Cả bọn Trác Mộc Cường Ba và dân làng Công Nhật Lạp cùng trải qua một đêm không ngủ. Sáng sớm hôm sau, khi người Lỗ Mặc đã tản đi, pháp sư Á La, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang liền trở lại chỗ kẻ địch cắm trại.
Sau trận chiến kịch liệt hồi đêm, khắp chốn đâu đâu cũng đầy những chân tay đứt lìa của bọn người Lỗ Mặc, còn có mấy con thú hoang không biết tên đang tranh nhau cắn xé những cái xác đó, thể hình không lớn lắm, vừa thấy người sống, liền nhanh chóng chạy mất tiêu.
Cái chòi cây đã sụp hẳn, trong đống hoang tàn họ phát hiện ra những mảnh vải vụn rách bươm bét, súng máy, những miếng kim loại. Sau khi khảo sát, pháp sư Á La kết luận: “Chết tại chỗ hai tên, có điều, ở đây ít nhất có đến ba mươi cái xác người Lỗ Mặc. Bọn chúng rút lui theo hướng này.” Pháp sư Á La chỉ ra chỗ phía bên ngoài của tầng bình đài thứ hai.
Ba Tang nói: “Bọn chúng không còn bao nhiêu đạn dược nữa rồi, cuộc chiến vẫn chưa kết thúc.” Theo kết quả tối qua họ quan trắc được, bọn người của Tây Mễ và lũ thằn lằn được dân ở đây gọi là người Lỗ Mặc ấy đã quần nhau một lúc ở quanh cái chòi cây này, về sau vì số lượng người Lỗ Mặc đông quá, bọn chúng mới buộc phải mở ra một con đường máu, bắt đầu rút lui, nhưng lũ người Lỗ Mặc cũng vẫn đuổi riết không tha.
Kẻ địch chạy vào sâu trong rừng, chắc hẳn cũng vì sợ lũ chim khổng lồ ở mép bình đài kia, lần theo dấu vết những cái xác người Lỗ Mặc đến tận gần chỗ vách đá, rồi lại đi tiếp thêm tầm chục cây số nữa, họ phát hiện ra ba cái xác người bị cắn xé tả tơi. Tới đó thì họ dừng lại, trở về làng Công Nhật Lạp báo tin với mọi người.
“Tốt quá!” Trương Lập hưng phấn thốt lên: “Giờ thì không sợ chúng trở lại tấn công thôn làng rồi, bọn chúng cũng chẳng còn sức mấy nữa.”
Anh nghĩ ngợi giây lát, rồi lại cười hì hì nói với Lữ Cánh Nam: “Giáo quan, cô bị thương nặng vậy, có lẽ chúng ta nên ở lại đây nghỉ ngơi thêm vài ngày nữa nhỉ.”
Lữ Cánh Nam nói: “Tôi bị thương nặng mà sao cậu vui vẻ thế? Vết thương của tôi chẳng là gì cả, đừng quên mục đích của chúng ta. Giờ kẻ địch đã vượt lên trước rồi, lại không có bằng chứng gì chứng tỏ chúng đã chết hết. Phải biết rằng, phạm vi nổ của quả lựu đạn Cường Ba thiếu gia ném ra chỉ ảnh hưởng được đến bốn năm tên mà thôi. Vì vậy, chúng ta phải mau chóng bắt kịp bọn chúng. Nếu bọn chúng tiêu diệt những làng phía trước, thậm chí đánh thẳng đến Tước Mẫu, vậy thì cổ độc của Cường Ba thiếu gia coi như hết cách rồi. Vì vậy, chúng ta phải xuất phát ngay hôm nay!”
Thần sắc Trương Lập tức thì trở nên sầm sì ảm đạm. Nhạc Dương cười hích hích châm chọc: “Anh được đấy… hí hí, bên hồ nước dưới ánh trăng, bãi cỏ lau thật đẹp biết mấy.”
Mặt Trương Lập đỏ bừng lên, hồi lâu sau mới lấy hết dũng khí nói: “Bây giờ, Mã Cát là vợ tôi rồi.”
