Ánh mắt của Lỗ Nhất Khí vừa chạm phải ánh mắt của lão già, trong lòng cậu bỗng thầm ớn lạnh. Những tia sáng sắc nhọn chiếu ra từ cặp mắt của lão chứa đầy vẻ lẫm liệt vô tình, trong đó lan toả một làn sát khí mạnh mẽ mà trầm ổn.
Đúng là sát khí! Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định chắc chắn, song đồng thời cậu cũng cảm giác được rằng sát khí của lão không phải là nhắm vào một người cụ thể, mà dường như là một khí chất bẩm sinh đã có.
Lão già nhìn thấy chủ nhân có nhiều khách tới nhà, bèn rất biết điều mà nhanh chóng cáo lui.
Tả Thiết Cống vô cùng ngạc nhiên trước sự xuất hiện của đám Lỗ Nhất Khí, đặc biệt là khi nhìn thấy ngọc phù Lộng phủ. Hắn cũng không rõ bí mật này được truyền lại từ đời tổ tiên nào, song hắn biết rằng chưa có một thế hệ nào được tiếp xúc với những sự việc liên quan tới điều bí mật. Nên dần dần, bí mật không còn là bí mật nữa, mà đã biến thành chủ đề bàn tán mà tất cả bạn bè, người thân đều biết.
Tả Thiết Cống vừa nói vừa vội vàng lục lọi trong tủ, phải một lúc lâu sau mới lôi ra được một chiếc hộp cũ kỹ rách nát. Kỳ thực trong xưởng ép dầu của hắn cũng chẳng có món đồ nào ra hồn, ngay cả chiếc hộp gỗ mà hắn giữ gìn như bảo bối kia cũng không hề có lấy một hơi thở nào đáng chú ý. Thứ đáng nói duy nhất là chất liệu gỗ của chiếc hộp, đó là một loại gỗ phỉ chỉ có ở địa phương này, chất gỗ vô cùng cứng rắn, song dễ mối mọt, rất hiếm tìm ra nguyên liệu còn nguyên vẹn, giá trị không hề thua kém gỗ tử đàn.
Chiếc hộp được mở ra, bên trong có một túi vải. Mở túi ra, lại giở tiếp hai lớp vải thô in hoa lam nữa, mới hiện ra một vật dày nặng kích cỡ bằng cái bánh bao. Tuy chẳng phải là món đồ cổ có giá trị, càng không phải món bảo bối trong truyền thuyết, song Lỗ Nhất Khí vẫn phải khẽ xuýt xoa.
-Lộng phủ! – Thuỷ Băng Hoa bật kêu lên.
Đúng vậy, thứ bọc trong gói vải rất giống với Lộng phủ, hình dạng y chang, màu sắc gần như giống hệt. Song nó không phải là ngọc phù, mà chỉ là một khối đá bình thường với nhiều màu loang lổ, và to hơn gấp nhiều lần so với Lộng phủ thật.
Tả Thiết Cống nhìn thấy vẻ mặt kinh ngạc của mọi người thì lấy làm khoái chí, đặng hắng một tiếng để lấy giọng, rồi chậm rãi kể:
-Thú thực gia tộc chúng tôi mấy đời gần đây mới chuyển tới thành Thông Châu, nguyên nhân là vì một di nguyện của tổ tiên. Trước đây, khi chốn này vẫn chưa được bồi tích thành đất liền, vẫn là mặt biển mênh mông, tổ tiên của gia tộc chúng tôi đã từng chịu ân huệ của người khác, nên đã hứa giúp người ta một việc. Để thực hiện được lời hứa cha truyền con nối do tổ tiên để lại, mấy đời trước, ông nội tôi đã mang theo hòn đá này tới Thông Châu, rồi ở rể tại đây. Bởi vì sự việc mà ân nhân đã nhờ cậy chính là vào thời điểm này phải lưu lại nơi đây chờ một người tới, người này có mang theo miếng ngọc phù giống hệt chiếc rìu đá này.
-Khi nơi đây còn chưa thành đất liền, tổ tiên của ngươi tới đây làm gì? Ông nội ngươi ở rể nơi đây, vậy họ Tả của ngươi là họ ban đầu hay họ sau này? Còn nữa, trong chuyện này nếu không có dính dáng gì tới nghìn năm về trước, liệu có cần thiết phải thực hiện hay không? – Lão mù muốn thăm dò Tả Thiết Cống.
Câu hỏi vỗ mặt của lão mù khiến khuôn mặt bóng nhẫy như dầu của Tả Thiết Cống hơi lộ sắc giận:
-Tổ tiên có dặn lại rằng, đợi người mang ngọc phù tới đây, hãy dẫn người đó đi xem một thứ. Tới lúc đó thứ gì cần biết tự khắc sẽ biết thôi!
-Tới đâu? Xem thứ gì? – Lần này là Hứa Tiểu Chỉ nhanh miệng hỏi ngang. Xem ra hắn đã chú ý tới chuyện này từ trước, nếu không làm sao có thể ghi nhớ kỹ lưỡng hình dạng của Lộng phủ đến thế.
Tả Thiết Cống chỉ im lặng không nói.
Lỗ Nhất Khí đã nhìn thấy sự băn khoăn của Tả Thiết Cống. Đúng vậy, cậu mới là chủ nhân của ngọc phù Lộng phủ, người cần hỏi, cần nghe đáng lẽ phải là cậu mới đúng, đâu đến lượt những kẻ khác phải tỏ ra sốt sắng.
-Không sao, anh nói đi! Cần nơi chính xác! – Lỗ Nhất Khí mặt không đổi sắc, bình thản lên tiếng.
-Núi Sói!
Núi Sói, thực chất chính là núi Tử Lang, một trong năm ngọn núi nằm sát bên sông. Tại sao cái tên Tử Lang đẹp đẽ nhường kia lại bị đổi thành núi Sói nghe thật dung tục và đáng sợ, lẽ nào trên núi có chó sói thật ư? Trên đường tới núi Sói, Tả Thiết Cống đã kể cho Lỗ Nhất Khí nghe rằng, tuy có rất nhiều cách lý giải về việc đổi tên núi, song nguyên nhân thực sự là do tổ tiên của hắn sợ vật được uỷ thác bị người ta vô tình hay cố ý phá huỷ, nên mới bịa chuyện để hù doạ dân cư quanh đây. Kết quả là chiêu này chẳng có tác dụng gì, trên núi vẫn người qua kẻ lại hương khói tấp nập như thường, chỉ có điều cái tên tao nhã thoát tục nhường kia đã bị thay đổi hẳn.
Tả Thiết Cống thuê xe một bánh đưa mọi người đến núi Sói. Chỗ ngồi trên xe chia làm hai dãy trái phải, tuy xe xóc đến lộn ruột, song vẫn đỡ hơn phải cuốc bộ đường xa. Suốt dọc đường đi, nơi nơi đều thấy đất đai màu mỡ, nước chảy chan hoà, cây cối um tùm, vạn vật bừng bừng sức sống, giao hoà với linh khí của đất trời. Lại thêm lúc này đã bước sang xuân, nên thi thoảng lại thấy bừng lên vài đốm vàng rực, đỏ hồng trong bát ngát ruộng đồng xanh tươi mơn mởn, rực rỡ khác nào báu vật trời ban.
Nhưng càng tới gần núi Sói, Lỗ Nhất Khí lại càng cảm thấy quái lạ. Khi chân núi đã hiện ra trước mặt, cậu bắt đầu nghi ngờ chuyến đi này không biết có đáng tin hay không. Nguyên nhân rất đơn giản, khi còn chưa tới thành Thông Châu, lại từ cửa nam thành đi tới núi Sói, chặng đường tuy rất xa xôi, song cậu phát giác ra làn khí tướng tốt lành trong cảm giác đâu đâu cũng thấy. Hơn nữa, ở nơi nào cũng gần như giống hệt nhau. Đặc biệt là ngọn núi Sói trước mặt, tuy rất đẹp đẽ thanh kỳ, song khí tướng của nó lại không mấy khác biệt so với khí tướng của những nơi khác trong thành Thông Châu, chỉ là có thêm một chút khí tướng của nhà Phật. Nếu bảo cấu quả thực ở trên núi Sói, thì khí tướng nơi đây chắc chắn sẽ không thể bình thường lặng lẽ như vậy được. Ngay như Kim bảo ở núi Hai Vú vùng Đông Bắc, tuy được cất giấu sâu thẳm trong lòng núi, song nhìn từ xa vẫn có thể cảm nhận được khí tướng của nó không ngừng biến hoá linh động, cuồn cuộn tuôn trào.
Thế nhưng!
Trong trí não cậu bỗng loé lên một ý nghĩ, Tả Thiết Cống chỉ nói là đưa cậu tới đây xem một vật, tuyệt không nhắc tới bảo cấu, càng không nói gì tới Địa bảo. Liệu có phải ngay từ đầu đã hiểu lầm ý của hắn hay không?
Cửa tam quan lớn dẫn lên núi Sói nằm ở Pháp Nhũ đường trong ngôi điện dưới chân núi. Kiến trúc nơi đây chia làm điện cổng, điện bên, đại điện và nhà ở phía sau, hình thành nên ba tầng kiến trúc, khí thế rất uy nghiêm. Đi qua đại điện, ra khỏi cửa nách ở mặt tây, mới có thể tiếp tục men theo đường bậc thang dẫn lên đỉnh núi.
Lỗ Nhất Khí đứng lại trước cổng chính. Quần thể kiến trúc xếp chồng ba tầng này rất lý tưởng cho việc tàng trữ, che giấu, bên trong có thể bố trí rất nhiều khảm nút và người phục kích. Song sau khi ngưng thần tụ khí, cảm giác duy nhất mà cậu thu về lại xuất phát từ chính bản thân kiến trúc. Đây thực sự là một toà kiến trúc đáng giá, với niên đại lâu đời, linh khí tràn trề, tường quang rực rỡ, đặc biệt là dãy ngói lưu ly nằm chính giữa sống nóc của đại điện và phía dưới hai trụ đá chống đỡ phần mái nhô ra phía trước của tam quan, tuôn trào một làn khí tướng mạnh mẽ linh động, hào quang lộng lẫy tựa cầu vồng. Hai nơi này chắc chắn có cất giấu những món cổ vật cực kỳ quý báu nào đó làm vật trấn, song dù khí tướng của chúng có tốt đẹp tới đâu cũng không phải là món bảo bối mà Lỗ Nhất Khí đang tìm.
-Có lẽ còn một con đường khác nữa! – Lỗ Nhất Khí khẳng định chắc nịch.
Lời cậu vừa nói ra, thần thái của Tả Thiết Cống lập tức tươi tỉnh hẳn lên, bộ mặt nhễ nhại bóng dầu cũng hơi ửng đỏ. Hắn gật gật đầu, rồi dẫn bọn họ đi vòng sang chân núi phía đông.
-Này, cái tay đòn bằng sắt kia, đừng có lòng vòng nữa, cứ nói tuột với cậu cả vật đó ở đâu có phải tốt hơn không! – Sa Khẩu tuy vẫn tươi cười, song trong ngữ khí hơi lộ vẻ nôn nóng, bởi lẽ hắn đã phát hiện ra xung quanh dường như có điểm gì khác lạ.
-Tổ tiên dặn lại rằng bảo bối ở ngay trong núi này, nhưng có câu “có duyên gặp chuyện hay thiên cổ, vô duyên nhìn cây cỏ đá bùn”.
“Vô duyên nhìn cây cỏ đá bùn… nhìn đá bùn…” – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như đang nghĩ ngợi điều gì.
Mé phía đông núi Sói cũng có một con đường nhỏ lát đá dẫn lên núi, song đi lên được khoảng hơn hai mươi bậc, lại có một bức tường chắn ngang, hai bên tường nối liền với vách đá cao dựng đứng, không thể đi vòng qua. Nhưng trên tường lại có một cánh cửa nhỏ, bị khoá kín bởi một ổ khoá dài gỉ sét loang lổ.
