(Trở về hiện thực, viện binh quái thú ở Đại hoang sơn)
Có những lúc chúng ta không phân biệt rõ ràng giữa chân thực và mộng cảnh, có thể trong hư ảo chúng ta tìm thấy hi vọng, nhưng trong thế giới chân thực lại toàn là tuyệt vọng, có chân có giả, đôi lúc chúng ta quá cố chấp, vì sao lại không tùy tâm sở dục? Mọi việc cứ tuân theo tự nhiên là được…
Mọi chuyện xảy ra quá đột ngột, bản thân Liễu Dật cũng không thể giải thích việc phát sinh ra trong mộng, kể cả những lời của nhà tiên tri, họ đã mất không biết bao nhiêu thời gian đi tìm ông ta, đến tận sát na kết thúc mới hiểu rằng quá trình thì dài nhưng kết quả lại ngắn như một tích tắc.
Bỗng nhiên, đầu óc chàng trầm xuống như rơi vào mây mù, cảm giác rõ ràng mình đang ở một vùng khoáng đạt, lúc chàng ngồi xuống mới phát hiện mắt mình đã nhìn được, nơi đây thật quen thuộc, chung quanh là băng màu lam nhạt, lam sắc quang hoa trôi nổi trong không gian, băng lãnh khí tức làm cho người ta tỉnh táo, minh mẫn hơn.
Liễu Dật đột nhiên nhớ lại, không sai, đây là nơi Diệp La Bách Hoa đưa chàng bước vào Chân thật mộng cảnh, vậy… họ đã quay trở lại thế giới hiện thực rồi? Thật kì diệu, mắt chàng đã nhìn được mọi vật, càng chứng tỏ rằng đó không phải là trong mộng, theo ý thức chàng đưa hữu thủ lên, toan giơ ngang trước mắt, chứng minh chắc chắn mình không còn là người mù.
Hữu thủ vừa động khẽ, chàng đột nhiên cảm thấy có vật gì đó mềm mại, âm ấm buộc trên tay, rất tự nhiên, chàng quay đầu lại, ánh mắt vừa ngưng thị lập tức động tác cũng ngừng luôn, nguyên lai hữu thủ của chàng và tả thủ của Diệp La Bách Hoa đang buộc vào nhau, nàng cũng đã tỉnh lại, lẳng lặng ngồi dậy.
Tuy trong mộng chàng đã thấy gương mặt xinh đẹp, thân hình mảnh mai của nàng nhưng bây giờ nhìn thấy nàng bằng xương bằng thịt, bản tính yêu thích cái đẹp trỗi dậy, ánh mắt chàng si dại. Diệp La Bách Hoa vội cởi bỏ tấm đoạn buộc trên tay hai người, nàng hơi bối rối, thuận miệng hỏi: “Chúng ta đã ra khỏi mộng cảnh?”
Liễu Dật thu tay lại, đứng dậy nhìn quanh một vòng, thình lình mỉm cười: “Công chúa nhìn xem, không biết đây có phải là Vô Lệ thành không!”
Diệp La Bách Hoa cũng đứng dậy, nhìn tứ phía rồi mỉm cười, giọng nói ngọt ngào cất lên: “Đúng vậy, muội thấy chúng ta đã thoát khỏi mộng cảnh rồi, ừ… mắt huynh không phải đã nhìn được rồi sao?”
Liễu Dật giơ hữu thủ lên khua khoắng trước mắt, đáp: “Đúng, xem ra nhà tiên tri quả thực lợi hại.”
Ánh mắt Diệp La Bách Hoa vừa tiếp xúc với chàng, nàng liền nhanh chóng quay đầu sang một bên: “Vâng, chẳng qua… ông ấy hình như có nói mắt huynh căn bản không bị mù, ý là gì vậy, sao muội nghe lại không hiểu gì?”