“Ồ!” Nhạc Dương nói: “Chuyện đã rồi, chuyện đã rồi, cái đồ ăn cơm trước kẻng.”
Trương Lập vội nói: “Không, không phải thế.” Đến tối qua anh mới biết, thì ra anh nhận đóa hoa đỏ của Mã Cát tặng, rồi lại cài nó lên đầu cô, vậy là đã thừa nhận Mã Cát là vợ mình, chẳng trách Mã Cát lại chủ động như thế. Trong suy nghĩ của cô, đó là việc người vợ cần phải làm. Trương Lập gãi gãi đầu, nói qua nói lại một hồi lâu mới giải thích rõ được chuyện này.
Nhạc Dương nói: “Nhưng làm vậy là phi pháp đó!”
Trương Lập giận dữ quát: “Cái thằng này, nói nữa thử xem, tôi đánh đấy!”
Nhạc Dương vẫn toét miệng cười hì hì.
“Vậy, cậu tính sao?” Trác Mộc Cường Ba bình tĩnh hỏi Trương Lập.
Trương Lập lấy làm khó xử. Anh nhất định phải đi cùng mọi người, về điểm này thì không gì có thể thay đổi được, nhưng nếu cứ đi thế này, anh lại có cảm giác mình giống như những gã bạc tình lang trong truyền thuyết quá. Đặc biệt là khi vừa mới “chiếm đoạt” thân thể của người thiếu nữ ấy, lại “chiếm đoạt” cả trái tim cô, như vậy thì có khác nào những kẻ lãng tử đa tình trong truyện đâu cơ chứ? Nếu Mã Cát có con với mình thì sao? Chậc chậc, nghĩ xa quá rồi. Trương Lập khổ sở vò đầu bứt tóc, thực chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Mã Cát nữa, nên nói thế nào với cô bây giờ?
Mã Cát ở bên cạnh nhìn Trương Lập đang ủ ê rầu rĩ, trong lòng cũng thầm nhủ: “Tại sao anh Lập lại buồn như vậy? Tại sao mọi người đều nhìn anh ấy với ánh mắt đó? Lẽ nào anh ấy đã làm gì sai? Lẽ nào, Mã Cát trở thành vợ anh Lập, nên mọi người đều nhìn anh ấy với ánh mắt thù địch? À, phải rồi, họ có sáu người đàn ông đi cùng nhau, tình thân như anh em, vậy mà Mã Cát chỉ thành vợ của anh Lập thôi, những người khác đương nhiên là không vui rồi.”
“Ưm, thế này…” Mã Cát ngượng ngùng đứng dậy nói: “Em có thể, có thể trở thành vợ của tất cả mọi người.”
Tất cả đều đần thối mặt ra, nhất thời đều không kịp phản ứng.
“Em có thể trở thành vợ của tất cả mọi người.” Mã Cát tự hào lặp lại một lần. “Vậy là mọi người đều vui vẻ rồi đúng không.” Cô thầm nghĩ.
“Phụt…” Nhạc Dương đang cầm cốc nước, vừa nhấp được một chút đã phì cả ra ngoài, đội trưởng Hồ Dương mỉm cười, nhưng nhìn cũng có vẻ rất thích thú; sắc mặt Ba Tang hơi đực ra; đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng trợn tròn mắt, làm Đường Mẫn tức tối véo gã một cái thật mạnh, chỉ có pháp sư Á La là lặng lẽ chắp tay kết thủ ấn, lẩm nhẩm niệm kinh.
Phản ứng của Trương Lập là dữ dội nhất, anh chàng nhảy dựng lên như con mèo bị ai giẫm phải đuôi. “Các, các người…” Ngón tay chỉ vào mặt Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, vẻ mặt kích động khôn cùng, cuối cùng ngón tay và ánh mắt của anh khóa chặt lên gương mặt đang cười toe toét của Nhạc Dương: “Cậu cười cái gì? Có cái gì đáng cười đâu chứ? Không được cười! Cấm không ai được cười!”
