Viêm Hoá Lôi đã dẫn dắt thế lửa lan toả tới khắp mọi ngóc ngách bên ngoài chùa. Dựa vào thân thủ của ông, trời còn chưa sáng, nơi cần cháy đều đã cháy, nơi cần lan đều đã lan, nơi cần chuẩn bị đều đã chuẩn bị xong xuôi. Bởi vậy Viêm Hoá Lôi bắt đầu lo lắng cho đứa con gái nuôi. Ông biết, chỉ cần Lỗ Nhất Khí vẫn còn ở đây, đứa con gái này nhất quyết sẽ quay lại tìm cậu ta. Nên chỉ cần tìm được Lỗ Nhất Khí, sẽ gặp được Dưỡng Quỷ Tỳ.
Viêm Hoá Lôi đã lẻn vào chùa qua cửa chính. Tuy ông ta không phải là cao thủ trong nghề khảm tử, song trước đó đã có mấy lượt người ra vào, toàn bộ khảm nút đều được phá giải. Bởi vậy ông cứ thẳng đường mà đi, cho đến tận phía trước vách đá bích hoạ.
Ông tới thật đúng lúc. Vừa bước lên con đường đá phía trước vách bích hoạ, đã nhìn thấy ba mỹ nữ đang căng thẳng đối đầu, đám cao thủ cũng đã bao vây tới. Thế là Viêm Hoá Lôi đột nhiên lại sa vào giữa cục, một mình đối mặt với vài chục cao thủ.
Đa số cao thủ đều đã chứng kiến bản lĩnh của Viêm Hoá Lôi khi ở bên hồ Tiên Tề. Bởi vậy vừa nhìn thấy Viêm Hoá Lôi xuất hiện, chúng lập tức dừng ngay lại. Cảnh tượng thảm khốc của đồng bọn sau khi bị lửa độc của Viêm Hoá Lôi thiêu đốt, cho tới lúc này vẫn hiện rõ mồn một trong tâm khảm chúng. Một số ít cao thủ chưa gặp Viêm Hoá Lôi thấy đa số đồng bọn đều khựng lại, cũng vội dừng bước. Cục diện đối đầu của ba mỹ nữ trước vách bích hoạ bỗng chốc biến thành cục diện bất động của cả mấy chục người.
Song kỳ thực, Viêm Hoá Lôi đang rất hoang mang. Thuốc pháo chứa độc đã dùng hết ngay từ trận chiến bên hồ Tiên Tề, còn hoả liệu bình thường cũng đã dùng gần hết để phóng hoả bên ngoài chùa, giờ chẳng còn lại bao nhiêu. Tuy trận thế hình rẻ quạt của đám cao thủ tạm thời dừng lại, song tại thời điểm này, tại nơi này, xuất hiện cách cục đối đầu bất động như vậy, sẽ vô cùng bất lợi cho bản thân. Ông cần phải tìm ra một phương pháp đáng tin cậy để kết thúc cục diện này. Nghĩ vậy, ông lập tức quan sát kỹ lưỡng tình hình xung quanh, muốn tìm ra cơ hội có thể lợi dụng.
Song nơi đây lại là cứ địa cực kỳ quan trọng của Chu gia, bố cục thiết kế cực kỳ nghiêm ngặt, muốn tìm ra cơ hội và không gian có thể lợi dụng là rất khó. Chính vào lúc Viêm Hoá Lôi gần như tuyệt vọng, thì thế lửa ngoài chùa đột nhiên biến đổi. Một vầng lửa rừng rực bay dạt theo cơn gió trùm núi táp thẳng vào trong chùa. Lại thêm rất nhiều đốm lửa, tàn lửa bay tới tấp qua chùa, rơi xuống chân núi Thiên Thê.
Viên Hoá Lôi nhìn thấy cảnh tượng này, thầm reo trong dạ: “Lửa này có thể dùng!”.