Liễu Dật nhớ lúc tỉnh dậy, nhà tiên tri có nói vậy, bây giờ hồi tưởng lại dường như ông ta có ý gì khác nhưng không thật rõ ràng, chàng không muốn Diệp La Bách Hoa cũng biết chuyện đó bèn lập tức chuyển chủ đề: “Đúng rồi, thời gian chúng ta ở trong mộng cảnh bao lâu nhỉ, tại hạ nhớ là Vô Lệ thành đang bị Diệp La Hùng bao vây, không biết tình hình bên ngoài thế nào?”
Chàng vừa dứt lời, Diệp La Bách Hoa lập tức xoay chuyển tư tưởng, lúc này nàng mới nhớ ra mình là công chúa của Vô Lệ thành, nguy nan của Diệp La thị chất chồng, quân địch đã đến chân thành, lúc nào cũng có thể thành phá nhân vong, sau khi trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, nàng đã trở nên dũng cảm, kiên cường hơn, nghĩ đến đây nàng bảo: “Chúng ta cùng ra nào.”
Liễu Dật nhè nhẹ gật đầu, Diệp La Bách Hoa bây giờ đã khác hẳn trước khi vào trong giấc mộng, chàng đọc được trong ánh mắt nàng nỗi lo và trách nhiệm của một công chúa đối với thần dân của mình. Có lẽ sau vô số lần kinh qua sinh tử, họ hiểu được rằng: còn sống đẹp hơn bất cứ điều gì.
Cước bộ Diệp La Bách Hoa cực nhẹ, nhưng từng đạo thạch môn mở ra rất chóng vánh, họ không ngừng tiến bước trong mê cung băng động, không biết đi qua mấy gian đại thính, thạch lộ, trước mắt bỗng bừng lên ánh quang mang, cảm giác ấm áp tràn vào trong tâm, cảm giác này thật thân thuộc mà xa xôi, đó là ánh nắng.
Ra khỏi động khẩu, thấy ngay hai hàng hộ vệ cầm trường kiếm đứng nghiêm trang trên thạch lộ hai bên băng động. Diệp La Bách Hoa dường như không có cảm giác đối với thế giới mới mẻ này mà quan tâm đến con dân của mình nhiều hơn, bất giác gia tăng tốc độ. Liễu Dật theo sau, một thoáng sau hai người đã ra đến hành lang quen thuộc, lần trước chàng không nhìn thấy, lần này cảm thấy những mảnh vàng và ngọc bích được bố trí ở hành lang này thật huy hoàng, mười hai thạch trụ cao ba trượng xếp thành hàng sừng sững, không hổ là ngôi thành của một công chúa.
Hai người nhanh chóng đi hết hành lang, đến đại thính dùng để nghị hội, ngước lên nhìn thấy đại thính rộng rãi, cao vút, hai bên tả hữu có đặt sáu chiếc ghế màu lục, ở chỗ cao nhất có đặt một chiếc nhuyễn ỷ, Liễu Dật đương nhiên có thể tưởng tượng ra vì chàng từng đến đây. Lúc này trong đại thính có một vị lão nhân khắc khổ chau mày, dường như đang suy tư một vấn đề nan giải.
Chàng chưa gặp qua người này nên không biết đó là ai, đúng lúc đó Diệp La Bách Hoa lên tiếng: “Kiếm thúc thúc, sao thúc lại đến đây?”
Diệp La Bách Hoa xưng hô như vậy, Liễu Dật liền hiểu ngay lão nhân đầy phong sương đó là nguyên lão đứng đầu của Diệp La thị: Diệp La Kiếm Mộ. Thấy Diệp La Bách Hoa đột nhiên xuất hiện, ông ta đứng bật dậy, bước đến bên nàng, thần tình thập phần kích động: “Công chúa, sao các vị quay lại nhanh thế?”
Diệp La Bách Hoa tỏ ra kì quái: “Chúng tôi đi đã lâu lắm rồi mà.”
Diệp La Kiếm Mộ không hề suy nghĩ, lập tức nói ngay: “Không đến một khắc đâu.”
Liễu Dật nghe qua, trong lòng hết sức kì quái nhưng chàng không biểu hiện gì, trong giấc mộng chàng đã trải qua những mười năm, khẽ cảm thán: “Một giấc mộng như trải qua một đời, quay lại nhìn chỉ là một sát na.”
Diệp La Kiếm Mộ tất nhiên biết người đứng trước mặt là Liễu Dật, vội hỏi: “Mắt Liễu công tử đã chữa xong rồi chứ?”
Liễu Dật gật nhẹ đầu, Diệp La Kiếm Mộ nhìn sang Diệp La Bách Hoa, tuy thấy nàng vẫn là Diệp La Bách Hoa song so với một khắc trước dường như là hai người khắc hẳn, chẳng qua không biết cảm giác đó từ đâu ra. Đột nhiên ông nhìn thấy một tấm đoạn mà đen buộc trên chân nàng, bèn hỏi: “Đây là…”
Diệp La Bách Hoa nhìn ông ta, thoáng nghĩ rồi đáp: “Truyền thuyết về mộng cảnh là sự thật, dường như chúng tôi đã ở trong đó nhiều năm, mà bên ngoài chỉ là một khắc thời gian, vì không cẩn thận nên thụ thương thôi mà.”
Diệp La Kiếm Mộ hiểu nàng không muốn tiết lộ sự tình, hoặc là hai người đã trải qua rất nhiều chuyện trong mộng?
Diệp La Bách Hoa lại hỏi: “Kiếm thúc thúc, Minh thúc thúc đi đâu rồi?”
Diệp La Kiếm Mộ đáp: “Diệp La Hùng đã đến sát chân thành, vừa mới cảnh cáo chúng ta lần chót, y cho chúng ta ba ngày cân nhắc, nếu không đầu hàng y sẽ giết sạch toàn thành, Minh huynh đệ sợ Diệp La Hùng có âm mưu nên giám thị ở ngoài tường thành.”
Diệp La Bách Hoa nói luôn: “Không được, Diệp La Hùng bản tính tàn bạo, lãnh huyết vô tình, nếu giao Diệp La thị cho y chỉ tổ sinh linh đồ thán, người dân không còn ngày nào yên lành, cơ cực trăm bề. Cho dù tất cả mọi người trong thành bị giết hết chúng ta cũng không thể đầu hàng.” Giọng nói vẫn ngọt ngào nhưng kiên định, khiến người khác không thể hoài nghi.
Diệp La Kiếm Mộ thấy nàng quả quyết như vậy, gật đầu cười nhẹ: “Công chúa cuối cùng cũng trưởng thành rồi, nếu hiện giờ dân chúng nghe được lời này nhất định sẽ cao hứng lắm, vì công chúa đã nghĩ cho họ.”
Diệp La Bách Hoa nhè nhẹ lắc đầu, quay người bước liền hai bước, ngữ khí có phần tuyệt vọng: “Thế thì ích gì, ta hữu tâm mà vô lực, mắt thấy loạn quân đến sát chân thành, ta có thể làm gì? Có lẽ tất cả đều tại ta, tại ta lúc trước không hiểu chuyện, tại ta không có năng lực bảo vệ các vị…” Giọng nói của nàng yếu ớt, một công chúa vô tình vô cảm lúc này đã trở thành đa sầu đa cảm, trong lúc khẩn yếu nàng lại không thể giúp đỡ cho con dân của mình.
Diệp La Kiếm Mộ cảm giác hơi kì quái song lại càng thấy an ủi, nắm lấy vai nàng lắc nhẹ: “Công chúa có tấm lòng như thế là quá đủ rồi, trời không chiều lòng người thì hà tất tự trách, chỉ cần chúng ta cố gắng bằng tất cả năng lực thì những năm tháng sống trên đời không còn gì phải ân hận nữa.” Nói đến đây, ông cũng thấy chán nản, không nhìn thấy hi vọng, ông chỉ biết an ủi nàng như vậy.