Nhạc Dương thực sự không sao nín nổi cười, hai vai giật giật, nói không ra hơi: “Tôi, hí hí, tôi nghĩ…”
“Nghĩ cũng không được!” Trương Lập nhảy lên chồm chồm. “Đừng tưởng tôi không biết cậu đang nghĩ gì! Từ lâu cậu đã nghĩ thế rồi! Nói cho cậu biết, cậu mà còn suy nghĩ này trong đầu, tôi… tôi, hừ! Chẳng anh em gì nữa! Hừ! Thật đúng là…!”
Trương Lập tức đến lỗ mũi xịt khói, nhưng lúc quay người lại đối diện với Mã Cát, lại không biết phải mở miệng thế nào. Anh đặt tay lên vai Mã Cát, nhăn nhó nói: “Mã Cát à, anh phải nói với em, chuyện này, em… em… em sao có thể nghĩ như vậy được chứ?”
Mã Cát nghiêng nghiêng mặt nhìn Trương Lập, không phải ai cũng đều rất vui vẻ đấy sao? Cô đang định cất tiếng, Trương Lập đã ghé tai sát vào, căng thẳng thì thầm: “Nói, nói nhỏ cho mình anh nghe là được rồi.”
Mã Cát liền nói ra ý nghĩ cổ quái của mình, xong rồi còn ấm ức cao giọng: “Có gì không ổn đâu chứ?”
Trương Lập nghe được cái lý do khiến anh dở khóc dở cười ấy, bối rối vò đầu bứt tóc, chẳng biết phải làm sao nữa. Sao lại như vậy được chứ? Lẽ nào cô không biết, một người vợ chỉ nên chung thủy với người chồng duy nhất của mình hay sao? Cuối cùng, Trương Lập đành thử giải thích cho Mã Cát biết thế nào là chế độ một vợ một chồng. Chẳng ngờ, vẻ mặt Mã Cát lại như thể không sao tin nổi đó là sự thực, ý chừng cảm thấy thực sự không thể hiểu nổi tại sao trên đời này lại có chế độ như thế. Chỉ nghe cô nói với giọng hết sức ngạc nhiên: “Làm sao thế được? Một người vợ, thì phải có rất nhiều chồng mới đúng chứ? Em còn có năm bố đây này.” Mã Cát giơ bàn tay nhỏ nhắn của mình lên trước mắt, năm ngón tay, không thừa, không thiếu.
Trương Lập trợn mắt đến nỗi con ngươi cũng sắp rơi ra ngoài. Pháp sư Á La liền lên tiếng: “Ở đây họ theo chế độ một vợ nhiều chồng.”
“Tại sao lại như vậy?” Trương Lập hỏi ngay tắp lự.
Pháp sư Á La lắc đầu: “Không biết, theo tôi hiểu, thường là những gia đình tương đối nghèo mới có trường hợp anh em cùng lấy chung một người vợ. Trước khi nước Trung Quốc mới thành lập, ở một số vùng nghèo đói lạc hậu của Tây Tạng vẫn còn giữ tập tục này, về sau dần dần đã bị chế độ một vợ một chồng thay thế. Có điều, ở đây hình như không phải thế, vả lại, nam đinh trong làng ít như vậy, theo lẽ phải là chế độ hôn phối một chồng nhiều vợ mới đúng chứ nhỉ, sao lại thành một vợ nhiều chồng được? Có lẽ, chúng ta phải hỏi Địch ô đại nhân mới biết được.”
Đầu Trương Lập như muốn nổ tung, vội vàng giải thích với Mã Cát về những điểm ưu việt của chế độ một vợ một chồng.
“Không phải như em nghĩ đâu.”
“Nhìn họ có điểm gì giống người chưa có vợ đâu chứ?”
“Em hiểu lầm hết cả rồi.”
“Em nhìn họ kìa, người kia, cả người kia nữa…” Trương Lập vừa thì thầm rủ rỉ với Mã Cát, vừa không ngừng đảo ánh mắt liếc qua chỗ Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam.