Hứa Tiểu Chỉ từ xa đã phát hiện ra ổ khoá trên cánh cửa, nên nhanh chân vượt lên phía trước, dùng ba ngón tay bóp vào ổ khoá, vận lực vặn mạnh. Ổ khoá han gỉ lập tức vỡ vụn như một miếng bánh nướng giòn.
Tả Thiết Cống và Sa Khẩu nhìn thấy cánh cửa đã mở ra, vội rảo bước tiến lên, nhưng chỉ được vài bước đã dừng ngay lại, bởi lẽ Lỗ Nhất Khí vẫn đứng trơ trơ tại chỗ.
Lỗ Nhất Khí không muốn lên núi, bởi vì con đường này vẫn không mang lại cho cậu cảm giác gì đặc biệt.
-Vẫn còn đường khác, có lẽ vẫn còn đường khác! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như đang trong cơn mê sảng.
-Không có, chỉ có hai con đường này thôi. Không thì có thể lên núi ở mé tây, chỗ đó không dốc lắm, có thể leo lên được. Nhưng không có đường sẵn, chỉ có thể tự tìm cách leo lên thôi. – Tả Thiết Cống nói.
-Phía bắc, mặt sau núi! – Lỗ Nhất Khí vẫn như ngủ mê chưa tỉnh.
-Nơi đó là vách đá dựng đứng, không thể leo lên! – Lần này là Hứa Tiểu Chỉ cướp lời. Kỳ thực nếu hắn không nói, mọi người cũng biết, vì họ đi tới từ phía bắc núi, nên đã nhìn thấy sườn phía bắc của ngọn núi đầu tiên.
Đôi khi kiên định, quyết đoán cũng đồng nghĩa với cố chấp, cứng đầu, giống như Lỗ Nhất Khí lúc này:
-Dẫn tôi vòng sang phía bắc xem thử!
Khoé mắt của Tả Thiết Cống giật khẽ một cái, không biết là do đang gắng sức kiềm chế để khỏi bật cười, hay là đang cố che giấu những tia sáng chỉ muốn bừng lên trong mắt.
Men theo chân núi Sói, đi từ phía đông sang phía bắc, tuy là phần sấp bóng sau lưng trái núi, song vẫn ngời ngời vẻ tú lệ phong quang. Hơn nữa, sau khi đi vòng qua chân núi, lại thấy xuất hiện hai hang đá cao lớn nằm liền nhau. Lỗ Nhất Khí dừng bước một lát trước hang đá, im lặng một hồi rồi lẩm bẩm như tự nhủ với mình:
-Hang đá tuy cao lớn, song đều không sâu, vách đá trơn bóng, không biết được hình thành bằng cách nào?
-Là xói mòn! – Sa Khẩu đang đứng sau lưng đế vào một câu, nhưng lời giải thích quá vắn tắt, có lẽ hắn cho rằng mấy chữ này đã đủ cho Lỗ Nhất Khí hiểu ra.
-Là do nước biển xói mòn. Hòn núi này trước kia là đảo, nước biển bao quanh, về sau nơi đây mới được bồi lắng dần dần mà thành đất liền. – Hứa Tiểu Chỉ giải thích rõ ràng hơn, dù gì hắn cũng thông thạo địa lý của vùng đất này hơn Sa Khẩu.
-Ồ! Ồ! – Lỗ Nhất Khí thốt liền hai tiếng. Bình thường hiếm khi thấy cậu có biểu cảm khoa trương như vậy.
Trong lúc đi, lão mù đã nghe ra một chi tiết, đó là hơi thở và nhịp bước của Tả Thiết Cống và Hứa Tiểu Chỉ từ đầu tới cuối luôn phối hợp nhịp nhàng với từng cử chỉ của Lỗ Nhất Khí. Hai người này đều mới gặp Lỗ Nhất Khí lần đầu, lại chưa hiểu rõ năng lực của cậu, tại sao lại có thể phối hợp nhịp nhàng đến vậy? Lão kín đáo chạm đầu gậy vào mé ngoài mắt cá chân của Sa Khẩu. Đây là một ám hiệu phổ biến trong phường đạo tặc vùng Tây Bắc, có nghĩa là “lùi về phía sau bên mé trái, theo dõi kỹ lưỡng những người phía trước”.
Song Sa Khẩu lại không hiểu được ám hiệu này, vẫn tiếp tục bám sát phía sau Lỗ Nhất Khí. Như vậy, bên cạnh hắn có Tả Thiết Cống, sau lưng có Hứa Tiểu Chỉ, dù là kẻ nào đột ngột hành động, cũng đều cực kỳ bất lợi với hắn. Nhưng bên cạnh đó, đây cũng là vị trí tốt nhất để lấy thân mình che chắn cho Lỗ Nhất Khí.
Đám người giống như một đoàn du khách nhàn tản, lững thững bước đi, không nhanh không chậm, vừa đi vừa ngó quanh, song khác là ở chỗ hướng đi của họ là nơi khách du lịch bình thường ít khi bén mảng. Chỉ một lát sau, họ đã tới mé chính bắc của ngọn núi. Núi Sói quả là quái lạ, ba mặt đông, nam, tây đều có sườn núi thoai thoải trải dài, duy chỉ có mặt bắc cứ như bị chém phăng đi, chỉ còn trơ lại vách núi dựng đứng.
Lỗ Nhất Khí bước tới điểm chính giữa phía dưới vách núi, lúc này cậu mới nhận ra, chỉ có một nửa vách núi phía trên là gần như dựng đứng, toàn là đá tảng màu tím lộ hẳn ra ngoài. Còn một nửa phía dưới vẫn có thể coi là một sườn dốc, do bùn đất từ trên núi lăn xuống tích tụ mà thành, bởi vậy mọc đầy rêu xanh, dây leo, cỏ rối, cây bụi tạp nham, thành một trảng dày kín mít, chỗ héo chỗ xanh.
-Chính là đường này! – Giọng nói của Lỗ Nhất Khí bỗng trở nên khác lạ, càng quái lạ hơn nữa là ánh mắt của cậu bỗng trở nên mờ mịt, thần trí mơ hồ. Mọi người còn chưa kịp phản ứng, cậu đã lồm cồm bò ngay lên sườn dốc, bộ dạng hết sức lóng ngóng vụng về. Sườn đất rất dốc, lại thêm bùn đất cỏ khô trơn tuột, nên chưa leo nổi vài bước, cậu đã trượt xềnh xệch xuống. Song cậu giống như một con rối đã lên căng dây cót, lập tức đứng ngay dậy, tiếp tục leo lên. Cứ thế leo lên lại trượt xuống, trượt xuống lại bò lên.
Leo bốn lần thì cả bốn lần cậu đều trượt xuống. Tới lần thứ năm thì Hứa Tiểu Chỉ đã nhanh nhẹn tranh lên phía trước, mười ngón tay sục vào trong đám bùn nhão cỏ khô một chọc một đào, bới thành một cái hố to bằng miệng bát. Nhờ một hàng hố đào sẵn nối nhau, cuối cùng Lỗ Nhất Khí đã leo tới điểm giao nhau giữa sườn dốc và vách núi dựng đứng, dừng lại và đứng vững vàng ở đó. Trong lúc đó, Hứa Tiểu Chỉ tiếp tục leo phăm phăm lên vách đá thẳng đứng. Hắn hoàn toàn dựa vào sức mạnh của đầu ngón tay, bấu vào các khe hở và mấu đá nhô ra trên vách núi để đu người leo lên, nhìn vào đó có thể thấy được phần nào công lực kinh người của các ngón tay.
Sa Khẩu từ đầu chí cuối vẫn kè kè bên Lỗ Nhất Khí, bên tay phải cầm con dao tam giác mang móc câu nhọn hoắt, bên tay trái cầm con dao cạo mũi nhọn ba khe, dùng hai con dao thay nhau cắm vào sườn dốc để leo lên.
