Chương 13 : Chuyện ma trong núi

Chuyện ma trong núi

Bức bích họa thiên cẩu ăn mặt trăng vẽ hình xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn, người chết thủng ruột trong chiếc quan tài bằng ngọc. Với ngôi mộ trên núi đó, tôi cũng chỉ biết có vậy. Nếu vào được trong hầm mộ, tôi tin sẽ còn nhiều phát hiện kinh người nữa. Chúng tôi đi qua loạt động trong Thảo Hài Lĩnh một cách thuận lợi, khắp nơi đều có hang động, mỗi động một vẻ, nhưng trong con mắt giới đổ đấu chuyên nghiệp, thì cho dù các hang động có hình thù cổ quái tới đâu cũng không nằm ngoài mười tám loại hình hang động đã được tổng kết, phong thủy gọi là “sơn trung thập bát khổng” mỗi loại có một cách đi riêng, tôi từng nghe lão Nghĩa mù giới thiệu, trong cuốn “Âm Dương bảo kíp” của nhị lão đạo cũng có nói tới. Muốn ra khỏi động Hoàng Sào không phải là khó. Quá trưa, chúng tôi tới phía nam Thảo Hài Lĩnh, ba phía đều là những ngọn núi cao vút, cho dù có chắp thêm cánh cũng không bay qua được, diện tích hồ rộng 370 hecta nằm giữa các dãy núi, ven hồ mọc đầy lau sậy, phía xa là màu sương mù, trắng đục. Năm xưa, mực nước hồ Tiên Đôn cao hơn bây giờ rất nhiều, nước trong hồ thông thẳng vào động Ngư Khốc, cá trong động chưa hẳn là cá thần, những truyền thuyết như vậy vốn không có căn cứ. Người xưa vốn nhàn hạ, sau bữa tối thì rảnh rang không có việc gì làm, ngoài chuyện sinh con ra thì chuyên nghĩ ngợi linh tinh rồi kể chuyện, bốn tác phẩm văn học lớn của Trung Quốc cũng được ra đời như vậy mà thôi. Nhưng núi Hùng Nhĩ là một bảo huyệt trong dãy núi long mạch của Trung Nguyên, những chỗ nước rút giờ đã thành đầm lầy, là nơi cư trú của vịt trời và chim nhạn.

Điếu bát che tay ngang trán nhìn ra xa: “Mộ cổ dưới hồ Tiên Đôn chắc chắn ở bên kia, tôi đã nhìn thấy bảo khí toát lên từ địa cung.”

Tôi nói: “Anh đừng vội nhắc đến điều đó, chúng ta đã bỏ qua một tình tiết hết sức quan trọng, làm thế nào để ra hồ đây?”

Điếu bát và Mặt dày nghe tôi hỏi thì ngẩn người, chẳng ai nghĩ tới việc quanh Tiên Đôn tứ bề đều là nước, không có ghe thuyền thì không thể qua hồ, bơi thẳng ra thì cũng không được phần vì hồ rộng, phần còn phải mang vác xẻng, dây thừng, lương khô, đèn pin, túi ngủ v.v… trọng lượng chiếc ba lô không phải là nhẹ, xuống nước chắc chắn sẽ chìm xuống đáy hồ luôn. Hai nữa, nghe nói dưới đáy hồ có cương thi, đó là những xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, chúng tôi to gan đến mấy cũng không dám lội thẳng xuống nước. Ba người bàn bạc một hồi, quyết định xuống hồ từ phía núi Thương Mã, tới đầm Canh gà trước. Nghe nói, người dân vẫn hay vào trong đầm nhặt trứng vịt trời, có thể ở đó sẽ có thuyền bè để lại.

Chúng tôi không mang nhiều lương khô, dọc đường lại bị chậm một ngày, như vậy thời gian đào mộ cũng bị giảm bớt đi một ngày. Sau khi lên kế hoạch, chúng tôi tìm đường xuống núi. Nếu là mực nước năm xưa của hồ Tiên Đôn thì quả không có đường xuống thật, nhưng nay nước đã rút, phần tiếp giáp với núi Thông Mã hình thành một khu đầm lầy rộng khoảng hơn trăm mét mọc đầy lau sậy. Chúng tôi đi xuyên qua khu đầm lầy tiến về phía Nam, trước khi mặt trời lặn thì tới được đầm Canh gà. Vùng này lau sậy mọc dày đặc, mặt nước lung linh trong ánh chiều, tiếng chim nhạn kêu giữa bầu không, từng làn gió thu nhè nhẹ thổi, những bông lau bay trong gió tựa hồ tuyết rơi, cảnh vật đẹp như tranh vẽ. Nhưng trước khi tới đây chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện về cương thi hồ Tiên Đôn nên chỉ thấy phía dưới mặt hồ tĩnh lặng kia đang ẩn chứa nhiều bí ẩn.

Đầm Canh gà chỉ có một lối đi duy nhất chưa thể gọi là đường, hai bên toàn là đầm trạch, vận may của chúng tôi không đến nỗi tồi, theo con đường đó, chúng tôi tìm thấy ba chiếc thuyền độc mộc, trong đó hai chiếc đã hỏng nặng, chiếc còn lại tương đối tốt. Thuyền độc mộc là loại thuyền được đẽo từ một thân cây nguyên vẹn, có thể chở được vài ba người, dùng mái chèo để di chuyển trên nước. Điếu bát nhìn hoàng hôn dần tàn, liền nói: “Đêm nay đành nghỉ lại trong đầm lau sậy này, sáng mai đào mộ dưới hồ sau vậy.”

Chúng tôi cũng không đi nổi nữa, liền tìm chỗ khô ráo ngồi lại giở lương khô ra ăn cho đỡ đói.

Mặt dày luôn miệng chê lương khô cứng, ăn gãy cả răng, anh ta nói: “Món ăn hoang dã ngon nhất vẫn là sóc đất. Hai năm trước, khi tôi còn đóng quân ở Tây Bắc, thường chạy xe đường dài, cũng thường xuyên không có cái ăn. Nếu bắt được một con sóc đất thì coi như được đổi bữa. Bọn sóc đất này con nào con nấy béo tròn, nướng trên lửa mỡ cứ chảy ra xèo xèo.”

Điếu bát dường như cũng được ăn thịt sóc đất rồi: “Ừ… thịt nó giống thịt cầy vòi mốc, nhưng ăn thịt sóc đất phải chú ý thời gian, nếu ăn sau tiết Kinh Trập[1] nách nó sẽ bị hôi, không thể ăn được.”

[1] Tiết kinh trập: là khoảng thời gian bắt đầu từ 5/3 đến 21/3 trước khi tiết xuân phân bắt đầu.

