng có tốc độ cao. Tôi chỉ cần vài giây để bắn thôi”.

Cô lúi húi với bộ chân chống.

“Cô có bao nhiêu phi tiêu ?”

Có vẻ như cô đã chuẩn bị xong. “Bốn”.

Họ đi đến chỗ bộ chân thứ hai. “Chúng ta có sáu vị khách”.

“Hai tên còn lại là chuyện của anh”.

Họ dừng lại ở bộ chân thứ hai. Anh thở hắt ra. “Chúng ta cần gây ra một lúc hỗn loạn. Tôi có một ý tưởng”.

Cô chạm tay vào mấy cái đèn. “Đến lúc rồi đấy”.

Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ

Kho Báu Của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ

Score 9
Status: Completed Author:

Dòng tu cổ của Hiệp Sỹ Đền Thờ sở hữu một kho báu vô kể và một quyền lực tuyệt đối trên cả các vị vua và các Đức giáo hoàng. Khi bị đưa ra xét xử ở toà án Dị giáo vào thế kỷ XIV, họ bị xoá sổ, và những của cải của họ cũng biến mất.

Nhưng giờ đây, hai thế lực đang ganh đua để giành kho báu, và họ cũng nhận ra rằng không chỉ có của cải như họ từng nghĩ, mà kho báu kia cũng còn chứa đựng một "bí mật lớn" có thể khiến cả thế giới hiện đại choáng váng.

Cotton Malone, một thời từng là đặc vụ cấp cao trong Bộ tư pháp Mỹ, đang tận hưởng một cuộc sống mới thanh bình của người buôn bán sách cũ ở Copenhagen, Đan Mạch. Nhưng rồi một tình huống nguy hiểm bất ngờ ập đến, khơi dậy bản năng hành động sẵn có và lôi anh trở lại với cái thế giới của các thế lực đen tối mà anh ngỡ đã bỏ lại sau lưng.

Stephanie Nelle, cựu chỉ huy của anh, đến Đan Mạch với một mục đích đặc biệt và bị một kẻ lạ mặt giật mất chiếc túi xách khi đi trên đường phố.

Khi biết mình đang nắm giữ những đầu mối quan trọng dẫn tới một loạt những câu đố đã tồn tại từ hàng thế kỷ bị phân tán rải rác khắp châu Âu, Stephanie quyết định sẽ khám phá điều bí ẩn đã ám ảnh các học giả và những kẻ săn lùng kho báu từ nhiều năm nay, bằng cách tìm ra chốn truyền thuyết đó, nơi cất giấu của cải và những "Bí mật lớn" tưởng như đã mất theo Dòng tu các Hiệp sỹ Đền Thờ từ thế kỷ XIV.

Cùng với tham vọng tìm thấy món quà của lịch sử, một kẻ cuồng tín giấu mặt - Robert de Roquefort, cùng với đám sát thủ của y - đã bằng mọi thủ đoạn liều mạng chiếm đoạt những tài liệu quan trọng trong tay Stephanie.

Dẫu được hoan nghênh hay không, cotton vẫn lao vào cuộc tìm kiếm, mặc cho những bất hòa nảy sinh trong suốt cuộc đua nguy hiểm này. Nhưng, càng hiểu thêm về những âm mưu xa xưa xung quanh các Hiệp Sỹ Đền Thờ, anh càng nhận ra rằng điều gì đó còn lớn hơn những sinh mạng đang bị lâm nguy.

Kết thúc trò chơi chết người trong cuộc chinh phục kho báu mà ở đó, đầy rẫy những mưu mô, sự phản bội, những tham vọng quyền lực đớn hèn, là một khám phá gây chấn động có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại và khiến các thế lực đen tối phải quỳ gối.

Một cuốn tiểu thuyết hoàn hảo cho các fan thích đọc chuyện ly kỳ cũng như chuyện lịch sử. Cốt truyện hoang đường lắt léo.
Và hơn hết, còn có một "bí mật lớn" mà những kẻ truy tìm kho báu lẫn các học giả nhiều thời đại đều bị ám ảnh phải khám phá đến cùng, một bí mật có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại.

Bằng lối kể chuyện cuốn hút, ngôn từ giản dị mà tài tình, nhà văn Steve Berry đã khôn khéo dẫn dắt người đọc đi hết từ bất ngờ này đến ngạc nhiên khác, và dâng tặng độc giả một kết thúc hoàn toàn thoả mãn. Ông xứng danh là tác giả best-selling trên toàn thế giới do tờ New York Times danh tiếng bình chọn.

Mời các bạn đón đọc!

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset