Đào phủ vẫn chưa ăn cơm tối, tam tiểu thư và mấy vị phu nhân buổi chiều bắt đầu đánh mười sáu vòng, đến bảy, tám giờ tối bác Lý ở nhà trên đến hỏi tam tiểu thư: “Phu nhân, nhà bếp hỏi lúc nào thì ăn cơm tối?”. Tam tiểu thư ngẩng đầu lên nhìn đồng hồ trên tường, liền “ôi chao” một tiếng nói: “Hóa ra đã muộn vậy rồi, đánh bài cũng không cảm thấy đói”. Một vị phu nhân khác họ Hà liền cười nói: “Đào phu nhân thắng tiền, đương nhiên không thấy đói rồi”. Mọi người đều cười, tam tiểu thư vừa cười vừa quay đâu lại dặn dò bác Lý: “Đi xem xem, nếu Doãn tiểu thư về rồi thì mời cô ấy đến ăn cơm.”
Bác Lý vâng rồi đi, trong phòng trên vẫn đánh bài, dưới tam tiểu thư là phu nhân Từ thống chế, Tư phu nhân liền hỏi: “Doãn tiểu thư đó có phải vị tiểu thư hôm qua cùng đi nghe kịch với Cậu Sáu không?” Tam tiểu thư cười cười, không trả lời. Hà phu nhân liền nói: “Nghe nói rất xinh đẹp”. Một vị Trác phu nhân khác cười nói: “Bạn gái Cậu Sáu có cô nào là không xinh đẹp chứ?”. Tam tiểu thư nhoẻn miệng cười nói: “Dù sao Cậu Sáu nhà chúng tôi vẫn chưa có thiếu phu nhân, cho nên cậu ấy có bạn gái cũng là chuyện rất bình thường”. Đang nói chuyện bác Lý đã quay lại, tam tiểu thư buột miệng hỏi: “Doãn tiểu thư về rồi sao?”. Bác Lý đáp: “Về rồi ạ”, rồi lại nói tiếp: “Lúc tôi đến, Doãn tiểu thư lên lầu thay quần áo rồi, nhưng Cậu Sáu ở dưới lầu, bảo phu nhân không cần đợi Doãn tiểu thư ăn cơm, cậu ấy mời Doãn tiểu thư ăn tối”.
Tam tiểu thư nghe thấy Mộ Dung Phong đến, liền hỏi: “Cậu Sáu còn nói gì không?” Bác Lý đáp: “Cậu Sáu không nói gì khác”. Tam tiểu thư nghĩ một lát, cảm thấy vẫn không nên đi làm phiền hai người đó, do vậy liền bảo nhà bếp dọn cơm nước. Phụ nữ vốn là chúa tò mò, trong phòng ăn Từ phu nhân không nhịn được hỏi: “Xem ra Doãn tiểu thư này khong hề tầm thường”. Tam tiểu thư cười nói: “Tầm thường hay không tầm thường làm sao nói rõ ràng được chứ?”. Cô càng lấp lửng như thế, mấy vị phu nhân lại càng khẳng định hơn, trong lòng cứ suy đoán.
Chuyện kiểu này vốn được lan đi rất nhanh, hơn nữa mấy ngày liền Mộ Dung Phong mời Tĩnh Uyển đi xem phim, khiêu vũ, ăn cơm, hai người ở bên nhau như hình với bóng, hành động của anh vốn có rất nhiều người chú ý nên càng không giấu được. Tĩnh Uyển vì có việc muốn xin giúp đỡ, huống hồ Mộ Dung Phong luôn đối xử với cô rất khách sáo, cho nên không dám từ chối. Cô vì việc của Hứa Kiến Chương mà nóng ruột nóng gan, lòng như lửa đốt, cho nên không có tinh thần vui đùa, Mộ Dung Phong bèn nghĩ cách khiến cô cười. Vì cô muốn học bắn súng, ngày hôm đó anh đặc biệt được cô đến thao trường tập bắn.
Từ Trị Bình vốn vì việc đóng quân mà đến tìm Mộ Dung Phong, đợi rất lâu ở hành dinh đốc quân mới biết Mộ Dung Phong đã đến thao trường, ông ta liền ngồi xe đến thao trường. Thao trường đó là Mộ Dung Thần xây dựng lúc còn sống, sàn lát đá trắng, nhìn không thấy điểm cuối, vốn dùng lúc vào lúc duyệt binh, bình thường cũng dùng làm nơi luyện bắn súng của cảnh vệ. Vì Mộ Dung Phong ở đây, bốn bề đều có lính canh, cách không xa, có vệ binh vác súng đứng im.
Từ Trị Bình từ xa đã thấy dưới chân tường thành có cắm bia bắn. Thẩm Gia Bình ở bên cạnh Mộ Dung Phong lắp sẵn đạn, Mộ Dung Phong nhận lấy súng, nói với Tĩnh Uyên: “Loại súng này sức giật nhỏ hơn chút, nhưng tay vẫn phải nắm thật chắc”. Anh từ nhỏ ở trong quân đội, từ nhỏ nghịch súng ống, vừa đưa tay lên, chỉ nghe thấy một tiếng “đoảng”, người phụ trách xem bia đã reo hò, hết lên: “Hồng tâm! Hồng tâm!”. Anh đưa súng cho Tĩnh Uyển: “Em thử đi!”. Thấy cô dùng hai tay cầm súng, anh cúi đầu giúp cô ngắm chuẩn: “Thấp một chút, thấp hơn một chút nữa, được, bắn”.
Tĩnh Uyển tuy có sự chuẩn bị, nhưng lúc bóp cò, sức giật của súng quá mạnh, khẩu súng trong tay gần như không giữ vững, Mộ Dung Phong đưa tay ra giúp cô nắm chắc súng, quay đầu lại thấy Từ Trị Bình, mới chào một câu: “Chú Từ đến rồi a”. Từ Trị Bình lại hành lễ rất quy tắc: “Cậu Sáu”. Mộ Dung Phong hỏi: “Chú Từ có việc gì?”. Từ Trị Bình nói: “Từ mùa đông năm ngoái, người Nga phái người đóng quân tại dọc tuyến đường sắt càng ngày càng nhiều, hôm trước người Nga lại nói muốn tăng thêm lượng quân đóng giữ, theo tôi thấy, đám người Nga này không yên phận, chúng ta phải có phòng bị”. Mộ Dung Phong “ồ” một tiếng. nói: “Vậy chú Từ có dự định gì?”
Từ Trị Bình nói: “Nên tăng thêm quân ở dọc tuyến đường sắt Thừa Châu, để phòng nước Nga giở trò”. Mộ Dung Phong nói: “Tập kết đóng quân của Thừa Châu đều từ Dư Gia Khẩu đến Bình Dương, nếu điều binh đến phía Bắc, sự phòng thủ của Dĩnh quân sẽ giảm đi”. Từ Trị Bình nói: “ Dĩnh quân đang đánh nhau túi bụi với An Quốc quân của Khương Song Hỷ, Nam tuyến tạm thời không phải lo lắng, trước mặt nên rút quân đến phía Bắc”. Mộ Dung Phong nghĩ một lát: “Không, vẫn nên điều động ba lữ đoàn từ điểm đóng quân Vọng Châu của chú, bố trí canh phòng đến dọc tuyến đường sắt Quế An của Ninh Xương”. Trong lúc họ nói chuyện, Tĩnh Uyển đã tự bắn được bốn, năm phát, phát nào cũng trượt, viên cuối cùng khó khăn lắm mới chạm vào bia, trượt qua viền bia lại bay ra ngoài. Mộ Dung Phong nhìn thấy bật cười ha ha, Tĩnh Uyển quay đầu lại nhìn anh, anh liền nói: “Em lườm tôi làm gì, tôi thay em nhớ đấy, viên đạn này sáu hào một viên, em đã lãnh phí mấy đồng rồi!”. Tĩnh Uyển “hừ” một tiếng nói: “Tuần duyệt sứ của chin tỉnh hóa ra cũng keo kiệt như thế”.
Anh nói: “Đối với em thì phải keo kiệt một chút, ai bảo em keo kiệt với tôi chứ”. Tĩnh Uyển giẫm chân, lườm anh thêm cái nữa, dáng vẻ như muốn oán trách nhưng lại nhẫn nhịn. Từ Trị Bình thấy cảnh đó, liền cúi người cáo từ nói: “Cậu Sáu, vậy tôi làm theo ý cậu, đi điều binh trước”.
Mộ Dung Phong nhận lấy súng, đưa cho Thẩm Gia Bình lắp lại đạn, thuận miệng “ừ” một tiếng. Từ Trị Binh rời khỏi thao trường, không về thẳng Vọng Châu mà đến phủ của Thường Đức Quý. Thường Đức Quý vốn nghiện thuốc, buổi chiều không có việc gì, xem mấy vị phu nhân đánh bài, ông ta rút hai điếu thuốc, đứng dậy đánh bài giúp thất phu nhân, tam phu nhân liền hét lên: “Ông này bất công quá, mấy chị em chúng tôi đang chơi bài ông lại xen vào”. Một vị phu nhân khác cũng không chịu, đang léo nhéo nói chuyện, la hét ầm ĩ, vô cùng ồn ào, bỗng nghe thấy ngoài cửa có người nói: “Ông anh có phúc thật”.
Thường Đức Quý thấy Từ Trị Bình đi vào, hai nhà vốn tình cảm thắm thiết, liền vội vã đứng dậy đón tiếp, hai người sang giường thuốc (*) tán gẫu vài câu trước, mấy vị phu nhân kéo sang phòng khách đánh bài, chỉ để lại một a hoàn châm thuốc, Thường Đức Quý mới hỏi: “Ông đến gặp Cậu Sáu?”. Từ Trí Bình vốn không hút thuốc, chỉ uống nửa tách trà, chậm rãi nói: “Không phải vẫn vì chuyện đóng quân sao?”. Thường Đức Quý hỏi: “Vậy Cậu Sáu nói sao?”. Từ Trí Bình vuốt vuốt hai lọn râu bên mép, mỉm cười nói: “Cậu ta bảo tôi điều ba lữ đoàn, đóng từ Ninh Xương đến Quế An”. Thường Đức Quý vừa bất ngờ vừa mừng, đặt tẩu thuốc xuống, chắp tay nói: “Lão đệ, vẫn là đệ có cách”.
(*) Giường thuốc: Loại giường chuyên dùng để hút thuốc, thường có trong các gia đình quý tộc (BTV)
Từ Trị Bình nói: “Từ lúc đánh trận xong, tôi thấy tâm tư cậu ta không còn đặt ở việc chính nữa. Mấy tháng trước vì một cô gái mà bỏ ra bao nhiêu tiền đi lập trường học gì đó, sau này lại đưa phụ nữ đi nghe kịch, ngày ngày chỉ biết nghe kịch, nghe nói hai ngày trước lại say mê một người, hôm nay thấy cậu ta ở thao trường dạy cô gái đó bắn súng, tôi nói chuyện với cậu ta, cậu ta không tập trung. Nếu đại soái có linh thiêng…”. Ông ta nói đến đây, không kìm được than một tiếng. Thường Đức Quý vỗ chân một cái nói: “Dù sao tên tiểu tử này cũng là Lưu A Đẩu (*) không thể dìu dắt được”.
(*) Lưu A Đẩu: Con trai của Lưu Bị, trước khi chết Lưu Bị gửi gắm cho Gia Cát Lượng dìu dắt A Đẩu, nhưng vì A Đẩu ngu tối, bất tài, sau khi Gia Cát Lượng chết, rốt cuộc Thục vẫn bị diệt vong (BTV)
Từ Trị Bình nói: “Nói cậu ta là Lưu A Đẩu thì có hơi quá. Ông xem lúc đánh trận, cậu ta dụng binh cũng không hề thua kém đại soái. Chính là cậy chút thong minh nên mới ngang tang, không coi đường, sớm muộn cũng có chuyện”. Thường Đức Quý cầm tách trà lên, uống ực một hơi hết sạch, lau miệng nói: “Trước lúc đại soái chết tuy không trăn trối lại lời nào, nhưng mấy lão già chúng ta là người nhìn Cậu Sáu lớn lên, nói một cách huênh hoang, nếu cậu ta phạm sai lầm, chúng ta nên chỉ ra. Cành cây mọc cong phải uốn cho thẳng, người đi đường vòng thì phải kéo anh ta lại”.
Từ Trị Bình dùng nắp tách trà hớt bỏ lá trà, nói: “Tôi lại nghe nói Cậu Sáu có ý muốn nghị hòa với Dĩnh quân”. Thường Đức Quý vừa nghe, đập bốp một cái lên chiếc kệ, tách trà, đĩa đồ điểm tâm, đèn thuốc, gạt tàn thuốc, tẩu thuốc trên chiếc kệ.. hết thảy đều nảy hết lên, cả người ông ta cũng nhảy lên, quát lớn: “Cái thằng ranh con! Không có tiền đồ, giang sơn ông đây cùng đại soái dùng mồ hôi và máu giành về, một câu của nó là muốn hai tay dâng cho người khác sao! Nó muốn nghị hòa, trước hết phải hỏi xem khẩu súng này của ta có đồng ý hay không!”.Nói xong rút khẩu súng ngắn ở thắt lưng ra đập lên chiếc kệ “rầm” một tiếng.
Từ Trị Bình vội kéo ông ta lại, nói: “Lão huynh, cẩn thận, cẩn thận”. Thường Đức Quý tức sùi bọt mép: “Người phải cẩn thận là tên nhóc đó, tự làm theo ý mình, có bao giờ coi mấy anh em chúng ta ra cái gì chứ?” Chúng ta trong sáng trong tối, từng chịu bao nhiêu khổ cực rồi? Nó nghe lời xúi bẩy của lũ bất tài Lưu Tử Sơn luôn thiên vị chúng, hễ tranh luận với nó, nó liền lấy cái danh tuần duyệt sứ ra ép ông mày, ông mày nể mặt đại soái, không tính toán với nó, nó lại còn càng ngày càng vênh mặt lên. Lúc chúng ta theo đại soái mưa bom bão đạn, nó còn trống trong lòng mẹ bú sữa đấy. Bây giờ đại soái vừa nhắm mắt, nó liền ngồi lên đầu chúng ta, cho dù nó là con của đại soái, ông đây cũng không tha cho nó”.