Tôi nói: “Sao thứ gì mấy người cũng ăn vậy? Bọn sóc đất chân tay giống như người, nướng chín rồi trông chẳng khác gì thịt người nướng. Hơn nữa sóc đất rất cảnh giác, hang của chúng thường có nhiều cửa, không dễ bắt đâu.”

Mặt dày nói: “Nghe là biết chú không phải dân sành ăn rồi. Sóc đất chuyên ăn rễ cây, những vùng bị chúng cắn hết rễ cây thì không có bóng dáng cây cỏ nào, mình ăn thịt chúng chính là trừ hại cho nhà nông. Hơn nữa hang sóc đất thường có hai cửa hang, chỉ cần hun khói một đầu cửa hang, cầm sẵn gậy đứng chờ ở đầu cửa hang bên kia chờ bắt là xong, nếu có chó thì càng đơn giản hơn, không cần mình phải ra tay. Lần sau có cơ hội đi Tây Bắc tôi mời hai người ăn thịt sóc đất, hôm nay đành gặm tạm lương khô vậy. À, mà sao tụi mình không bắt vài con vịt trời nếm thử nhỉ?”

Tôi và Điếu bát nghe anh ta nói vậy thấy đây cũng là một ý hay, đúng là nên đi thám thính xem. Cả bọn cất lại mấy miếng bánh cứng còng, rón rén trong đám lau sậy tìm khắp nơi, nhưng đến một cọng lông vịt cũng không có. Bỗng thấy đám lau sậy phía trước sột soạt lay động, dường như có vật gì đó đang động đậy, tôi rón rén tiến lên phía trước, nhẹ nhàng rẽ đám sậy trước mặt, bỗng giật thót mình, suýt chút nữa bật kêu lên thành tiếng.

2

Tôi vội lấy tay bịt miệng, cúi thấp người, không dám thở mạnh, vội đưa tay ra hiệu cho Điếu bát và Mặt dày cũng nằm xuống. Hóa ra, sau đám lau sậy là một toán người khoảng hơn chục tên, đứa dẫn đầu thấp, béo tròn, khoảng ngoại tứ tuần, đầu hắn to hơn hẳn người bình thường, miệng rộng, mắt cười híp mí, lúc nào cũng thường trực nụ cười giả tạo, trông bề ngoài, hắn không khác gì bức tượng phật Di Lặc trong chùa.

Tôi và Điếu bát đều biết tên này, hắn là Hoàng Tam, mọi người đều gọi hắn là Hoàng phật gia, một tay anh chị ở chợ âm phủ. Thời trẻ bán cháo quẩy, mấy năm gần đây phát tài nhờ đi đào trộm mộ. Nghe phong thanh, Hoàng phật gia chẳng có tài cán gì, nhưng thủ đoạn rất nham hiểm, lại thêm bọn đầu gấu bám theo hắn làm ăn, chỉ cần làm giàu không cần biết đến lý lẽ. Trước đây, hắn cũng hay tới tìm lão Nghĩa mù nhờ chỉ giúp nơi nào có mộ cổ, nhưng lão Nghĩa mù đều từ chối không gặp, nhiều lần như vậy, về sau hắn cũng ít tới hơn. Tôi gần như chẳng bao giờ qua lại với hắn.

Tôi không ngờ lại gặp phải Hoàng phật gia ở đây. Hai người kia theo sát phía sau tôi, biết tình hình cũng vô cùng kinh ngạc, không ai dám lên tiếng. Thuộc hạ của Hoàng phật gia đứa nào trong tay cũng có súng trường hoặc súng lục, một số thằng còn đeo những ba lô chứa đầy thuốc nổ. Người dân địa phương ở đây có truyền thống săn nhạn và vịt trời, chỉ cần có tiền muốn mua bao nhiêu súng săn mà chẳng được, số thuốc nổ kia chắc cũng mua từ những mỏ khai thác than lậu, bọn này to gan thật.

Tôi nghĩ bụng: “Nghe nói bọn Hoàng phật gia là một đội quân đào mộ được trang bị vũ trang, quả nhiên không sai. Bọn này định dùng thuốc nổ để đi đào mộ trên núi Hùng Nhĩ chắc?”

Bỗng nghe một tên có eo gầy như eo rắn trong đám thuộc hạ lên tiếng: “Có bản đồ mộ cổ rồi còn cần người địa phương dẫn đường nữa sao?”

Một tên khác có vết sẹo trên mặt trả lời: “Bọn mình làm gì có bản đồ? Trên hồ sương mù có thể nổi lên bất cứ lúc nào, nếu không có người bản địa dẫn đường thì không ổn.”

Tên eo rắn cười hí hí nói: “Mày không biết đấy thôi, có một thằng ngu tên là Điếu bát đi rêu rao khắp nơi tìm người để lấy tấm bản đồ trong chiếc gối sứ trăm tuổi, nó vừa muốn lấy tấm bản đồ lại vừa không muốn làm hỏng chiếc gối sứ, cứ tưởng chuyện ngon đều về hết tay hắn. Chuyện này Hoàng phật gia cũng biết rồi, muốn lừa thằng ngu đó khác gì trò đùa, phật gia dặn tao lúc lấy tấm bản đồ ra thì sao lại một bản, thằng ngu Điếu bát kia có nằm mơ cũng không nghĩ tới chiêu này.”

Tên mặt sẹo giơ ngón tay trỏ lên, ngay lập tức ra giọng nịnh bợ Hoàng phật gia: “Cao tay thật! Em phục đại ca sát đất.”

Hoàng phật gia hừ một tiếng, nói: “Thằng ngu Điếu bát đó cũng không tự hỏi xem mình là ai, một thằng ngu như nó mà đòi đi đào mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ?”

Tôi và Mặt dày nghe thì biết ngay sự tình, chỉ thấy Điếu bát sắc mặt lúc xanh lúc trắng, vừa xấu hổ vừa tức giận, chỉ muốn chui đầu xuống đất, trong lòng đã chửi tổ tông tám đời nhà Hoàng phật gia rồi nhưng không dám lên tiếng. Anh ta biết rõ gặp phải bọn này thì không có kết quả tốt.

Trời đã tối hẳn, chúng tôi trốn trong đám lau sậy không dám lên tiếng, chỉ nghe thấy Hoàng phật gia nói: “Trong tay chúng ta là tấm bản đồ từ cuối đời Minh, cũng không biết bây giờ đã thay đổi như thế nào, giờ cứ tạm giữ hai người này dẫn đường.”

Lúc này, chúng tôi mới nghe thấy giọng nói rất quen thuộc cất lên: “Các ông thả tôi ra đi, nhà tôi ở tận Lão Giới Lĩnh, tôi chưa tới hồ Tiên Đôn lần nào, xa nhất cũng chỉ mới tới đầm Canh gà này thôi. Hôm nay, cô gái này nhờ tôi đưa tới đây vẽ phong cảnh, các ông làm phúc thả tôi về đi, nhà tôi còn có người già trẻ nhỏ…”

Tôi rướn người về phía có tiếng nói, hóa ra là Lư mặt rỗ, còn có cả cô gái gặp trên tàu, theo lời Lư mặt rỗ nói thì cô gái này thích vẽ tranh, nghe tôi và Lư mặt rỗ kể về hồ Tiên Đôn nên đã xuống tàu nhờ Lư mặt rỗ dẫn đường tới đây, không ngờ gặp ngay bọn Hoàng phật gia.

Hoàng phật gia cười nhạt: “Mày tên là Lư mặt rỗ? Cái tên đúng là rất hợp với bộ mặt của mày. Sao không nói sớm là mày chưa lên núi lần nào?”. Nói rồi, hắn bất chợt cầm lấy xẻng quất luôn một cái vào giữa mặt Lư mặt rỗ, Lư mặt rỗ kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn ra đất, máu mồm máu mũi chảy đầy mặt, cơ thể không ngừng co giật, không còn kêu lên được tiếng nào nữa. Hoàng phật gia bồi thêm vài cái vào đầu Lư mặt rỗ, giết người xong mặt hắn không hề biến sắc, nói với bọn tay chân: “Đã nói với chúng mày tìm người địa phương dẫn đường, chúng mày lại tìm một thằng ngu thế này à? Mau đào hố chôn nó đi cho tao.” Bọn tay chân không dám nói lại một câu, cun cút đi tìm chỗ đất mềm đào huyệt. Tên eo rắn hỏi: “Phật gia, còn con bé kia, xử lý thế nào?” Hoàng phật gia nghĩ: “Người trên giang hồ đều mê tín, tài sắc không thể có cả hai, không thể để lỡ việc vì bọn đàn bà, đợi đào mộ cổ xong, lấy được đồ tùy táng, muốn chơi loại gái nào mà chẳng được.” Tên eo rắn mắt lim dim: “Con bé này đẹp như một đóa hoa, chôn đi thì cũng tiếc, tôi chẳng nỡ xuống tay, nhưng nghe lời Phật gia cấm có sai, việc của chúng ta đã bị nó nhìn thấy hết rồi, giữ lại chỉ là mầm họa…”

Vẫn được nghe Hoàng phật gia tâm địa độc ác, làm việc gì cũng không để lại hậu họa, nhưng chẳng ai ngờ hắn nói giết người là giết người, ra tay vừa nhanh vừa tàn nhẫn, mặt không chút biến sắc. Nếu không phải là chúng tôi nấp bên cạnh quan sát thì chỉ có trời mới biết trong đám lau sậy này đã xảy ra chuyện gì. Chúng tôi có lòng muốn cứu Lư mặt rỗ cũng chẳng kịp ra tay. Nghe bọn này còn bàn nhau chôn sống cô gái kia, tôi thấy máu nóng bốc rần rần lên mặt, đưa tay huých khẽ vào Mặt dày nháy mắt ra hiệu, hắn ta hiểu ngay ý tôi. Chúng tôi mỗi đứa nắm một vốc đất, bất thình lình ném về phía bọn kia, bọn chúng không chút cảnh giác bị cát bụi bay vào mắt, những thằng còn lại chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra. Tôi nhặt chiếc xẻng trên mặt đất phang một nhát vào đầu Hoàng phật gia, máu chảy be bét, hắn ôm đầu ôm mặt kêu thảm thiết. Mặt dày thì nhắm chuẩn vào tên eo rắn đạp một phát chí mạng, tên eo rắn lập tức miệng phun ra máu, đổ rạp xuống đất không đứng dậy được. Nhân lúc hỗn loạn, chúng tôi kéo cô gái đứng lên bỏ chạy, đồng thời ra hiệu cho Điếu bát mau chóng rút lui.

Tôi vừa chạy vừa nói với Điếu bát: “Tôi báo thù cho anh rồi nhá. Nhát xẻng đó không đánh chết được tên Hoàng phật gia coi như nó mạng lớn.”

Điếu bát giờ mới hiểu ra sự tình, nhưng cổ họng cứng lại, chỉ nói được một câu: “Quá đẹp!”

3

Lúc này nghe thấy sau lưng bọn Hoàng phật gia đang la ó đuổi theo, bốn người không dám dừng lại, chạy như bay trong đầm lau sậy dưới ánh trăng, chẳng quan tâm quần áo bị cào rách, tay chân xây xát, cho tới khi đến chỗ chiếc thuyền độc mộc. Đầm Canh gà chỉ có một con đường, đành phải đẩy thuyền xuống nước, tôi nhớ ra súng đã bị rơi trong đám lau sậy nhưng không còn cách nào quay lại lấy nữa, chúng tôi ra sức dùng xẻng và mái chèo để chèo thuyền ra phía ngoài hồ.

Hoàng phật gia mới tới đầm Canh gà, chưa có thuyền lại không thông thạo đường hướng nên không đuổi kịp chúng tôi, chúng tôi chèo được mấy trăm mét, lại có sương mù che phủ, tự thấy tạm thời không nguy hiểm nữa, liền giảm bớt tốc độ, theo phương hướng trên la bàn thì chúng tôi đang chèo về phía bắc, cả mặt hồ rộng mênh mông, sương mù bao phủ, muốn tìm một mô đất nghe chừng rất khó.

Điếu bát thấy mặt cô gái trắng bệch, biết là cô sợ, liền nói: “Em gái, không sao rồi, gặp bọn anh coi như gặp người nhà, tên Hoàng phật gia đó ác thế nào thì cũng bị người anh em đây cho xơi một xẻng vào đầu, chứ chưa cần anh ra tay, anh mà ra tay thì trên giang hồ từ đây về sau không còn người tên là Hoàng phật gia nữa đâu. Em đừng thấy anh mảnh khảnh mà coi thường, quả cân tuy nhỏ nhưng có thể giữ được ngàn cân đấy, trình độ là ở chỗ đó. À, mà em tên gì nhỉ?”

Cô gái có đôi mắt to tròn sáng như sao, trên mặt vẫn còn ngấn nước mắt, nhẹ giọng nói: “Em họ Điền, tên Mộ Thanh”.

Điếu bát nói: “Em gọi anh là anh Điếu đi, hai người kia là Bì Chiến Đấu[2] và Bạch Thắng Lợi[3]. Làm sao mà em gặp phải tên Hoàng phật gia kia thế?”

[2] Bì Chiến Đấu: Chỉ Mặt dày.

[3] Bạch Thắng Lợi: Chỉ nhân vật tôi.