Dương Tiểu Đao đã không còn đường để chạy, đúng hơn là không còn sức để chạy. Vách núi phía trước vỡ lở đổ xuống, có độ dốc, cũng có đá tảng lổn nhổn làm chỗ giẫm chân mượn lực để trèo lên. Nhưng Dương Tiểu Đao biết đã không kịp nữa rồi. Tiếng bước chân đuổi theo đã nghe rõ mồn một, có lẽ chỉ còn cách khoảng năm bước. Bởi vậy, Dương Tiểu Đao thấy leo lên vách đá chẳng bằng quay lại, trốn chạy chẳng bằng liều mạng quyết chiến. Đây là lựa chọn bất đắc dĩ, song trong tình thế này lại không thể không làm.
Thế là gã xoay người, xuất đao! Phía sau vọng lại tiếng rú thảm thiết.
Đao chém hụt vào khoảng không. Bởi lẽ chính vào lúc Dương Tiểu Đao dừng bước xoay người, thì hai cao thủ đuổi ở trên cùng cũng khựng lại quay ngoắt ra sau.
Tiếng rú thảm thiết phát ra từ cuối đoàn cao thủ truy đuổi. Ở đó có thân rắn dài uốn lượn như gió, có xẻng lưỡi cày múa vùn vụt, phản chiếu ánh nắng rạng rỡ và ánh lửa rừng rực quét thành hào quang kín trời. Hào quang tới đâu, kiếm đao gãy vụn, sắt thép đứt lìa.
Nhìn vào hai món binh khí đặc biệt, đủ để biết kẻ vừa chui từ dưới đất lên là Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập.
Sau khi hai đệ tử của Mặc gia chết một cách bí hiểm, mọi người rã đám, đường ai nấy đi. Quỷ Nhãn Tam và Biện Mạc Cập trước đó chưa từng giao thiệp, cũng chẳng hiểu rõ về nhau, bởi vậy không đi cùng nhau. Hơn nữa kể từ ngày mặt mũi bị huỷ hoại nghiêm trọng, Quỷ Nhãn Tam không muốn đồng hành với bất cứ ai, trừ khi có Lỗ Nhất Khí đi cùng.
Quỷ Nhãn Tam đi theo đường âm minh, tức là tìm mộ mà đi. Trên vùng đất Tạng rộng lớn, có rất nhiều ngôi mộ là nơi chôn cất thi thể của thương nhân chết dọc đường. Loại mộ này thông thường đều ở gần đường qua lại, nên cũng tương tự như những mốc lộ giới. Hơn nữa đi theo đường mộ, có thể tránh được nguy cơ đụng độ với quân phục kích phía Chu gia, nên an toàn hơn hẳn.
Đường Biện Mạc Cập đi là đường người ngựa. Hắn là cao thủ đánh xe ngựa, chỉ cần đường nào có người ngựa đi qua là hắn nhận ra ngay. Trên đường đi, hắn nhặt nhạnh được một số vật liệu phế thải, chế ra một cỗ xe ngựa theo kỹ pháp trong “Ban kinh”. Sau đó lại mượn được một con ngựa cái của một người Tạng gặp trên đường, dùng ngựa cái làm mồi nhử, dụ được hai con ngựa hoang, huấn luyện chúng thành ngựa kéo xe. Và thế là hắn đã có được một cỗ xe ngựa kéo.
Vài ngày trước, nhân lúc đêm tối, Quỷ Nhãn Tam đã lẻn đến chân núi Thiên Thê. Sau đó dùng phương pháp tìm kiếm tung tích của phái Mao Sơn để lần tìm tông tích khác lạ, phát hiện thấy trong chùa Kim Đỉnh có sự bất thường. Là vì trong vườn thú sau chùa, ngoài bầy thú do Báo Cơ nương nương thuần dưỡng, còn có đám người mất hồn mà lão thầy cúng đã dùng xe chở đến. Người mất hồn thì một nửa đã thành xác chết, nên trên mình cũng mang theo tử khí. Thuật tìm tông tích Mao Sơn của Quỷ Nhãn Tam nhận biết được tử khí.