Mã Cát chốc chốc lại khẽ thốt lên kinh ngạc: “Hả, một người lại có hai người…” Trương Lập vội vội vàng vàng bịt chặt cái miệng nhỏ nhắn của cô lại. Hai người cứ rì rà rì rầm, toàn nói chuyện về bọn Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt như kẻ trộm ấy của Trương Lập khiến Lữ Cánh Nam nhìn mà phát bực, cô gắt lên: “Trương Lập, cậu lầm bà lầm bầm cái gì thế? Nói lớn tiếng lên xem nào!”
“Đâu… đâu có gì, tôi chỉ cải chính lại một số hiểu lầm thôi mà… à, ha ha!” Trương Lập cười khan mấy tiếng. Có cho ăn gan giời, anh chàng cũng chẳng dám lớn tiếng nói chuyện vừa nãy.
“Giờ không phải lúc nói mấy chuyện này nhỉ?” Ba Tang hờ hững lên tiếng.
Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Ừm, cũng đến lúc lên đường rồi. Phải đến báo với Địch ô đại nhân một tiếng, tiện thể cũng hỏi xem hành trình tiếp theo thế nào. Đi thôi.”
Mọi người đều đeo ba lô, loạt soạt đứng dậy, liếc nhìn Trương Lập với những ánh mắt khác nhau, sau đó lần lượt ra khỏi gian phòng. Nhìn các đồng đội từng người từng người một đi ra, Trương Lập càng thấy căng thẳng bội phần. Anh ngập ngừng, ấp a ấp úng, vấn đề lúc này không chỉ là làm sao nói lời từ biệt với Mã Cát, mà nghiêm trọng hơn, là phải uốn nắn lại quan niệm đáng sợ kia của cô, cái gì mà một người vợ phải có nhiều chồng mới đúng chứ! Tuyệt đối không thể nào chấp nhận được!
Trong phòng chỉ còn lại hai người. Trương Lập cảm thấy, không gian nơi đây sao mà chật hẹp thế, anh và Mã Cát gần kề bên nhau đến thế, nhưng, tại sao lại luôn có cảm giác mình không giữ nổi Mã Cát? Cảm giác trống rỗng, bất lực ấy khiến lòng anh như bị nhấn chìm trong cơn sóng tự trách chính mình.
“Anh Lập, phải đi rồi à?” Mã Cát khẽ nhắc lại. Mặc dù đã biết hết từ đêm trước, mặc dù trong lòng cũng đầy lưu luyến, không nỡ rời xa. Thế nhưng, người đàn ông này đã mang đến cho cô những hồi ức đẹp đẽ, quý giá nhất, cô còn mong cầu điều gì nữa đây? Cô chỉ nhoẻn miệng khẽ cười, nụ cười rất ngọt ngào, cũng rất mãn nguyện.
Trương Lập gắng hết sức để lòng mình tĩnh lặng trở lại, ôm chặt Mã Cát vào lòng: “Mã Cát, tin anh đi, anh thực lòng muốn ở bên em mãi mãi. Nhưng anh là một người đàn ông, những người bạn cùng đi với anh kia, bọn anh là một thể thống nhất, mỗi người đều bị sợi dây vận mệnh trói chặt lại với nhau, mang trên vai một sứ mệnh không thể không hoàn thành. Vì vậy, anh buộc lòng phải tạm thời lìa xa em. Nhưng em phải tin rằng, anh nhất định sẽ trở về, anh nhất định sẽ đưa em ra xem thế giới bên ngoài kia, đưa em đi ngắm nhìn bầu không hằng đêm đều có trăng sao kia. Thực ra, đối với chuyến đi lần này, anh cũng không nắm chắc lắm, cũng từng nghĩ đến chuyện mình sẽ phải chôn thây ở mảnh đất xa lạ này. Thế nhưng, kể từ hôm nay, anh sẽ vì em mà sống cho thật tốt. Tin anh đi, hãy đợi anh trở về.”
Mã Cát chớp chớp đôi mắt to tròn, áp mặt vào lồng ngực Trương Lập, dịu dàng nói: “Em sẽ đợi anh mãi mãi.”