Tại vị trí đứng của Lỗ Nhất Khí lúc này phủ một lớp dây leo dày đặc, lơ thơ vài đám cỏ rối cây bụi nhấp nhô. Lỗ Nhất Khí chật vật lần mò trong đám dây leo cỏ tạp một hồi lâu, song chẳng tìm được gì cả. Bởi lẽ bùn đất phủ dày và đám gốc rễ chằng chịt của dây leo mọc lâu năm đã gây cản trở đến cảm giác của cậu.
Trên đỉnh vách núi dựng đứng, có vài cặp mắt vừa theo dõi sát sao nhất cử nhất động của Lỗ Nhất Khí, vừa cố gắng che giấu sự tồn tại của chúng, ngay cả động tác chớp mắt cũng vô cùng chậm rãi. Trong những lùm cây bụi rậm rạp phía tây sườn dốc, sau rặng lau lách khô úa ven ngòi nước phía đông chân núi, cũng lẩn lút những cặp mắt như vậy. Và thứ gây cho Lỗ Nhất Khí cảm giác bức bối ngột ngạt nhất, chính là cặp mắt ở phía sau gốc cây to tại chỗ ngoặt trên con đường phía đông, một cặp mắt rừng rực sát khí.
Lỗ Nhất Khí rùng mình ớn lạnh, song chỉ là rùng mình mà thôi. Liền sau đó, cậu cất giọng rành mạch nói với Sa Khẩu:
-Giúp tôi đào đám bùn đất này lên, tôi muốn xem tầng đá phía dưới!
Mũi nhọn góc cạnh của con dao cạo trong tay trái Sa Khẩu dịch sang phải chừng một thân hình, rồi cắm thật sâu vào một khe nứt rất mảnh. Móc câu nhọn trên con dao bên phải buông ra, cơ thể vạm vỡ của hắn lập tức đu sang, con dao tam giác cạo xèn xẹt một nhát dài trên vách đá phía trước mặt Lỗ Nhất Khí.
Chỉ một nhát dao, đám dây leo, cỏ rối, bùn đất trước mặt Lỗ Nhất Khí đã sạch bong, lộ ra một vách đá phẳng phiu màu tím sẫm. Trên vách đá chằng chịt những đường nét dọc ngang rối loạn, Lỗ Nhất Khí vừa liếc mắt đã nhận ra đây là một trong những kỹ pháp khắc gỗ cổ xưa của Lỗ gia: hoa văn Sấu trang (cọc mảnh). Kỹ pháp này được xếp bên ngoài Lục công, từ lâu đã không còn sử dụng nữa, chỉ còn một đoạn ghi chép ngắn ngủi và hình vẽ mẫu còn lưu trong “Ban kinh”. Song lại có rất nhiều kỹ pháp biến thể từ kỹ pháp này, đã bộc lộ trọn vẹn được nét tinh diệu trong kỹ nghệ của Lỗ gia.
Hoa văn Sấu trang trên vách đá được khắc khá nông bởi loại dụng cụ bằng sắt, nhìn vào cách thức hạ dao “đầu vót thân thô” chân phương và nét hoa văn giản dị không hoa mỹ, có thể phán đoán niên đại của chúng đã rất lâu đời.
Song những đường nét hoa văn ở đây lại không mang một ý nghĩa cụ thể nào, Lỗ Nhất Khí đã đưa ra kết luận này dựa vào cảm giác. Do vậy, cậu nghĩ rằng đây rất có thể chỉ là một tấm màn che mắt, nhằm giấu đi một thứ gì đó bên trong. Quả nhiên, cậu đã mau chóng phát hiện ra những đường nét tinh vi hơn xen kẽ giữa những đường hoa văn Sấu trang, không biết là hình vẽ hay chữ viết. Do hoa văn Sấu trang đan xen chằng chịt, đã cắt đứt, che phủ hoàn toàn những đường nét mong manh, nên không thể nào nhận ra manh mối.