Điền Mộ Thanh kể ngắn gọn đầu đuôi câu chuyện, cũng giống như tôi phỏng đoán. Cô là giảng viên Học viện Mỹ thuật, gặp Lư mặt rỗ ở trên tàu, nghe anh ta kể về Tiên Đôn nên muốn tới xem. Sau khi xuống xe cùng Lư mặt rỗ hỏi đường tới bên hồ chụp vài kiểu ảnh về làm tài liệu giảng dạy, Lư mặt rỗ cũng muốn kiếm thêm chút tiền nên nhanh chóng nhận lời dẫn đường cho cô. Do anh ta phải về nhà sắp xếp công việc nên tận hôm nay mới tới, nếu không thì cũng chẳng gặp bọn Hoàng phật gia kia. Điền Mộ Thanh kể tới đoạn cô đã liên lụy tới Lư mặt rỗ làm anh ta phải chết thì lại đau lòng.

Tôi nói: “Cũng không trách cô được, nếu không phải trên tàu tôi hỏi chuyện Lư mặt rỗ về hồ Tiên Đôn thì cô đã không nghe thấy và cũng không nhờ anh ta dẫn đường tới đây.”

Điếu bát nói: “Nói cho cùng thì cũng là cái số. Thằng ngu Hoàng phật gia đúng là chán sống rồi, nói giết người là giết người, con mẹ nó, đây là thời đại nào vậy?” Anh ta vừa nãy bị bọn Hoàng phật gia liên tục gọi là thằng ngốc, trong lòng khó chịu nên bây giờ mở miệng ra là chửi lại bọn nó.

Mặt dày không biết Hoàng phật gia, liền hỏi thằng đó lai lịch thế nào mà không coi mạng người ra gì, không lẽ là thổ phỉ ở Dự Tây?

Tôi giải thích: “Hoàng phật gia xuất thân từ một thằng bán rong, tổ tông tám đời nhà nó đều bán quẩy, đến đời nó cũng vậy. Năm nọ, hắn dùng dao đâm chết người bị bắt đi cải tạo lao động tại Tây Bắc. Tại đó, hắn quen một phạm nhân có biệt hiệu là Thành câm. Nghe nói thằng đó bị câm nhưng rất giỏi về thuốc nổ, sau khi được phóng thích, hai đứa nó đã tụ tập một lũ đầu gấu cần tiền không cần mạng, chuyên làm mấy chuyện đào trộm mộ cướp bảo vật…”

Mới kể tới đó thì sương mù xuống càng dày hơn, ánh sáng mặt trăng không soi tới mặt nước, mặt hồ tĩnh lặng kỳ lạ, thi thoảng nghe thấy xung quanh có tiếng cá búng nước.

Mặt dày lôi đèn pin ra soi, tứ bề đều là sương mù, không có la bàn thì chẳng biết đông tây nam bắc ở đâu.

Chắc do ba ngọn núi Thảo Hài, Thông Mã và Kê Lung như ba bức bình phong đã chặn hơi nước khiến sương mù trên mặt hồ tan rất chậm.

Tôi nói với Điếu bát: “Muốn sương trên hồ tan thì phải có trận mưa…” vừa nói tới đó thì nghe phía sau có tiếng người, lắng tai nghe hóa ra là bọn Hoàng phật gia, không ngờ bọn này tìm được thuyền nhanh thế.

Tôi hỏi Điền Mộ Thanh: “Bọn Hoàng phật gia có bao nhiêu người?”

Điền Mộ Thanh nói: “Tính cả hắn là mười bảy người.”

Mặt dày nói: “Súng thì bị rơi ở trong đám lau sậy rồi, tay không mà để bọn kia đuổi kịp thì có khác gì làm bia sống cho bọn nó bắn.”

Tôi nói: “May mà có sương mù, ngoài phạm vi mười mét không nhìn thấy gì đâu, chúng ta chỉ chèo thuyền thôi, không lên tiếng nữa, chèo tách xa bọn Hoàng phật gia càng xa càng tốt.”

Điếu bát nói: “Đúng… đúng thế, trứng không chọi với đá được!”

Điền Mộ Thanh cũng giúp một tay, bốn người không ai lên tiếng, cắm cúi dùng xẻng và mái chèo chèo thuyền, ai mệt rồi thì người khác thay, nhưng mãi vẫn không cắt đuôi được bọn Hoàng phật gia, thời gian từng tiếng từng tiếng trôi qua, không rõ chúng tôi đã chèo trong sương mù bao lâu, bỗng thuyền chúng tôi đâm phải một mô đất, không ngờ sương dày như vậy mà chúng tôi vẫn tìm thấy mô đất, xem ra vận may của chúng tôi đã đến, mèo mù vẫn đớp được cá rán.

4

Những truyền thuyết về mộ cổ ở hồ Tiên Đôn thì rất nhiều, có người nói đó là một ngôi mộ cổ, có người thì nói chỉ là một nấm mô, lại có người nói đó là một lăng tẩm. Cũng là nơi chôn người chết nhưng lại có sự khác biệt, nếu là nơi chôn các bậc đế vương thì được gọi là lăng tẩm, vương gia thì gọi là mộ, dân thường chỉ gọi là phần. Chỉ biết mộ trên núi Hùng Nhĩ là một huyệt mộ, nấm mộ chất cao như núi, nghe nói đường hầm trong đó ngang dọc rất nhiều, hầm mộ rất to, nhưng không biết là chôn ai, vì vậy mới có người nói là lăng tẩm có người nói là mộ. Ngôi mộ này vốn nằm trong một ngọn núi, do hàng nghìn năm trước địa chất thay đổi nên bị lún xuống rất nghiêm trọng, ngôi mộ bị chìm trong nước. Mỗi năm hạn hán lại nhô lên khỏi mặt nước được một ít. Dân gian gọi là Tiên Đôn và gọi hồ này là hồ Tiên Đôn, diện tích mặt hồ thay đổi theo mực nước lên xuống từng mùa, nhưng vẫn dao động trong khoảng 300-400 hecta, thực không hề nhỏ chút nào. Nửa đêm sương mù mờ mịt, tầm nhìn xa chỉ được mười mét, cơ may có thể tới được mô đất này rất nhỏ, không ngờ nó lại xuất hiện trước mặt chúng tôi.

Tôi thì thấy sự việc có gì đó là lạ, nhưng Điếu bát và Mặt dày đã bật đèn pin trèo lên mô đất xem xét.

Điền Mộ Thanh hỏi: “Các anh cũng đến tìm mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ sao?”