Kế đó, Trương Lập liền đi vào trọng điểm: “Ừm, nhưng mà… em không được, ngàn vạn lần không được tìm thêm chồng nữa. Anh… anh sợ, sợ họ không biết yêu em… anh…”
Mã Cát lại càng ôm chặt hơn: “Em biết rồi, anh Lập, em không đi tìm chồng nào khác nữa, em sẽ đợi anh trở về, đợi mãi…” Cảnh vật trước mắt như mờ đi, đó là gì vậy? Phải chăng chính là cảm giác hạnh phúc?
“Ồ, chuyện đó hả, thực ra đúng như pháp sư Á La đã nói, đều là vì nhu cầu sinh sôi nảy nở của chủng tộc, chúng tôi mới buộc phải theo chế độ một vợ nhiều chồng này.” Khi gặp Địch ô đại nhân, Nhạc Dương vẫn không nhịn được giúp Trương Lập hỏi thăm chuyện ấy. Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Mọi người cũng biết rồi đấy, ở vùng đất này đã từng một độ có rất nhiều thôn làng và thành bang, mỗi thôn làng đều có hơn vạn nhân khẩu. Nghìn năm trước, chúng tôi có nhiều chế độ hôn phối cùng tồn tại, quý tộc và những người giàu có thì một chồng nhiều vợ, người bình thường đa phần đều là một vợ một chồng, còn những gia đình cực kỳ nghèo khó thì buộc phải mấy anh em lấy chung một người vợ, vì không đủ sính lễ, cũng không gánh vác được cuộc sống có quá nhiều nhân khẩu. Truyền thuyết kể rằng, thời ấy cũng là một thời kỳ vô cùng hỗn loạn, năm nào cũng có đánh trận, trận nhỏ thì cứ liên tu bất tận chẳng bao giờ ngừng, trận lớn thì mười mấy năm lại nổ ra một bận, kẻ chiến bại bị thôn tính, tiêu diệt, hoặc phải rời khỏi nơi đây, sau đó lại có những dân tộc khác di cư đến, lại có những cuộc chiến mới. Nhưng sau khi bộ tộc Qua Ba xuất hiện, trước tiên họ dùng vũ lực chinh phục tất cả các bộ tộc khác, sau rồi lại chiêu mộ rất nhiều nhân công đi xây dựng Bạc Ba La thần miếu và các tòa thành đá. Tương truyền, công việc lao lực ấy đã khiến rất nhiều người mất mạng, cuối cùng gây ra phản biến, nhưng cuộc tạo phản đã nhanh chóng bị trấn áp, người đứng đầu Ni Mã Khang bị cực hình xử tử. Bộ tộc Qua Ba tuy rất lớn mạnh, nhưng sau sự kiện phản biến đó, họ cũng ý thức được các bộ tộc vốn sinh sống ở Shangri-la này rất đông đúc, cứ như vậy, họ sẽ khó mà thống trị được nơi này. Vì thế, họ đã sử dụng một loại cổ độc có phạm vi rất lớn… toàn bộ những người đi xây dựng thành đá chỉ trong một đêm đờ đẫn như bị say rượu, nhưng đều không biết đã xảy ra chuyện gì. Về sau, những người đó trở về, lại gieo rắc thứ cổ độc ấy đến từng thôn làng.”
“Đó là loại cổ độc gì vậy?” đội trưởng Hồ Dương hỏi.
Địch ô An Cát Mẫu lắc đầu nói: “Rất nhiều năm sau, người ở Thánh vực mới phát hiện, đàn bà trở nên rất khó thụ thai, dù chồng họ cố gắng đến mấy, họ cũng không thể có con được. Thỉnh thoảng có thành công, thì đứa trẻ ra đời cũng dị hình dị dạng, chẳng được mấy là chết.”
“A! Tuyệt hộ chi cổ!” pháp sư Á La kêu lên khe khẽ. “Tôi từng đọc được trong các điển tịch cổ xưa, thật không ngờ, trên đời này lại thực sự có loại cổ độc như thế!”
“Đó rốt cuộc là gì vậy?”