Sau khi tìm ra sự khác thường, Quỷ Nhãn Tam bèn âm thầm đào hang từ đầu tường vây phía tây, men theo chân núi mà chui vào chùa Kim Đỉnh. Hắn muốn lẻn vào trong chùa thám thính tình hình, đồng thời cũng muốn thu lượm tin tức của Lỗ Nhất Khí.
Quỷ Nhãn Tam đào hầm xuyên qua lòng đất vào trong chùa, đây là điều mà người Chu gia không thể ngờ tới. Người Chu gia vốn cho rằng dưới chân núi toàn là đá tảng, không thể đào qua. Bởi vậy, bọn họ đã không bố trí thiết bị cảnh báo và khảm nút ở dưới đất.
Kỳ thực núi Thiên Thê tuy cao lớn hùng vĩ, song chất đá, chất đất lại rất tơi xốp, đặc biệt là ở dưới chân núi. Nguyên nhân của hiện tượng này có lẽ do đỉnh núi là nơi hút âm, nên chân núi sẽ là nơi phân tán âm. Xẻng lưỡi cày của Quỷ Nhãn Tam cứng rắn sắc bén, công lực dời non phá núi của hắn cũng thuộc dạng siêu phàm, chỉ trong vòng hai ngày, hắn đã đào tới sát vườn thú trong chùa.
Biện Mạc Cập cũng xâm nhập vào thị trấn lúc nửa đêm. Hắn từng đánh xe chở hàng qua đây, vì thế tình hình nơi này với hắn không hề lạ lẫm. Thật ngẫu nhiên, hắn đã phát hiện ra Quỷ Nhãn Tam, hơn nữa sau khi Quỷ Nhãn Tam chui vào trong hầm để đào bới, hắn đã kết roi ngựa thành một nút thắt đoạn hồn đặt sẵn ở cửa hang. Quỷ Nhãn Tam vừa thò ra khỏi hang, cần cổ lập tức bị khoá chặt. Đương nhiên, Biện Mạc Cập không giết Quỷ Nhãn Tam, không giết Quỷ Nhãn Tam chứng tỏ hắn không giết đám đệ tử Mặc gia.
Cách làm của Biện Mạc Cập quả nhiên là một chứng cứ hết sức thuyết phục. Quỷ Nhãn Tam đã tin tưởng hắn, và hai người bắt đầu liên thủ, âm thầm theo dõi biến động trong chùa, sẵn sàng tiếp ứng cho Lỗ Nhất Khí.
Đêm này, Quỷ Nhãn Tam một mình xuống hang, chuẩn bị đào nốt chút đất đá cuối cùng nối thông với vườn thú. Biện Mạc Cập giúp hắn canh gác ở cửa hang. Khi trời gần sáng, trong thị trấn đột nhiên có biến, Biện Mạc Cập lập tức chui xuống thông báo cho Quỷ Nhãn Tam biết. Quỷ Nhãn Tam bèn đào thông đất đá, chui vào vườn thú, dùng bùa chú Mao Sơn phong toả đám người mất hồn. Bởi vậy, mặc dù trong chùa náo động như chợ vỡ, song đám người mất hồn lại không hề ra tay sát phạt.
Đào hang dưới chân núi, dù đất đá có tơi xốp đến đâu cũng không thể đào quá sâu, nên trên nóc hang chỉ phủ một lượt đất nổi và đá vụn. Khi hai người luồn qua đoạn hầm bên dưới bãi Thần Hô, nhìn qua khe đá lên trên, họ nhìn thấy Dương Tiểu Đao đang lâm vào cảnh nguy khốn, bèn lập tức phá đất xông lên khác nào xác chết đội mồ.