Tôi nghĩ thầm, từ lúc trên tàu Điền Mộ Thanh đã nghe tôi nói chuyện với Lư mặt rỗ về mộ cổ, nhưng chưa chắc đã biết chúng tôi cũng đi đào trộm mộ, nhưng thấy cô ăn nói gãy gọn, chứng tỏ cũng là người thông minh, mấy trò của chúng tôi không thể giấu cô ấy được, nói rõ sớm đi cho xong, liền nói với cô ấy: “Mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ động vào long mạch khiến sông Hoàng Hà ngập sang sông Hoài, nhấn chìm vô số người dân. Chúng tôi tới tìm mộ cũng là vì nghĩ cho bách tính trăm họ. Hơn nữa đồ vật là thứ vô tri vô giác, con người là sinh vật sống, chúng tôi không nhẫn tâm nhìn thấy những bảo vật này bị chôn dưới đất hoen rỉ. Chúng tôi không giống Hoàng phật gia, bọn họ chỉ là thổ phỉ, chúng tôi là vì nghĩa. Cũng giống như mô kim hiệu úy năm xưa, cô đã nghe tới cái tên mô kim hiệu úy bao giờ chưa, đó chính là đội quân người nghèo chúng ta.”

Điền Mộ Thanh ngồi ngay trước mặt tôi, gần tới mức có thể nghe thấy tiếng hơi thở của người đối diện, trong lớp sương mù dày đặc tôi không thể nhìn rõ được khuôn mặt của cô, nên lại thấy xa xăm như tận chân trời. Cô ấy không nói một lời, chỉ cúi đầu lắng nghe tôi nói.

Tôi đang định hỏi cô thì Điếu bát và Mặt dày đã thám thính quay về, nghe thấy tiếng bọn Hoàng phật gia cũng đã tới gần.

Điếu bát hoảng loạn trong lòng, hạ thấp giọng nói: “Mẹ nhà nó, sương mù dày thế mà nó vẫn mò tới được.”

Tôi nói với Điếu bát, trước đây nghe kể Hoàng phật gia có một đàn em mũi thính như chó săn, chỉ cần đứng trước mặt hắn một lúc thì hắn có thể tìm thấy mình xa hàng mấy dặm. Nếu đúng như vậy thì cho dù có chạy đi đâu cũng không cắt đuôi được bọn này.

Điếu bát kinh ngạc nói: “Thế thì gay to rồi, may mà mô đất này cũng rộng, bọn mình tìm chỗ nào đó trốn tạm đi.”

Tôi biết tình hình nguy cấp, bọn Hoàng phật gia không để cho bọn tôi trốn thoát được, nghe Điếu bát nói mô đất này rất rộng thì tôi cũng thấy lạ, nhưng tình hình đang lúc khẩn cấp nên không còn thời gian suy nghĩ nhiều.

Chúng tôi tìm thấy một cái hang, bên trong toàn là đất, liền giấu chiếc thuyền vào đó rồi leo lên mô đất.

Điếu bát dùng đèn pin soi đường, nói: “Cậu nhìn xem, đồi đất này rộng đấy chứ?”

Tôi nhìn một lượt, phía trước nhấp nhô từng mô đất kích thước tương đương nhau, chắc là còn nhiều mô đất nữa sau lớp sương mù. Có một truyền thuyết về mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ, chính giữa có một nấm mộ rất to, xung quanh có nhiều mô đất nhỏ, tôi đoán những mô đất kia có khi là nấm mộ, nhưng dùng cuốc cuốc lớp đất bên trên đi thì phía sâu bên dưới là lớp gạch ngói cổ, giống như gian nhà.

Rất nhiều năm trước, có thể có cả một thôn làng bị chìm xuống nước, những năm gần đây, khi mực nước thấp dần thì mái nhà mới lộ ra, nhìn từ xa giống như một ngôi mộ, có thể những người chết đeo mặt nạ vỏ cây chính là dân bị chết đuối của ngôi làng này.

Điếu bát cầm tay tôi lắc mạnh: “Cậu đừng xem nữa, bọn Hoàng phật gia đuổi tới nơi rồi, nhanh lên.”

Tôi đang mải nhìn, vội nói: “Anh đừng lôi mạnh thế, tôi cũng là người do cha mẹ sinh ra, anh lôi mạnh thế không về được nguyên trạng đâu…”, tuy nói vậy nhưng tôi vẫn chạy theo sau họ, bước thấp bước cao trên những mái nhà lô nhô, càng đi càng lên cao, khoảng được trăm bước thì đường đi trong thôn đã cao hơn mặt nước hồ nhưng bị bùn đất bao phủ, chỉ nhìn thấy hình dạng đại khái, trông như một bãi tha ma để hoang. Đi vào giữa thôn, trông thấy một đụn đất cao như núi không nhìn thấy đỉnh, phía trên chìm trong mây, không biết mô đất này cao bao nhiêu, cảm giác như một bức tường thành đắp bằng đất, có thể phía trong là đá, bên ngoài đắp một lớp đất, lại bị chìm sâu trong nước nên trông như một tường thành bằng đất, mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ chính là chỗ này rồi.

Phía nam ngọn núi đất này là một phần lõm vào bên trong, soi đèn pin xuyên qua lớp sương mù vẫn nhìn thấy tận cùng phần lồi ra, cao khoảng năm sáu mét, chúng tôi dùng cuốc chim và xẻng cào thử vài nhát, bên trong lớp đất là cánh cửa đá, bên trên có vòng đồng đã hoen rỉ, hoa văn khắc chìm trên mặt đá vẫn còn phân biệt được.

Bọn Hoàng phật gia sẽ đuổi kịp bất cứ lúc nào, chúng tôi biết không có cơ hội đào ngôi mộ này rồi, vịt đã nấu chín mà còn để bị bay mất, bọn tôi đành nhìn thêm chút nữa rồi quay đi.

Mặt dày không cam tâm, tiến lên cố đẩy cánh cửa đá, không ngờ vừa mới đẩy thì cánh cửa đã từ từ dịch chuyển vào trong một chút, lớp đất cát bên trên theo đó rơi xuống.

Tôi và Điếu bát nhìn nhau, không nói hết sự kinh ngạc, Mặt dày cũng ngạc nhiên không kém, nhìn xuống hai bàn tay mình.

Trong đầu tôi hiện lên một ý nghĩ: “Bên trong cánh cửa đá này chắc chắn có rãnh trượt, nếu không thì bao nhiêu người cũng đừng hòng đẩy được cánh cửa đá nặng trịch thế này. Rất có thể đây là hầm mộ tập thể, với nhiều quan quách được đưa vào hầm mộ trong nhiều thời điểm khác nhau, trước khi kịp đóng cửa huyệt thì nó đã bị chìm xuống đáy hồ.”

Bốn người chúng tôi hợp sức đẩy cánh cửa, cửa mộ bật mở, mùi ẩm mốc không đến nỗi nồng nặc lắm. Tôi cầm đèn pin lên soi, bên trong là một rãnh trượt bị bào mòn rất nghiêm trọng, dường như nó thường xuyên được mở ra đóng lại rất nhiều lần nên thời gian trôi qua hơn hai nghìn năm mà vẫn mở dễ dàng như vậy được. Nhưng cũng chỉ có thể mở ra từ bên ngoài, chứ lại không thể nào kéo vào từ bên trong được. Trong hầm mộ tối lạnh, không có chút động tĩnh nào.