“Nói theo khái niệm y học hiện đại, thì là một loại phương pháp dùng chất độc khiến cho số lượng tinh trùng của đàn ông giảm mạnh, cuối cùng dẫn đến không thể thụ thai, nếu nhất định phải cho nó một cái tên, vậy thì có thể gọi là chứng tuyệt tinh di truyền. Mọi người đều biết, trong một mi li lít tinh dịch của một người đàn ông bình thường có khoảng hơn một trăm triệu tinh trùng, mà cuối cùng chỉ có một con duy nhất có thể kết hợp được với trứng trong tử cung của người phụ nữ. Cũng có nghĩa là, mỗi đứa trẻ sinh ra trên đời đều phải trải qua một cuộc cạnh tranh vô cùng tàn khốc, phải vượt lên trên hàng trăm triệu đồng bào của nó, ngoài thể lực, kỹ thuật ra, còn phải nhờ đến may mắn và sự mẫn tiệp nhất định. Như vậy, mới có thể đảm bảo rằng mỗi người sinh ra trên đời này đều là những cá thể ưu tú và độc nhất vô nhị. Nhưng những người đàn ông trúng phải thứ cổ độc này, mỗi lần xuất tinh, chỉ có thể phóng ra vài nghìn hoặc vài trăm tinh trùng, so với đàn ông bình thường, con số ấy gần như là bằng không, vậy nên tỉ lệ thụ thai thành công cũng giảm xuống rất nhiều. Hơn nữa, thiếu đi sự cạnh tranh, cho dù có thụ thai được, thì đứa trẻ ra đời cũng rất dễ bị chết yểu.”
Giải thích đến đây, pháp sư Á La quay sang phía Địch ô An Cát Mẫu, nói: “Về sau thì thế nào?”
Địch ô An Cát Mẫu nói: “Về sau, một người phụ nữ trong đời có thể sinh ra một đứa con khỏe mạnh đã là may mắn lắm rồi, càng nghiêm trọng hơn nữa là, tình trạng này cũng xuất hiện ở những đứa trẻ đời sau, và tiếp diễn mãi cho đến ngày nay. Vậy nên, nhân khẩu ở đây giảm đi nhanh chóng…”
“Thế nhưng, mọi người lại phát hiện, trong các gia đình nghèo khó, những người phụ nữ nhiều chồng lại có thể thụ thai bình thường, tuy không sinh đẻ được nhiều con lắm, nhưng khỏe mạnh, hiếm khi bị dị dạng. Vì vậy, dần dần, mọi nơi trong Thánh vực này đều chuyển sang chế độ hôn phối một vợ nhiều chồng.”
“Sao… sao lại thế được?”
Pháp sư Á La liền giải thích: “Đây đúng là một cách trong lúc không có cách nào khác, một người đàn ông một lần chỉ có mấy trăm đến mấy ngàn tinh trùng, mười người thì có thể tăng lên đến cả vạn con, thế nào chẳng có tinh trùng mạnh khỏe bình thường có được cơ hội thụ thai. Số lượng và chất lượng cá thể đều không ổn, thì chỉ có thể tăng số cá thể lên thôi.”
Địch ô An Cát Mẫu lại nói: “Không chỉ có vậy, cổ nhân còn phát hiện, nếu một người vợ lấy năm người chồng, thì nhiều nhất cũng chỉ sinh được sáu đứa con, tuyệt đối không vượt qua con số này. Trong một khoảng thời gian rất dài, nhân khẩu các thôn làng ở Thánh vực đều chỉ khoảng trên dưới một nghìn người, sáu bảy trăm năm nay cũng chưa hề tăng trưởng.”
Pháp sư Á La nói: “Có điều, theo tôi được biết, dù cổ độc lợi hại mấy, thời gian cũng không thể kéo dài quá nghìn năm được, duy trì liên tiếp ba trăm đời, đã được coi là rất lợi hại rồi.”
Địch ô An Cát Mẫu gật đầu: “Đúng vậy, thực ra như tôi biết, tỉ lệ thụ thai của phụ nữ ở Thánh vực đã tăng lên rất nhiều rồi, hơn trăm năm trước nhân khẩu đã bắt đầu tăng thêm. Chỉ có điều, muốn hình thành nên một tập tục không phải chuyện vài chục năm có thể làm được, tương tự vậy, cũng không phải chỉ vài chục năm là thay đổi được nó.”
Nhạc Dương chợt kêu lên: “A! Tôi hiểu ra rồi!” Thấy ánh mắt của tất cả mọi người đều chú ý về phía mình, anh hơi ngại ngần, đành gượng cười nói: “Tôi nghĩ… đây chỉ là suy đoán của tôi thôi nhé, trong bản ký lục của thôn Công Bố kia, sau khi Bạc Ba La thần miếu xây dựng xong, có đến sáu bảy trăm năm không hề nổ ra cuộc chiến nào, nguyên nhân có lẽ chính là do thứ cổ độc này! Mọi người nghĩ thử xem, cả không gian Thánh vực chỉ có ngần này, tài nguyên cũng có hạn, nếu nhân số cứ tăng gia vô hạn, vậy thì phạm vi sinh sống của họ chắc chắn sẽ càng xích lại gần nhau hơn, tư liệu sản xuất cũng sẽ không đủ để phân phối, cộng với sự khác biệt về văn hóa và tín ngưỡng nữa, không đánh nhau mới là lạ đấy! Người Qua Ba đã sử dụng cổ độc, khống chế nhân số luôn ở trong một phạm vi nhất định nào đó, mỗi thôn làng đều có đủ tài nguyên để duy trì sự sống, lại phải chống chọi lại với môi trường khắc nghiệt, tự nhiên là chiến tranh không thể bùng nổ được rồi!”
Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Cũng có thể coi là, cuộc chiến giữa người với người trở thành cuộc chiến giữa con người với thiên nhiên. Cho dù là mô thức chiến tranh nào chăng nữa, kỳ thực cũng chỉ vì sự sinh sôi nảy nở và sinh tồn của chủng tộc mà thôi.”
Nghe Nhạc Dương nói vậy, Địch ô An Cát Mẫu cũng bảo: “Đúng thế, khoảng thời gian đó gần như không có chiến tranh bùng phát, thôn làng nào cũng có thể tự cấp tự túc, chúng tôi gọi đó là thời kỳ yên bình.”
“Được rồi, vấn đề này đã làm rõ, phiền Địch ô đại nhân cho biết, tiếp sau đây chúng tôi sẽ phải đi như thế nào.” Lữ Cánh Nam cho rằng không cần phải truy cứu thêm vấn đề này làm gì nữa.
“Ừm, con đường các vị phải đi ấy, thời trẻ tôi mới chỉ đi qua hai lần, nhưng giờ nhớ lại, ký ức vẫn còn mới nguyên.” Địch ô An Cát Mẫu cầm bản đồ, lấy ngón tay vạch ra tuyến đường, đoạn nói: “Trước đây, các vị vẫn luôn đi dọc theo bên mép bình đài đúng không?” Sau khi nhận được đáp án khẳng định, ông gật gật đầu: “Phải, tránh xa rừng sâu mới có thể thoát khỏi sự tập kích của bọn dã thú, phương pháp này rất thông minh, nhưng ở đây thì không ổn, tôi tin rằng các vị cũng đã cảm nhận được rồi, đúng không?”
“Đúng vậy, có bọn chim khổng lồ.”
“Kha kha, chim khổng lồ à, đó là Cộng mệnh điểu, lũ thực thần tà ác, cả Đại kim điêu cũng không thể đối đầu với chúng được. Có điều, cũng chính vì có chúng, nên vùng quanh đây mới tương đối an toàn, lũ dã thú lớn đều bị chúng bắt làm thức ăn, còn rừng già rậm rạp lại ngăn cản bước tiến của chúng.”
“Tôi luôn cho rằng, sào huyệt của chúng ở trên tầng bình đài thứ ba.”
“Không, không, không, tầng bình đài thứ ba là thiên hạ của người Qua Ba, lũ Cộng mệnh điểu tuy đáng sợ, nhưng so với người Qua Ba thì cũng chẳng có phần thắng nào đâu. Cũng giống như chúng tôi, chỉ khi nào không có thức ăn, thực sự đói đến không thể chịu nổi, bọn chúng mới lên tầng bình đài thứ ba trộm thức ăn. Có điều, cũng phải dùng tính mạng để đánh đổi đó, nếu may mắn thì được hưởng thụ một bữa đầy đủ no say, không may thì lại trở thành bữa ăn của kẻ khác. Thôi, tôi lại nói chệch đi đâu mất rồi. Cho các vị biết, từ đây đến Tước Mẫu có hai con đường. Vốn là từ Cường Nhật đến Phá Nhật, rồi qua Thác Nhật là có thể đến nơi, nhưng giờ những nơi này đều đã được khuyên đỏ, tức là không có người ở nữa. Ừm, tấm bản đồ này chắc mới vẽ gần đây thôi đúng không? Nhưng người Hạ Qua Ba đã nói những thôn làng này không có người ở nữa, thì chắc là không có ai đâu. Vậy là không ổn rồi, con đường này vốn là tương đối an toàn, nhưng giờ không còn người ở, dã thú trong rừng nhất định sẽ rất nhiều, hừm…” Địch ô An Cát Mẫu vừa lắc đầu, vừa phát ra một tiếng thở dài.
“Còn một con đường nữa thì sao?”
“Còn một con đường nữa, chính là men theo mép sát phía bên trong bình đài tiến lên, có điều rất tối tăm, hơn nữa còn có nhiều người Lỗ Mặc. Nếu không có đông người, thường không ai đi con đường ấy cả.”
“Vậy sao vẫn có người chọn đường đó?”
“Vì con đường ấy là gần nhất. Ừm, tấm bản đồ này đánh dấu không được chuẩn lắm, thoạt nhìn có vẻ đi trong rừng thì đường gần hơn một chút, nhưng những người từng đến Tước Mẫu đều biết, đi bên dưới vách đá, nếu chạy nhanh thì chỉ cần một ngày là đến được đó rồi, còn băng rừng thì ít nhất cũng tốn ba ngày. À, phải rồi, đi được nửa đường sẽ gặp một di tích, nghe nói là thần điện của người Mục xây dựng trước đây, giờ đã hoang phế từ lâu lắm rồi, nhưng có thể tạm thời ẩn tránh bọn người Lỗ Mặc ở đó được.”
“Chỗ đó có thể ẩn tránh người Lỗ Mặc tấn công? Đó là nơi như thế nào?”
“Một nơi kỳ quái, tóm lại, các vị cứ tới đó thì sẽ biết, nhưng bảo tôi nói ra thì tôi cũng chịu. Chỉ biết là nó khác với tất cả các thần điện mà các vị từng thấy thôi.”
Nhạc Dương lại chăm chú nhìn bản đồ, nói: “Tước Mẫu sao lại ở sâu tít trong rừng thế này? Chỗ đó tối tăm lắm mà?”
Địch ô đại nhân lắc đầu đáp: “Không, không, không, chỗ người Tước Mẫu sống không có rừng, sáng sủa lắm.”
“Thế họ không sợ Cộng mệnh điểu tấn công à?”
“Các vị phải đến tận nơi mới biết được, Cộng mệnh điểu không thể tấn công chỗ đó được.”
Tính sao bây giờ? Bọn Trác Mộc Cường Ba thương lượng nhanh một lúc, kẻ địch đã men theo vách đá bỏ chạy, vậy thì họ cũng chỉ còn cách đi con đường này mà truy đuổi chúng, dù sao thì đây cũng là đường gần nhất. Hơn nữa, rất có khả năng, kẻ địch đang ở trong thần điện của người Mục để chỉnh đốn đội ngũ.
Sau khi thương nghị xong xuôi, pháp sư Á La nói với Địch ô đại nhân: “Chúng tôi đã quyết định rồi, đi men theo vách đá. Phiền ngài nói tường tận hơn về di tích kia được không.”
“Ừm, để tôi nhớ lại đã, chỗ ấy được khoét vào trong vách đá, đầu tiên là có một cầu thang dài thẳng tắp…”