Xẻng lưỡi cày sắc bén không gì cản nổi, nên đám cao thủ Chu gia liền thay đổi chiến thuật thực hư cùng tồn tại, vài tên dàn hàng cùng giao chiến với Quỷ Nhãn Tam, tên thì xuất dụ chiêu, tên thì xuất hư chiêu, chờ đợi thời cơ để xuất thực chiêu.
Mãnh hổ khó địch bầy chồn. Một cặp mắt, một đôi tay không thể đối chọi với hơn chục cặp mắt, đôi tay, huống hồ Quỷ Nhãn Tam chỉ còn một mắt. Đối đầu với một dãy cao thủ dàn hàng tần công, tốt nhất nên bắt đầu từ điểm đầu mút rồi hạ từng tên một. Do đó Quỷ Nhãn Tam từ từ di chuyển tới một đầu của đội hình. Song đối thủ nhanh chóng nhận ra ý đồ của Quỷ Nhãn Tam, lập tức phản ứng lại.
Dương Tiểu Đao và Biện Mạc Cập cũng gặp phải khó khăn tương tự. Dương Tiểu Đao sử đao nhanh, Biện Mạc Cập đánh roi lợi hại, bởi vậy đối thủ cũng dàn thành hàng ngang đối phó với từng người một. Dương Tiểu Đao, Biện Mạc Cập và Quỷ Nhãn Tam cùng nghĩ ra một phương pháp giống nhau, còn đối thủ cũng ứng phó theo cùng một cách. Bởi vậy, bước chân di chuyển mỗi lúc một nhanh, đều muốn đuổi tới phía đầu đội ngũ.
Cao thủ Chu gia biết rõ, phía mình dàn thành hàng dài, người đông nên tốc độ bước đi không thể thống nhất. Nếu gia tăng tốc độ, nhất định sẽ không thể theo sát nhau. Thế là ba hàng ngang dần dần xoay chuyển áp sát nhau, đầu đuôi nối liền, tạo thành khảm cục Tam giác xoay, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.
Tam giác xoay xuất hiện sớm nhất trong “Kiến Đường chí”, Đơn Hùng Tín chỉ dẫn theo sáu mươi tráng sĩ mang đao xông vào doanh trại quân Đường, sáu mươi tráng sĩ đã vận dụng trận pháp “Tam giác xoay”.
Hình tam giác là hình dạng kiên cố nhất trong các hình hình học. Tam giác xoay chính là ba hàng tổ hợp thành một hình tam giác, có thể liên tục xoay chuyển, co duỗi tuỳ ý. Ngoài ba cạnh đều có thể hướng đao ra ngoài xoay tròn mà tàn sát, vào lúc cần thiết còn có thể nhốt đối thủ ở bên trong, sau đó ba mặt đồng thời xoáy vào trong mà giết.
Ba người Quỷ Nhãn Tam chưa từng gặp phải khảm trận Tam giác xoay, bởi vậy mới đầu vẫn chưa chú ý tới. Tuy nhiên, rất nhanh sau đó, họ đều cảm giác thấy có điều bất ổn. Bởi lẽ sau khi ba hàng người tụ lại một chỗ, dù họ di chuyển với tốc độ nhanh tới đâu, cũng không thể tìm thấy đầu hàng. Ngược lại, lại thành ra hình tam giác xoay tròn luôn có một cạnh đuổi theo họ, lúc này có muốn dừng cũng không dừng được.
Ba người tìm cách di chuyển ra ngoài, xông ra khỏi cục thế xoay tròn. Tuy nhiên họ vừa di chuyển, các cạnh của hình tam giác lập tức kéo dài ra, khí thế ép tới càng thêm dữ dội. Đôi bên vô hình trung đã hoán đổi vị thế cho nhau, vừa rồi là vội vã đuổi tới đầu hàng, bây giờ lại trở thành cuống cuồng né tránh. Cả ba người đều hiểu rõ, nếu bị một cạnh chạm phải, sẽ lập tức thịt nát xương tan.