Chúng tôi khiếp sợ nhận ra tiếng bước chân của bọn Hoàng phật gia chỉ cách mình mấy chục bước. Bọn thổ phỉ vừa có súng vừa có thuốc nổ, để bọn nó bắt được chỉ có nước chết. Mọi người buộc phải trốn vào trong hầm mộ, đẩy lớp cửa đá đóng lại cho khít rồi chèn chiếc cuốc chim vào bên dưới đường trượt, khóa chặt cánh cửa đá từ bên trong, cho dù bọn nó dùng thuốc nổ để phá cửa thì cũng không thể một chốc một lát mà mở ngay được.

Điền Mộ Thanh nói: “Ngôi mộ cổ không có lối thoát hiểm, nếu bọn Hoàng phật gia đuổi tới thì chúng ta làm sao chạy ra ngoài được?”

Tôi nói: “Chúng ta có thể đào vào hầm mộ lấy bảo vật thì cũng có thể đào đường ra. Hơn nữa đường hầm rất sâu, lại lưu thông không khí, không gian rộng rãi, không chừng trong lòng núi, chưa chắc đã không có lối thoát.”

Điếu bát nói: “Trong hầm mộ âm khí nặng nề, chúng ta trốn sâu vào trong thì bọn ngốc Hoàng phật gia kia còn lâu mới tìm được.”

Mặt dày nói: “Tốt nhất là mở quan tài lấy bảo vật trước bọn nó, cho bọn nó ăn quả hụt. Bà nội nó, vậy mới hả giận.”

Tôi nói: “Nơi này rộng quá, lại nhiều quan quách, dựa vào mấy đứa mình thì vác được mấy.”

Mặt dày nói: “Cái gì có giá thì lấy cái đó, chúng ta làm việc theo nguyên tắc gây tổn hại người khác là chính, không cần phải có lợi cho mình, không mang đi được cũng không để rơi vào tay bọn nó.”

Chúng tôi chuẩn bị đi sâu vào bên trong, khi đi qua động Hoàng Sào, chúng tôi đã làm mấy bó đuốc, đến đây vẫn chưa dùng hết. Điếu bát lôi ra hai bó, một là để soi đường đuổi bọn rắn rết, hai là để biết bên trong có lưu thông không khí hay không, nếu đuốc đột nhiên tắt chứng tỏ bên trong vẫn còn tích tụ nhiều âm khí. Từ lúc có đèn pin, nhiều dân đào mộ không chuyên nghiệp không còn dùng đuốc nữa, vì thế mỗi năm đều nghe được tin có người chết ngạt trong hầm mộ. Phàm chuyện gì có lợi thì cũng sẽ có mặt hại, đôi lúc âm khí trong quan tài và hầm mộ gặp phải tia lửa sẽ phát nổ như pháo hoa, đừng nói con người đến tường gạch trong hầm mộ cũng bị cháy sém, nhưng trường hợp này rất hiếm khi xảy ra, nếu lỡ gặp phải thì chỉ còn biết trách mình xui xẻo mà thôi.

Tôi đón lấy bó đuốc châm lửa, đường hầm tối om bỗng sáng hẳn lên, chỉ thấy ba người còn lại đang trợn mắt há hốc mồm nhìn tôi.

Hơi bất ngờ một chút, nhưng tôi hiểu ngay không phải họ nhìn tôi mà đang nhìn thứ ở sau lưng tôi, sau lưng tôi có gì được nhỉ?

5

Bị ba người kia nhìn như vậy, làm tôi thấy lạnh cả sống lưng, tôi chuẩn bị sẵn tinh thần để né tránh, quay đầu lại nhìn, hóa ra đó chỉ là một bức tranh vẽ hình con vật mặt trắng toát, đầu to như cái đấu, khuôn mặt cũng to như vậy, mặt vuông tai to, để hai hàng ria mép, thần thái quái dị, mặt người thân thú, đuôi là chín con rắn, lấy mây làm quần áo, thấy hình thù này trong bóng tối đúng là rất kinh sợ.

Mặt dày nói: “Bộ dạng chủ nhân ngôi mộ là thế này à, thật khác xa so với tưởng tượng của tôi.”

Tôi nói: “Đó là thần vật ăn thịt người trên núi Côn Luân theo truyền thuyết của người xưa. Đặt ở đây để trấn mộ, chẳng động đậy được thì dọa được ai chứ?”

Điếu bát nói: “Từ thời Hán tới giờ, đã hơn hai nghìn năm rồi mà màu sắc bức tranh vẫn tươi tắn như vậy. Chắc bảo vật trong hầm mộ vẫn được giữ nguyên vẹn.”

Điền Mộ Thanh hỏi: “Các anh nói đây là bích họa từ thời Hán?”

Điếu bát nói: “Dưới hồ Tiên Đôn là mộ cổ thời Hán, bích họa trong mộ đương nhiên là từ thời Hán rồi.”

Điền Mộ Thanh nói: “Tôi tưởng là của thời Đường?”

Tôi nghĩ Điền Mộ Thanh là giáo viên mỹ thuật, có thể nhận ra bức bích họa của thời Đường cũng không có gì là khó, tôi cũng đồng quan điểm với cô ấy.

Tôi nói với Điếu bát: “Hình thần vật núi Côn Luân trong tranh xuất phát từ truyền thuyết thời Hán, nhưng bức họa này đúng là mang đặc điểm của thời Đường.”

Điếu bát thắc mắc: “Sao lại là mộ cổ đời Đường được?”

Tôi nói: “Tôi nhìn thấy hoa văn khắc chìm trên cửa mộ là của thời Hán.”

Điếu bát nói: “Vậy thì lạ nhỉ, trong mộ cổ đời Hán có tranh của đời Đường sao?”

Tôi nói: “Lần trước, chúng ta nghe lời đồn ở thôn Phi Tiên, nên nghĩ rằng ngôi mộ này có từ thời Hán, nhưng thực tình đây là một ngôi mộ tập thể, hầm mộ này được đào trong lòng núi, từ thời Hán tới thời Đường không ngừng có quan tài được chuyển vào đây, đến tận thời Đường khi xảy ra địa chấn, cả ngôi mộ chìm trong nước, kể từ đó cách biệt với thế giới bên ngoài.”

Điếu bát thấy rất ly kỳ: “Từ thời Hán tới thời Đường hơn một nghìn năm không ngừng có quan quách được chuyển vào đây, vậy đó là những người nào?”

Tôi nói: “Cái đó tôi cũng không biết. Nói chung có rất nhiều điểm không rõ ràng.”