Trong đại thính lại một bầu tịch mịch, tất cả đều an tĩnh, an tĩnh đợi tử vong giáng xuống, mọi người đều hiểu rõ binh lực hai bên quá chênh lệch, chiến đấu cũng chỉ hữu bại vô thắng.
Không biết cứ yên lặng như vậy bao lâu, Liễu Dật là người đầu tiên đứng dậy, phá vỡ bầu không khí trầm mặc, chàng nhìn Diệp La Kiếm Mộ rồi Diệp La Bách Hoa: “Chỉ cần chúng ta không buông xuôi, tuyệt vọng sẽ biến thành hi vọng.”
Diệp La Bách Hoa đã nghe chàng nói câu này, nhưng bây giờ nghe lại trong lòng nàng không thấy có ý nghĩa gì, mọi việc đã được chú định, tuyệt vọng còn biến thành hi vọng được sao, nhìn vào mắt chàng, nàng cảm giác mơ hồ. Diệp La Kiếm Mộ thì lại thấy được ý tứ trong câu nói đó, hình như chàng muốn nói là có cách.
Ông lập tức bước tới hỏi: “Liễu công tử, công tử có biện pháp gì khả dĩ hóa giải trường hạo kiếp này chăng, nếu được thì Diệp La thị vô vàn cảm kích.”
Liễu Dật cười nhẹ, lắc đầu: “Kiếm tiền bối nói thế thật khiến Liễu mỗ hổ thẹn trong lòng, nếu nói đến cảm kích phải là tại hạ cảm kích Bách Hoa công chúa mới đúng, ít ra công chúa đã dạy cho tại hạ nhiều điều. Chúng ta không phải là trời làm sao lại kêu trời chiều lòng? Tất cả đều dựa vào bản thân chúng ta, tại hạ không tin vào tuyệt đối, một khi đã xảy ra thì chúng ta phải đối mặt, giải quyết chứ không nên đứng đây ngửa cổ chờ sung.” Diệp La Kiếm Mộ tất nhiên không biết Diệp La Bách Hoa đã dạy chàng những gì, nhưng nghe chàng giảng giải ông không còn nghĩ tới thất bại nữa, trong lòng ông chỉ có một ý nghĩ là làm sao tận dụng hết sức mạnh bản thân để giải quyết, có những việc nhất định phải đối mặt, đó chính là trách nhiệm.
Liễu Dật tiếp tục: “Các vị quên mất một vấn đề.”
Diệp La Kiếm Mộ hỏi ngay: “Vấn đề gì?”
“Binh lực ta và địch rất chênh lệch, vì thế chúng ta cần phải tìm viện binh.” Chàng đáp.
Diệp La Kiếm Mộ không cần suy nghĩ, phản bác ngay: “Chả lẽ công tử quên là Diệp La thị với Lam thị không có ân mà chỉ có oán? Mặt khác Minh Nguyệt thị không muốn tham gia bất kì chuyện gì, tôi thấy… tìm viện bình còn khó hơn lên trời.”
Liễu Dật tịnh không ngạc nhiên với lời phản bác của ông, chàng cười nhẹ: “Đó chính là vấn đề các vị bỏ qua, có lẽ… Minh giới không chỉ có những người đó mới giúp được các vị.”
Diệp La Bách Hoa dường như hiểu được ý chàng muốn nói, liền hỏi: “Ý huynh là gì?”
Liễu Dật nhìn nàng đoạn nói: “Vừa nãy khi tại hạ đi qua hành lang dẫn vào nghị hội thính mới phát hiện một nghi vấn nho nhỏ, hành lang đó rất có khí thế, trên mười hai cây cột có điêu khắc những con dã thú khác nhau, vô cùng đáng sợ, tại hạ muốn biết những con dã thú đó có tồn tại thật không?”
Diệp La Kiếm Mộ vẫn chưa hiểu giữa dã thú với viện binh thì có liên quan gì, đành gật đầu: “Ngày trước, các bậc tiền nhân của Diệp La thị đã gặp qua những loại quái thú ở trong Đại hoang sơn, có cả yêu thú, linh thú và thần thú, các vị nguyên lão trong thị tộc thấy quái thú rất có khí thế mới đem điêu khắc thành đồ trang sức ở hành lang.”
Liễu Dật hỏi: “Nói như vậy, Minh giới không chỉ có người mà còn có cả thú?”
Diệp La Bách Hoa hình như hiểu được ý chàng: “Ý huynh muốn nói là… huynh sẽ mang đám thú đó về, cùng Diệp La Hùng quyết chiến.”
Diệp La Kiếm Mộ cao hứng đến độ giậm mạnh chân: “Đúng rồi, so với người, số lượng của thú nhiều hơn hẳn.” Nhưng ngay lập tức ông xẹp xuống: “Không ổn, bình thường muốn thuần phục một con quái thú đã rất vất vả rồi, đừng nói đến chuyện mang về thật nhiều con.”
Diệp La Bách Hoa gật đầu tán đồng: “Đúng đó.”
Liễu Dật tỏ ra vô cùng tự tin, lắc đầu: “Các vị nhầm rồi, tại hạ không định thuần phục chúng, tại hạ chỉ muốn kích nộ chúng, kích nộ được càng nhiều càng tốt.”
Nghe thế, Diệp La Kiếm Mộ sáng bừng mắt: “Đúng à, sao tôi không nghĩ ra nhỉ, thuần phục chúng cần nhiều thời gian, nhưng kích nộ chúng thì rất dễ.”
Liễu Dật phụ họa: “Kiếm tiền bối nói rất đúng, hà huống nội thể tại hạ có cuồng bạo chi huyết, bất kì quái thú nào cũng không chống lại được, chỉ cần tại hạ dẫn chúng về đây thì chuyện đạp bằng Diệp La Hùng có đáng kể gì.”
Diệp La Bách Hoa dường như nghĩ ra chuyện gì đó, vội nói: “Không được, đám quái thú đó đều có dị năng, nguy hiểm hơn người cả ngàn lần, hà huống muốn câu dẫn hàng đàn, quá ư nguy hiểm.”
Liễu Dật nhìn nàng, trong lòng chàng làm sao không hiểu cô công chúa ngốc nghếch này lo lắng gì cho mình? Chẳng qua chàng không có chọn lựa nào, dừng lại một thoáng rồi trấn an nàng: “Công chúa phải tin tại hạ, tại hạ sẽ quay lại an toàn.”
Diệp La Bách Hoa vẫn lắc đầu, nài nỉ: “Không được, không được… không được đâu, muội phải đi cùng huynh mới được.”
Liễu Dật khuyên giải: “Vạn vạn lần không được, bây giờ chính là lúc Vô Lệ thành cần công chúa, nếu công chúa mà đi, Vô Lệ thành tất sẽ bất công tự phá, công chúa nhất định phải ở lại đây đợi tin tức của tại hạ.”
Diệp La Bách Hoa dường như vẫn muốn nài nỉ, Diệp La Kiếm Mộ liền bước tới can: “Công chúa, Liễu công tử nói rất đúng, binh không thể không có tướng, thành không thể vô chủ, nếu công chúa mà đi, Vô Lệ thành sẽ nguy hiểm, xin công chúa hãy nghĩ cho ngàn vạn con dân.”
Liễu Dật cười nhẹ nhõm: “Không phải tại hạ dọa công chúa mà đó là sự thật, công chúa cứ ở lại mà đợi tin tức, trong lúc tại hạ đi, công chúa và Kiếm tiền bối còn có việc vô cùng trọng yếu, mỗi ngày phải quan sát động tĩnh của Diệp La Hùng, nếu sau ba ngày mà tại hạ không quay lại, các vị hãy cố kéo dài thời gian, càng lâu càng tốt, nên nhớ sinh tử tồn vong của Vô Lệ thành đều kí thác trên mình các vị, những chuyện khác đều không trọng yếu.”
Chàng đã giảng giải nặng nhẹ mọi nhẽ, Diệp La Bách Hoa dường như vẫn lo lắng, nhưng suy nghĩ một hồi, rốt cuộc nàng cũng gật đầu: “Cũng được, huynh nhớ phải quay về an toàn.”
Liễu Dật gật gù, chàng không biết mình có thực hiện được ước định này không, cho dù tình hình hiện thực không chống đối chàng nhưng còn ma công thì sao? Không muốn nói nhiều, chàng chỉ nhè nhẹ gật đầu.
Diệp La Bách Hoa xòe tay ra, không hiểu sao trong tay xuất hiện một cây bích ngọc địch, thân địch dài hai xích bốn thốn, trong màu ngọc bích ẩn ước bạch sắc lưu quang khí tức, chàng vẫn nhớ trong thân địch ẩn tàng một cây tuyệt thế thần kiếm mà chàng đã nhìn thấy lúc chém chết Diệp La Cừu. Nàng đưa cây địch cho chàng: “Huynh cầm lấy đi.”
Liễu Dật thấy biểu tình thành thật của nàng bèn đáp: “Vì sao? Kiếm của tại hạ không kém hơn của công chúa đâu.”
Nghe chàng hỏi, Diệp La Bách Hoa ngây ra, không biết phải nói gì? Ngẫm nghĩ hồi lâu, nàng mới lên tiếng: “Tất nhiên muội không đi theo huynh được, thanh kiếm này huynh phải mang theo, từ nhỏ nó đã theo muội, huynh mang theo muội mới yên tâm.”
Sự tình bất tri bất giác xảy ra, Liễu Dật tự nhiên không phải là kẻ ngốc, bằng hữu quan tâm đến nhau làm sao mà nồng ấm như vậy được. Đúng lúc đó, Diệp La Kiếm Mộ bước tới: “Liễu công tử, Phù Nhược Kiếm là thần khí đứng đầu của Diệp La thị, tuy không sánh được với cây kiếm của công tử nhưng cũng là bảo vật, công chúa đã có lòng, công tử cứ cầm theo. Biết đâu lại giúp được gì đó.”
Liễu Dật nhìn ông rồi lại nhìn Diệp La Bách Hoa, không cự tuyệt nữa, cầm lấy cây bích ngọc trường địch, gật đầu: “Nếu đã thế, Liễu mỗ tạm thời giữ vậy, ba ngày nữa nhất định sẽ phụng hoàn.”
“Kiếm tiền bối, xin hãy chuẩn bị cho tại hạ một bức bản đồ Đại hoang sơn và một con Hạt Điểu, tại muốn đến Đại hoang sơn thật nhanh.”
Diệp La Kiếm Mộ ứng thanh: “Hảo, công tử đợi chút.” Nói đoạn ông ta quay người ra khỏi đại thính.
Trong đại thính chỉ còn lại Diệp La Bách Hoa và chàng, thấy nàng lo lắng, chàng toan lên tiếng nhưng lại không thể, chàng biết giờ nói gì cũng đều bị coi là thừa nhận, khiến nàng càng thống khổ nhưng chàng có thể làm gì khác? Có những lúc, đại cừu đại oán dường như lại dễ giải quyết hơn.
Rốt cuộc, Diệp La Bách Hoa cũng khai khẩu: “Huynh nhớ giữ lời, nhất định phải quay về an toàn.”
Liễu Dật buông tiếng cười khổ, gật đầu: “Công chúa cũng phải nhớ, phải giữ được Vô Lệ thành, nhất định chờ tại hạ quay lại.”