Và thế là tại mé tây nam của chân núi Thiên Thê, xuất hiện một cảnh tượng vô cùng kỳ quái. Một hình tam giác người đao kiếm tua tủa đang xoay vùn vụt, trước mỗi cạnh của hình tam giác này đều có một người đang cuống cuồng chạy theo vòng xoay, song trông họ hoảng hốt và thảm hại hơn hẳn những người trong đội hình tam giác.
Trên núi, Chu Chân Mệnh thẳng tay từ chối sự nhiệt tình của Lỗ Nhất Khí. Hắn cảnh giác lùi lại hai bước, không để Lỗ Nhất Khí đang tươi cười hớn hở áp sát.
Lỗ Nhất Khí không để ý tới điều đó, vẫn nói với Chu Chân Mệnh bằng giọng điệu như một kẻ tri giao:
– Tôi đang đợi ông đấy! Đã nói là cùng khai quật Thiên bảo, sao giờ mới tới?
– Vậy hà cớ gì phải lén lút mò vào trong chùa? – Chu Chân Mệnh khinh khỉnh đập lại một câu.
– Ai nói tôi lén lút? Tôi vào đây ồn ào thế kia mà, chắc chắn ông có nghe thấy! – Lỗ Nhất Khí cười mà nói, song ngữ điệu vẫn có chút ngượng ngập.
– Nếu như cùng nhau khai quật Thiên bảo, vậy thì ngươi hãy bày tỏ thành ý giống như ta lần trước, giao bảo bối trong tay ngươi cho ta, được chăng? – Chu Chân Mệnh thẳng thừng áp đảo.
– Đương nhiên là được. Thứ này vốn đã cho Chu gia các người lâu rồi, xưa nay vẫn để nguyên tại viện trong viện ở Bắc Bình, tại các người không cần nên tôi mới mượn tạm dùng trước! – Lỗ Nhất Khí nói đoạn, bèn thò tay vào ngực áo lấy ra tấm thẻ ngọc đánh dấu tám vị trí hung huyệt.
Chu Chân Mệnh nhất thời không kịp phản ứng, còn Đao Thập Lục chỉ biết trợn mắt ra nhìn.
Thẻ ngọc đã được lấy ra, chìa về phía trước, song Chu Chân Mệnh vốn dĩ rất mực thận trọng lại không đưa tay ra cầm. Lỗ Nhất Khí bèn ngồi xuống, đặt tấm thẻ ngọc xuống đất, rồi nói:
– Hãy nhìn xem đây có phải là thứ ông cần không. Nếu còn chưa thoả mãn, chúng ta sẽ thương lượng một điều kiện khác. Tôi qua bên kia thăm dò một chút, nếu ông tin tưởng, có thể đi theo tôi. Quật bảo ở nơi này có lẽ cũng phải nhờ tới ông trợ giúp.
Nói vừa dứt lời, Lỗ Nhất Khí phăm phăm bước về phía một lối rẽ ngang hướng sang phía tây.
Lối rẽ này thực tình mà nói không giống một con đường, mà giống như một bậc thang. Nhìn vào vết tích, có cảm giác đoạn đường này khá giống với đoạn bậc thang phía dưới, là do con người tạo ra. Song con đường này không dài, một loáng đã tới tận cùng. Đi tiếp về phía trước, chính là vách núi sạt lở phía trên bãi Thần Hô.
Lỗ Nhất Khí tiến hành đo đạc bằng mắt và ngón tay, kết hợp với kỹ xảo trong “Ban kinh” và lý luận trong “Cơ xảo tập”, từ đó phán đoán rằng, tại nơi vách núi đổ sập này trước đây có lẽ có một toà kiến trúc trên vách đá.
Phát hiện này khiến Lỗ Nhất Khí phấn chấn hẳn lên, rất nhiều sự việc bỗng chốc đã sáng tỏ. Đoạn bậc thang phía dưới và lối rẽ ngang đi về phía tây rất có thể là lối đi mà Mặc gia năm xưa đã sử dụng khi xây dựng bảo cấu. Bảo cấu vốn được xây dựng trên vách đá, nhưng về sau không hiểu tại sao đã sập xuống theo sườn núi. Những tảng đá có đục lỗ trên bãi Thần Hô rất có thể là nguyên liệu dùng để xây dựng bảo cấu năm xưa.
Lỗ Nhất Khí lại quan sát cẩn thận vách đá lở một lần nữa. Bên trên vách đã cũng có nhiều lỗ thủng, kích cỡ khác nhau, vuông tròn có đủ, có lẽ dùng để bắt xà cột vì kèo.
Trong lúc Lỗ Nhất Khí đang mải quan sát, suy nghĩ thì Chu Chân Mệnh và Đao Thập Lục cũng đã bước tới. Chu Chân Mệnh nắm khư khư tấm thẻ ngọc trên tay, như thể đang nắm lấy tính mạng của chính mình.
Đao đầu đi phía sau Chu Chân Mệnh, ánh mắt rất đỗi âm trầm tán loạn, khiến người khác không thể đoán lường.
– Núi này chí âm trên đỉnh, dương ở dưới chân, vốn là cách cục hung tướng đảo lộn vị trí, song lúc này lại biến thành dương tăng âm giảm, cục tướng hoàn toàn đổi ngược! – Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm trong miệng, song không nhìn Chu Chân Mệnh.
– Cho dù có sự bất thường nào làm rối loạn cân bằng âm dương, cũng phải là cái này tăng cái kia giảm, chứ không thể đảo ngược hoàn toàn như vậy! – Lỗ Nhất Khí vẫn lẩm bẩm một mình.
– Xuất hiện cục tướng như vậy có một khả năng, chính là một trong hai khí âm dương ở trong trạng thái mạch dài, khí còn lại trong trạng thái bao phủ. Khi một trong hai khí tướng đó biến đổi, khí còn lại lập tức xoay ngược. Lý luận này từng được nói sơ qua trong cuốn “Âm dương đạo khí giải” của Phạm Sĩ Đôn thời Nam Đường. – Chu Chân Mệnh tiếp lời Lỗ Nhất Khí.
Lỗ Nhất Khí như ngủ mê chợt tỉnh, ngoảnh đầu nhìn Chu Chân Mệnh, ánh mắt vô cùng quái dị.
Chu Chân Mệnh bất giác rùng mình ớn lạnh, như thể có một đường đao lạnh buốt rạch dọc sống lưng.
Lỗ Nhất Khí đã lập tức hoàn toàn thấu tỏ cách cục phong thuỷ kỳ tuyệt của nơi này. Điểm nghi vấn mà cậu phải vắt óc suy nghĩ suốt bấy lâu vẫn chưa có được lời giải, vậy mà chỉ một câu nói của đối thủ, đã lập tức tìm ra đáp án.
Hình huyệt của hung huyệt nơi đây có hình mạch dài, nên khí trên dưới lưu thông. Nhìn vào nền móng bảo cấu do Mặc gia xây dựng, thì thấy rằng họ đã lựa chọn được nguyên liệu và nền móng cực tốt, hơn nữa còn chọn áp dụng công nghệ đổ móng bằng sắt, theo lý mà nói thì không thể sụp đổ nhanh như vậy được. Nguyên nhân duy nhất chỉ có thể là vị trí của bảo cấu trực xung với mạch hung, trong khi Thiên bảo mới nhập phàm thế, vẫn chưa trải qua chu kỳ ba hưng ba phục, nên không trấn áp nổi hung huyệt. Do đó, khí của mạch hung mới đánh sập bảo cấu.