Kiểu bài trí trong hầm mộ này có thể nói là điên đảo càn khôn, đảo ngược âm dương, bị chìm trong nước hàng nghìn năm, nhưng bên trong lại không có dấu tích bị ngâm trong nước, quan tài bằng ngọc, tượng bằng vàng, thi thể khô đeo mặt nạ bằng vỏ cây, nhà cửa xung quanh ngọn núi v.v… tất cả đều toát lên vẻ kỳ bí. Trước khi làm rõ được lai lịch của chủ nhân ngôi mộ, tất cả đều như lớp sương mù trên mặt hồ, khiến người ta “nhìn không tỏ, nghĩ không thông”.

Mặt dày nói: “Không nghĩ ra thì đừng nghĩ nữa, chủ nhân ngôi mộ nằm trong cỗ quan tài kia kìa, bọn ta qua đó xem là rõ ngay thôi.”

Điếu bát nói: “Đi sâu vào trong thì phải cẩn thận, mọi người đi sát vào, cách nhau nửa bước chân thôi.”

Tôi thắp hai bó đuốc, tôi và Mặt dày mỗi người một bó, hai người kia cầm đèn pin, từng bước từng bước đi sâu vào bên trong. Hầm mộ được đào trong lòng núi, phía trên phía dưới đều bằng phẳng. Đi được mười mấy mét lại là một lần cửa, cả bọn đi vào bên trong, đang định đóng cửa lại thì Điếu bát kêu lên: “Không được, đừng đóng vội!”

Tôi hỏi lại mới biết, Điếu bát để quên ba lô trong đường hầm. Lúc đó, cả bọn đang chăm chú quan sát bức bích họa, còn nói đó là bức tranh mang phong cách thời Đường, anh ta bỏ ba lô xuống đất để lấy đuốc ra, sau đó quên cầm ba lô. Lương khô và đuốc dự phòng đều để cả trong đó.

Điếu bát nói: “Trong đó đều là đồ thiết yếu, tôi phải quay lại lấy…”, nói rồi quay lưng đi trở ra.

Tôi nói Điếu bát cứ chờ ở đây, tôi đưa ba lô của mình cho anh ta, rồi cầm lấy xẻng và đuốc quay lại đường hầm lấy ba lô cho anh ta. Lúc trước đi cùng ba người kia trong đoạn đường hầm này thì không thấy gì, nhưng giờ một mình quay lại, tuy chỉ khoảng mấy chục mét nhưng cũng thấy ghê người. Nơi này ẩm thấp, lạnh lẽo, tối tăm, vách đá và đường hầm không có chút sinh khí. Tới lần cửa đá thứ nhất thì tôi tìm thấy ba lô của Điếu bát. Trong đường hầm một màu tối đen, chỉ cách mấy chục mét mà đã không thấy ánh đuốc của hội Điếu bát đâu, bất giác rợn tóc gáy, tôi vội vàng chạy về phía bọn họ. Ai ngờ, vừa nhấc chân lên định đi thì một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, đất đá rơi xuống ầm ầm, tôi bị sức ép bắn vào tường đường hầm, hai tai ù đặc, trong đầu toàn tiếng ong ong, máu chảy rần rần trong huyết quản, bó đuốc bị rơi xuống đất tắt rụi.

6

Tôi ngã xuống chân tường, đầu óc ong ong, lịm đi mất mười mấy giây, khi tỉnh lại đã thấy bọn Hoàng phật gia đang đi vào trong lớp khói thuốc mù mịt. Bọn chúng đều cầm đuốc, nhưng vì khói thuốc chưa tan, cú nổ vừa rồi khiến bụi đá bay mù mịt nên không ai phát hiện ra có người nơi chân tường. Tôi sờ được chiếc xẻng bị rơi bên cạnh, từ từ đứng dậy, không lên tiếng, trà trộn vào trong đám người kia, mặt mũi ai nấy đều đen nhẻm, lại đi trong làn khói bụi mờ mịt nên chẳng ai phát giác ra điều gì.

Tôi cố gắng há miệng to hết cỡ, cảm giác màng nhĩ vẫn chưa bị rách, thính giác dần hồi phục, nghe thấy tiếng tên eo rắn: “Có đám trung thần tướng giỏi như bọn mình đi phò tá Hoàng phật gia, dùng thuốc nổ mở cửa hầm mộ chỉ là chuyện nhỏ, mọi người chuẩn bị phát tài rồi.” Hoàng phật gia nói: “Bọn ngốc Điếu bát đúng là đã vào trong hầm mộ này thật sao?” Tên eo rắn lại nói: “Thằng Mũi chó ngửi thấy mùi mà, không sai được đâu. Mấy tên đó chán sống rồi, dám vuốt râu hùm. Phật gia… đầu của đại ca không sao chứ?” Hoàng phật gia hừ mũi một tiếng: “Thế này nhằm nhò gì… Tao đã luyện qua rồi…” Tên eo rắn ngay lập tức nịnh nọt Hoàng phật gia: “Nói thật với đại ca, em nhận ra từ lâu rồi, bọn phàm phu ăn toàn ngũ cốc với lương thực linh tinh đó làm sao mà có công phu như đại ca được.”

Tôi nhìn thấy cái đầu toàn thịt của Hoàng phật gia cứ lúc lắc trước mặt lại nhớ tới Lư mặt rỗ chết dưới tay hắn như thế nào, không nén nổi tức giận, đứng từ phía sau hỏi hắn: “Phật gia, cái đầu của mày chịu được mấy nhát xẻng?”

Hoàng phật gia nói: “Dăm ba nhát chỉ là chuyện đùa. Ớ… mày là thằng nào?”

Tôi không đợi Hoàng phật gia quay lại, xẻng đã cầm sẵn trong tay từ lâu, lấy hết sức bình sinh nện lên đầu hắn, lần này dùng lực rất mạnh, chỉ nghe kêu chát một tiếng, méo cả xẻng. Nhưng đầu tên Hoàng phật gia đúng là cứng hơn người bình thường, bị đánh như vậy mà hắn không bị vỡ đầu, nhưng cũng bị thương không nhẹ, hắn ngã vật ra đất, kêu lên: “Á… mẹ đứa nào lại đánh lén ông?”

Bọn tay chân Hoàng phật gia tuy toàn bọn liều mạng, nhưng là đội quân ô hợp, chỉ chờ cơ hội kiếm lợi cho mình, nhân lúc bọn đó vẫn chưa kịp phản ứng, tôi chạy vội tới lần cửa thứ hai. Sau lưng vẫn nghe thấy tiếng Hoàng phật gia hò hét tay chân đuổi theo.