Chu Chân Mệnh rùng mình ớn lạnh chính là vì đao phong. Khi Chu Chân Mệnh đang giúp Lỗ Nhất Khí phân tích cục tướng, trạng thái cơ thể có phần sơ hở, Đao Thập Lục đã chớp lấy cơ hội đột nhiên giở quẻ. Thế xuất đao của gã vô cùng quái dị, dang hết cả hai tay hai chân, rồi rung lắc liên hồi. Bỗng dưng xuất hiện vô số xoáy khí từ cơ thể gã khuếch tán ra ngoài. Nhưng dù là cơ thể đang mở rộng hay xoáy khí đang khuếch tán, cuối cùng cũng là nhằm bọc kín Chu Chân Mệnh vào trong.
Chu Chân Mệnh đã cảm nhận thấy đao khí, hơn nữa còn nhìn thấy đao quang phản chiếu trong ánh mắt Lỗ Nhất Khí. Thứ đao quang đó ổn định như ráng chiều, chắc chắn như vách núi. Đây là thứ đao được đúc luyện từ cơ thể và tính mệnh.
Người đao mười sáu lưỡi, mười hai lưỡi trên tứ chi, hai lưỡi dưới bàn chân, một lưỡi ngậm trong miệng, tổng cộng mười lăm lưỡi đao. Còn một lưỡi đao nữa ở nơi nào? Lưỡi đao cuối cùng chính là toàn bộ cơ thể, lấy thân làm đao, lấy xương làm mũi. Khi tấn công, xương cốt ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể đều có thể dùng nội lực bẻ gãy, lòi ra ngoài da thịt, đâm chết đối thủ. Như vậy, có thể tuỳ theo ý muốn mà tiến hành tấn công đối thủ tại những vị trí kín đáo nhất, khó lường nhất, và cũng gần sát với vị trí hiểm yếu của đối thủ nhất. Đương nhiên, xuất đao kiểu này càng nhiều, sẽ càng gây tổn thương nặng nề cho bản thân. Chiêu lợi hại nhất chính là ôm lấy đối thủ cùng về cõi chết. Thế đao thứ mười sáu, không phải tất cả người đao mười sáu lưỡi đều biết sử dụng. Song Đao Thập Lục là Đao đầu, là thủ lĩnh, đương nhiên phải biết.
– Đưa bảo bối cho ta! – Đao Thập Lục chưa động thủ ngay, tuy rằng lúc này kình lực và nội khí của gã đã tích tụ tới cực điểm.
– Bảo bối nào? – Chu Chân Mệnh trong vẻ điềm tĩnh dấy lên chút nghi hoặc.
– Bảo bối trong tay môn trưởng!
– Ngươi cần nó làm gì? – Chu Chân Mệnh vẫn không thể hiểu nổi. Đao đầu Đao Thập Lục do một tay Chu gia nuôi dưỡng huấn luyện, tại sao lúc này lại có hành động kỳ quặc đến thế?
– Dựa vào bảo bối, sẽ thành bậc chí tôn trong thiên hạ. Việc tốt lành như vậy hôm nay phải thuộc về ta! – Đao Thập Lục đã bị Chu gia yểm bùa chú trùng độc trong người, nhưng lúc này gã dám gây chuyện phản nghịch, chắc hẳn khi ra ngoài đã tìm được cách hoá giải trùng độc.
– Nói cũng phải lắm! Chu gia các người đã từng làm hoàng đế, giờ nhường lại cho người khác cũng là hợp lý. Hơn nữa, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, tình hình của ông lúc này cũng hệt như tôi vừa nãy, chẳng phải tôi đã vui vẻ đưa bảo bối cho ông rồi ư? – Lỗ Nhất Khí đang cổ vũ Đao Thập Lục tiếp tục làm tới, như vậy có thể tranh thủ thêm chút thời gian.