Tôi ba chân bốn cẳng chạy tới lần cửa thứ hai, hội Điếu bát nghe thấy tiếng nổ cũng biết là bọn Hoàng phật gia đã vào bên trong, đang sốt ruột thì thấy tôi chạy lại, vội vàng đẩy thật mạnh cánh cửa đá khép lại, nhưng ánh đuốc đã chập chờn nhấp nhô trong đường hầm, đuổi sát tới nơi. Chúng tôi không kịp đóng lần cửa thứ hai nữa, đành phải chạy thật nhanh vào phía sâu bên trong, phía trước còn lần cửa thứ ba nữa. Bốn người chúng tôi tháo chạy qua lần cửa đó thì tới cuối đường hầm, đi qua chiếc cửa vòm bằng đá là vào tới hầm mộ. Tường bên trong hầm mộ đều được xây gạch, trên nóc hầm và nền hầm mộ đều lát gạch, có cột trụ đá và xà ngang bằng đá chống đỡ. Bụi bám đầy trên tường, hầm mộ khá lớn nhưng đơn sơ và tồi tàn khiến không khí bên trong càng u ám.

Chúng tôi nghĩ đây mới chỉ là tiền điện, đi sâu vào bên trong chắc mới là chính điện nơi đặt quan quách, nên vội đi sang bên đối diện với điện đá, nhưng trong đó không có lối đi.

Mặt dày cuống lên, nói: “Bọn Hoàng phật gia sắp đuổi kịp rồi, phía trước lại không có đường, mình quyết trận sống mái với bọn nó vậy, đánh được một thằng là gỡ vốn, được hai thằng là đã lời rồi.”

Điếu bát thất kinh nói: “Không thể được, đó là hành động vũ phu, phải bình tĩnh”.

Tôi nghĩ bụng: “Bọn chúng có thuốc nổ, còn hội mình chỉ có xẻng và cuốc chim. Nếu đánh nhau với bọn nó mà mất mạng thì quá thiệt…” Trong lúc không có kế sách gì, tôi thất vọng nhìn lên chỗ xà ngang trên trần điện, chợt nảy ra một ý, giờ chỉ còn cách trèo lên đó trốn tạm thôi.

Tôi lấy dây thừng ra đưa cho Điền Mộ Thanh, tôi và hai người kia chồng lên nhau làm thang để Điền Mộ Thanh lên trước rồi thả dây thừng xuống, chúng tôi đu dây thừng lên sau. Chỉ lo Điền Mộ Thanh sợ quá sẽ ngã từ trên cao xuống, không ngờ động tác của cô ấy hết sức nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, cái đáng nói là gặp sự cố cô vẫn giữ được vẻ bình tĩnh. Khi cô đã leo lên đến thanh xà ngang bằng đá, tôi và Mặt dày đu lên sợi dây thừng cô vừa thả xuống, rồi kéo Điếu bát lên. Bốn người vừa nằm phục xuống thì bọn Hoàng phật gia cũng vừa vặn vào tới trong điện. Chúng tôi tắt đuốc và đèn pin, nằm phủ phục trên thành xà ngang không dám động đậy, chỉ sợ thở mạnh một chút sẽ thổi bay đám bụi xuống bên dưới làm kinh động tới bọn Hoàng phật gia. Cả bọn nằm im như vậy quan sát. Trong thế nguy hiểm, tôi bất giác có cảm giác sợ hãi. Nhưng những gì sắp xảy ra bên dưới khiến tôi không thể nào tin vào mắt mình.

Ma Câm – Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn

Ma Câm – Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn

Status: Completed Author:

"Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn" là tập đầu tiên trong series "Ma câm" của tác giả Thiên Hạ Bá Xướng, đây là tác phẩm mới nhất được ấp ủ trong suốt 5 năm kể từ sau sự ra đời của tác phẩm bán chạy - "Ma thổi đèn". Với "Ma câm", tác giả đã khởi động lại mật mã trộm mộ, mở ra những cuộc phiêu lưu mạo hiểm giống như truyền kỳ về những trải nghiệm quái dị gắn liền với một nền văn hóa cổ xưa và thần bí của Trung Quốc - văn hóa Na giáo. Ma Câm đưa bạn xuyên qua mọi ngóc ngách thần bí nhất của mảnh đất Hoa Hạ rộng lớn, để kiếm tìm hư thực ảo diệu phía sau một truyền thuyết xa xưa. Sức tưởng tượng mới mẻ, ly kỳ cộng với đề tài độc đáo của tác phẩm đã khiến đạo diễn Trần Gia Thượng (đạo diễn "Họa bì") chọn làm tư liệu quan trọng để xây dựng nên kịch bản cho tác phẩm điện ảnh "Ma thổi đèn 3D".

Câu chuyện kể về hai cuộc hành trình trộm mộ đầy ly kỳ của nhân vật tôi và các bạn. Ở chuyến phiêu lưu đầu tiên, nhân vật tôi và cô bạn Sách Ni Nhi dấn thân đi tìm ngôi mộ cổ của nữ thần Saman thời Liêu. Với lần đầu tiên hoàn toàn lạ lẫm ấy, họ đã bị những bí ẩn, những cơ quan đầy nguy hiểm cài đặt trong mộ cổ làm cho kinh hoàng bạt vía, không những không lấy được bảo vật mà còn suýt phải trả giá bằng tính mạng. Trước khi rút chạy, nhân vật tôi chẳng may vấp chân ngã vào thi thể nữ thần Saman và chạm đầu vào chiếc gối của nàng, kể từ đó tôi bị cơn ác mộng dằn vặt từng đêm. Nhân vật tôi mơ lại cơn ác mộng từng dày vò nữ thần đến chết của hàng ngàn năm trước.

Để tìm ra ẩn số của giấc mơ hãi hùng và quái dị, tôi cùng người anh họ Điếu bát, anh bạn đồng hành Mặt dày và cô giảng viên trường họa Điền Mộ Thanh dấn thân vào cuộc phiêu lưu thứ hai. Tại đây, họ phải đối mặt với những loài động vật giết người trong chớp mắt, đối mặt với những cương thi sống dậy từ thời cổ đại, đối mặt với một lễ giáo thần bí cổ xưa và hơn hết họ phải đối mặt với một sinh vật kỳ dị có khả năng làm không gian biến mất... Cuộc phiêu lưu đi tìm câu trả lời đầy nguy hiểm và cái giá phải trả cho đáp số chính là tính mạng của chính mình.

Xen giữa hai cuộc phiêu lưu của nhân vật tôi là cuộc phiêu lưu đi tìm những di chỉ xưa đầy mạo hiểm và đáng sợ của các bậc tiền bối qua lời kể của nhân vật tôi. Cái kết bi thảm của chuyến phiêu lưu này như lời cảnh báo để ngăn các bậc hậu bối dừng bước, nhưng sự bức bách của số phận đã khiến bốn người bạn đồng hành không thể không sa chân vào vòng tròn sinh tử không lối thoát.

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset