Chương 9: Thu lộ hành sương

Thu lộ hành sương

Một lúc sau, một trong các đại thái giám của hoàng hậu là Vĩnh Tế cũng tới. Điện Ung Thuần lố nhố nào là hoạn quan, cung nữ, cấm vệ quân, hộ vệ vương phủ, gần như phải chen vai thích cánh nhau. Thấy tình cảnh ấy, Lý Thư Bạch chịu không nổi, bèn giơ tay ra hiệu cho tất cả lui ra, chỉ để lại mười mấy người do Vương Uẩn chỉ huy sục sạo tìm kiếm mọi dấu vết có thể trong điện.

Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ra đứng ngay trước cửa, quan sát kỹ chung quanh.

Điện Ung Thuần đã yên tĩnh trở lại, giữa đêm khuya trông chẳng khác gì cung điện bình thường, cả điện có bảy gian đằng trước và bảy gian đằng sau, bố cục oai nghiêm nên có phần thô cứng, được nối thông bằng hai hành lang trái phải, tạo thành một chữ khẩu. Nhằm làm dịu thiết kế cứng nhắc này, những người thợ thủ công đã lát một con đường bằng đá xanh ở sân giữa, hai bên đặt hòn giả sơn. Giả sơn không cao, chỉ có một hai khối đá vượt đầu người, còn lại là đá vừa và nhỏ bày lẫn lộn với nhau cho đẹp mà thôi, bởi vậy đứng ở khu phía trước có thể nhìn thấy rõ mồn một khu phía sau.

“Bấy giờ chúng ta đứng dưới mái hiên đại sảnh, gần hành lang, nhìn theo Vương Nhược đi dọc con đường lát gạch xanh vào nội điện. Vì Vương Nhược ngủ tại gác trái nên khi đi được phần tư đường đã vòng qua giả sơn, song chúng ta vẫn có thể trông thấy bóng dáng. Quả thực chúng ta đã thấy cô ấy đi vào gác trái, không quay a nữa.”

Lý Thư Bạch gật đầu tỏ ý xác nhận.

“Ngay sau khi Vương Nhược vào cửa điện, Nhàn Vân lại bưng hộp đồ ăn đến nhà bếp. Sau đó, Nhiễm Vân xách đèn lồng đi ra tìm trâm. Đến đây có một nghi vấn phải đặt ra, tại sao đương lúc tình hình nhạy cảm phải cảnh giác cao độ thế này mà cả Nhàn Vân lẫn Nhiễm Vân lại cùng ra ngoài, sao không nghĩ tới việc để một người ở lại cạnh Vương Nhược?” Hoàng Tử Hà nói, đoạn bước đến bên bàn ngồi xuống, định giơ tay rút trâm cài tóc vẽ ký hiệu theo thói quen, nhưng vừa đưa tay lên đã chạm phải chiếc mũ hoạn quan bằng sa trên đầu, bất giác khựng lại, sau đó cầm lấy cây trâm sương lá đang đặt trên bàn vẽ sơ đồ điện Ung Thuần.

Lý Thư Bạch theo dõi, hơi cau mày. Hoàng Tử Hà không bận tâm, ung dung thuật lại mọi chuyện khi ấy, “Sau đó tôi lên tiếng hỏi, họ bèn kể chuyện tìm trâm, tôi đi đến sau hòn giả sơn phát hiện thấy cây trâm, bèn cầm lấy đưa cho họ, bấy giờ Nhàn Vân cũng vừa mới quay về, đem theo bánh hồ đào.”

Trên bức phác họa mờ đến mức gần như không thể nhìn thấy, cô lại vạch một đường từ nội điện đến nhà bếp bên cửa ngách, “Nhà bếp của điện Ung Thuần nằm ở góc Tây Nam, ngay sát tường, các đầu bếp đều đã bị đuổi đi vì lý do an toàn. Nhàn Vân lần đầu vào cung, vậy mà chỉ trong một khoảng thời gian ngắn như vậy đã tìm thấy điểm tâm dù nhà bếp không có ai để hỏi han, chẳng rõ là vì may mắn hay có giác quan đặc biệt với đồ ăn?”

Lý Thư Bạch liếc cây trâm trong tay cô đang vô thức vạch vạch trên bàn, thản nhiên hỏi, “Ta tưởng ngươi còn phán đoán nào khác nữa kia?”

“Còn nữa, nội điện gồm ba phần, từ trái sang phải lần lượt là gác trái, sảnh nhỏ, gác phải. Thực ra nội điện có bảy gian, hai gian bên trái và hai gian bên phải đã dùng làm gác, chỉ có ba gian giữa được coi là sảnh. Gác trái cấu tạo như phòng ấm, bốn vách tường dày dặn, hơn nữa chỉ có một cửa sổ, nằm cùng phía với cửa lớn của nội điện, nhìn thẳng ra sân giữa và sảnh lớn. Bởi thế, nếu muốn ra vào gác trái thì chỉ có một con đường là đi qua sảnh nhỏ. Trong lúc tôi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân ba người đứng sờ sờ ở cửa sảnh nhỏ, cô ấy trừ cách đi xuyên tường, chỉ còn biện pháp duy nhất là trèo cửa sổ ra ngoài.”

“Ngoài cửa sổ chẳng những có hai người trông giữ từng giờ từng khắc, mà ngay hành lang đại sảnh cũng luôn luôn có người canh giữ, ta lại đang đứng ở chính hành lang đó, nếu cửa sổ mở ra, thì ta và những người khác sẽ trông thấy trước tiên.”

“Còn một khả năng nữa, là ở nội điện có đường hầm.” Hoàng Tử Hà quăng cây trâm xuống, cùng Lý Thư Bạch quay lại gác trái, quan sát căn gác chỉ có một cửa chính một cửa sổ, không hề có chỗ ẩn nấp.

“Đường hầm hả, có thể lắm.” Lý Thư Bạch ngồi xuống chiếc ghế thấp, tự rót trà uống. Thấy đại gia đây chẳng giúp được việc gì, Hoàng Tử Hà đành bấm bụng tự kiểm tra từng mảng tường, thậm chí bê cả tủ quần áo ra, gõ gõ vào mảng tường phía sau tủ hồi lâu.

Lý Thư Bạch ung dung uống trà, nhìn cô như đang xem một vở kịch không chút liên quan đến mình. Thấy ngón tay đã sưng lên vì gõ, Hoàng Tử Hà đang định xoa xoa một lát thì Lý Thư Bạch quăng cho cô một vật. Cô bắt lấy xem thử, ra là nửa thoi bạc, vuông vắn dày dặn, ước chừng nặng đến mười lạng. Cô nằm bò dưới đất, gõ bạc xuống nền gạch, chăm chú lắng nghe âm vọng bên dưới, song chẳng thu được gì. Ngay cả phần gạch xanh dưới thảm, cô cũng lật thảm lên gõ gõ từng viên một.

Lý Thư Bạch vẫn thờ ơ như không, khi cô kiểm tra đến bên dưới chỗ ngồi của y, y bèn bưng ly trà chạy sang đệm gấm đối diện để ngồi, coi như không thấy.

Hoàng Tử Hà tìm đến mệt lử mà chẳng thu hoạch được gì, đành đứng dậy ngồi xuống trước mặt Lý Thư Bạch, đặt nửa thoi bạc kia lên bàn, “Vương gia ra đường sao còn đem theo bạc thoi, mà lại là nửa thoi vậy?”

“Đương nhiên ta đâu có mang.” Lý Thư Bạch đáp, đoạn trỏ ba ly trà đương úp, “Thấy nó đặt trên ghế, dùng ly trà úp lên, ta cầm chén uống trà mới phát hiện ra đó.”

“Lạ thật, ai lại để nửa thoi bạc này trên bàn chứ?” Cô lật qua lật lại săm soi, thấy phía sau thoi bạc theo thông lệ có đúc chữ, ở đây là:

Phó sử Lương Vi Đống… Nội khố sứ thần Trương Quân Ích. Đúc bạc hai…

Lý Thư Bạch cầm lấy thoi bạc, quay mặt có chữ về phía cô, “Để tránh việc ăn bớt ăn xén khiến bạc không đủ trọng lượng, khi đúc người ta phải khắc tên một sứ thần và ba phó sử lên thoi bạc, để có bằng cứ mà tra.”

“Tôi biết, bởi thế nửa thoi còn lại hẳn có tên hai vị phó sử khác và chữ ‘mươi lạng’, xem ra đây là thoi bạc hai mươi lạng do kho bạc trong đại nội đúc thành.” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa ước chừng trọng lượng thoi bạc.

Lý Thư Bạch trỏ vào tên hai người trên thoi bạc, “Nhưng trong những người phụ trách đúc vàng bạc ở đại nội, không có ai tên như thế này cả.”

“Người phụ trách đúc bạc ở đại nội nhiều như vậy, lẽ nào vương gia đều biết cả ư?”

“Rất trùng hợp, trước đây bên kho bạc từng xảy ra một vụ nhận hối lộ, ta phụng mệnh dẫn theo mấy chục người chuyên tính toán thu chi ở bộ Hộ vào cung, đối chiếu tất cả sổ sách bao năm nay trong đại nội. Đồng thời cũng xem qua tư liệu về việc đúc vàng bạc và tiền đồng của bản triều từ khi khai quốc đến giờ nên đã ghi nhớ hết tên họ những người phụ trách đúc bạc, thậm chí kẻ chủ quản các kho phủ địa phương cũng nhớ rõ cả.”

Bản lĩnh nhìn qua là thuộc đáng sợ của kẻ này, Hoàng Tử Hà đã đích thân thể nghiệm, cô cầm nửa thoi bạc trong tay săm soi một hồi, lẩm bẩm, “Lẽ nào đây là bạc tự đúc?”

Song lập tức, cô lại lắc đầu phủ định suy đoán này, “Nếu là tự đúc, nhất định sẽ khắc tên của chủ nhân, chứ ai giả mạo làm sứ thần trong kho bạc đại nội – trừ phi đây là loại bạc giả lõi chì ngoài phố.”

“Cũng không phải, thoi bạc này được chặt làm đôi, vết chặt vẫn là bạc ròng, xét theo trọng lượng cũng không có chênh lệch.” Nhìn cô vắt óc nghĩ ngợi, Lý Thư Bạch giơ bốn ngón tay ra, “Xem ra đây cũng là một điểm cần chú ý – nửa thoi bạc chưa rõ lai lịch.”

“Sao lại là nửa thoi nhỉ?” Hoàng Tử Hà lẩm bẩm, cảm thấy khả năng đột phá từ phương diện này rất mong manh, bèn đặt nửa thoi bạc xuống cạnh cây trâm sương lá, rồi ngẩng lên hỏi Lý Thư Bạch, “Tiếp theo đây, vương gia định làm gì?”

“Nói đến việc này, quả thực ta cũng cần chuẩn bị một chút. Ngày mai có một đoàn sứ giả Thổ Phồn vào kinh, bộ Lễ nhờ ta giúp họ ra mặt tiếp đãi.” Y đứng dậy, thong thả phẩy vạt áo, “Từ đầu ta đã nói rồi thôi, chuyện này giao cả cho ngươi đấy, hiện giờ quả nhiên đã đi đến bước xấu nhất trong dự liệu, ngươi phải phụ trách giải quyết ổn thỏa chuyện này – ít nhất cũng phải tìm biết xem Vương Nhược thế nào.”

Hoàng Tử Hà đứng dậy theo y, “Một mình tôi ư?”

“Nội Đình và Đại Lý Tự nhất định sẽ nhúng tay vào, đến lúc đó ta sẽ nói một tiếng với họ, để ngươi luôn được tham gia – phải rồi, nếu phát hiện thấy thi thể gì đó thì cứ tìm Chu Tử Tần.”

Khóe môi Hoàng Tử Hà không khỏi giần giật – vương phi tương lai bảy ngày nữa là gả cho y, trong nháy mắt biến mất ngay trước mặt, vậy mà y vẫn quan tâm tới việc thi thể xuất hiện trước hết, thật chẳng hiểu là hạng người gì nữa!

Tình hình bây giờ như một mớ gai rối beng, đâu đâu cũng là manh mối, song đâu đâu cũng lại là thép tấm, chẳng biết phải bắt tay từ chỗ nào.

Hoàng Tử Hà quay vào điện Ung Thuần, sục sạo khắp các ngóc ngách, lại tưởng tượng ra vô số cách giấu giếm manh mối, chuồn ra ngoài qua cửa sổ hoặc cửa chính, rà soát lại đầu đuôi câu chuyện mấy lần, song vẫn chẳng thu được điều gì.

Thân thích của hoàng hậu, vương phi tương lai của Quỳ vương biến mất đầy bí ẩn ngay trong hoàng cung mà Nội Đình bó tay hết cách. Theo ý chỉ của hoàng hậu, Nội Đình không chỉ tra xét điện Ung Thuần mà còn lục lạo khắp cung Đại Minh, nhưng kết quả trắng tay cứ như đã được định sẵn. Đương nhiên không thể dỡ cả điện Ung Thuần ra, nhưng tất cả đồ đạc và trần thiết bên trong đều đã bị gỡ bỏ rồi lại lục soát thật kỹ một lần nữa, song chẳng thu được gì. Chẳng bao lâu sau, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm cũng dẫn theo một đám thôi thừa tri sự vào cung Đại Minh, tiến hành thẩm tra.

Theo lời Lý Thư Bạch căn dặn, Hoàng Tử Hà tới gặp Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm.

Trước đây trong vụ án Bốn Phương, cô đã gặp Thôi Thuần Trạm một lần, người này khoảng ba mươi tuổi, thuộc gia tộc họ Thôi ở Bác Lăng, là con cháu thế gia, thiếu niên đắc chí, luôn toát lên tinh thần nhiệt tình hăng hái. Vừa gặp y, trước mắt cô đã hiện lên hình ảnh Vương Uẩn, cảm thấy hai người này nhang nhác nhau.

Vì Hoàng Tử Hà là người của Quỳ vương phủ, trước đây lại từng phá được án Bốn Phương, nên Thôi Thuần Trạm hết sức nể vì cô, còn mời cô ngồi, cười nói, “Công công tuy trẻ tuổi song năng lực phá án thực khiến người ta bái phục. Lần này Quỳ vương để công công tham gia, hy vọng công công sẽ hết sức tương trợ.”

Hoàng Tử Hà vội đáp, “Nếu có chỗ nào cần tới, tôi nhất định sẽ dốc cạn sức mọn.”

Theo lệ Đại Lý Tự lại lặp lại quá trình cũ một lượt, Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân cùng mọi người trong cung đều bị triệu tới căn vặn cặn kẽ lần nữa. Song lời khai của họ vẫn vậy, không có gì khác, chỉ là vương phi đến điện Ung Thuần, Quỳ vương gia tới thăm, vương phi một mình ở gác phía Đông, những người khác vừa ra ngoài chốc lát thì vương phi đã biến mất.

Khi ấy, Hoàng Tử Hà cùng Lý Thư Bạch và hơn ba mươi người dưới sân đều không phát hiện được Vương Nhược ra vào lúc nào, thậm chí mấy viên hoạn quan ở gác phải, chỉ cách một sảnh nhỏ, cũng không hề nhận thấy bên gác trái có gì khác lạ.

Hai thị vệ đứng canh bên ngoài cửa sổ gác Đông bấy giờ cũng đang nghiêm chỉnh chấp hành nhiệm vụ, quả quyết bản thân không hề rời mắt khỏi khung cửa sổ, chính là khung cửa sổ mà Hoàng Tử Hà đã mở ra xem sau khi có chuyện.

“Vương đại nhân dặn chúng tôi phải trông chừng thật kỹ cửa sổ, nên chúng tôi không dám rời mắt!” Các thị vệ khẳng định.

“Quả nhiên vẫn là Vương Uẩn suy nghĩ chu đáo – tiếc rằng đề phòng muôn lối, cuối cùng vương phi vẫn xảy ra chuyện.” Thôi Thuần Trạm than thở. Hoang mang vì không có manh mối, hắn bối rối quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, “Đúng là chuyện quái gở… Chẳng biết công công có phát hiện gì không?”

Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Trước khi đại nhân đến, tôi và vương gia đã kiểm tra nhiều lần, song chẳng thu được gì cả, chỉ uổng công.”

Khi tra hỏi xong mọi người thì trời đã sắp tối. Tìm kiếm thật lâu cũng chẳng phát hiện được gì, chỉ có một binh sĩ lục soát nhà bếp phía sau trình lên một miếng gỗ cháy sém, nói rằng tìm được trong bếp lò.

Thôi Thuần Trạm đón lấy xem xét rồi ngán ngẩm lắc đầu, “Đồ ngốc! Nhà bếp đốt vài mẩu gỗ vụn thì có gì quan trọng? Thế mà cũng đem đến cho bản quan à!”

Hoàng Tử Hà nghe nói liền đón lấy xem kỹ, là một mẩu gỗ đã cháy gần hết, bề ngoài đen sì, nhưng vẫn giữ được đường nét cơ bản, mang máng thấy giống hình móng ngựa, đằng trước là mặt vát đã cháy vênh cả lên, đằng sau cong hình bán nguyệt.

Cô còn đương săm soi thì Thôi Thuần Trạm đã nói, “Nhà bếp trong cung thỉnh thoảng cũng lấy những đầu mẩu gỗ vụn làm củi đun, ta thấy cái này có lẽ là phần còn lại của món đồ gỗ nào đó thôi, không có gì lạ.”

Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn giao mẩu gỗ cho người của Đại Lý Tự, dặn dò, “Cứ giữ lại đi, biết đâu cần đến.”

“Dương công công nói phải, cứ giữ lại đã.” Thôi Thuần Trạm ưng thuận, rồi quay sang bảo người sắp xếp tài liệu, nói hôm nay chỉ đến đây là dừng.

Hoàng Tử Hà bèn cáo từ, Thôi Thuần Trạm vội gọi cô lại, cười nói, “Hôm nay hiếm hoi được lần gặp mặt, sau này còn phải hợp tác lâu dài, ta định mời công công đi ăn được chăng.”

Hiện giờ Hoàng Tử Hà là người do vương phủ phái đến tham dự vào vụ án này, đương nhiên đành phải nhận lời. Nhưng khi đến Chuế Cẩm Lâu ở chợ Tây, thấy trong phòng ngăn đã có mấy người ngồi, cô không khỏi ngán ngẩm.

Cẩm Nô ôm tỳ bà ngồi một bên xem như cũng là người quen, ngoài ra còn có Chu Tử Tần vận áo gấm thanh thiên viền nẹp hồng phấn, đeo thắt lưng vàng nhạt, đang hào hứng phân tích làm sao để phân biệt được thời gian tử vong thông qua vị thịt và mức độ thối rữa, hoàn toàn không đếm xỉa đến cảm giác của người khác khi nhìn gà vịt cá thịt ngồn ngộn trên bàn.

Một người mỉm cười đứng dậy đón Hoàng Tử Hà và Thôi Thuần Trạm, phong thái ung dung văn nhã như đi giữa gió xuân, chính là Vương Uẩn.

“Sùng Cổ!” Vừa thấy Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần mừng rỡ quên cả câu chuyện đang nói, rối rít vẫy tay với cô, “Vừa nghe có một vị Dương công công ở Quỳ vương phủ giúp Thôi huynh làm án, ta đã nghĩ ngay là công công, quả nhiên không sai!”

Hoàng Tử Hà phớt lờ chỗ trống bên cạnh Vương Uẩn, khăng khăng chọn ngồi cạnh Chu Tử Tần phối đồ xanh hồng lòe loẹt trông rất đáng sợ, miệng nói, “Không ngờ công tử cũng ở đây.”

Thôi Thuần Trạm cười nói, “Tử Tần có khả năng quan sát tinh tường các hiện trường xảy ra vụ án, đặc biệt còn có nghiên cứu sâu sắc về thi thể, Đại Lý Tự cũng thường phải nhờ vả đệ ấy. Tiếc rằng chẳng bao lâu nữa Tử Tần sẽ phải theo Chu đại nhân vào Thục, về sau bọn chúng ta trên kinh khó lòng gặp được nữa, nhân hôm nay phải uống thêm mấy chén đấy.”

Chu Tử Tần nhìn y đầy khinh bỉ, “Mỗi lần đều là bọn đệ uống, huynh toàn ỷ nhà có sư tử Hà Đông, xưa nay chỉ một hai chén đã xong, cái danh sợ vợ nhất kinh thành chẳng huynh thì còn ai nữa!”

Thôi Thuần Trạm cười ha hả, rõ ràng chẳng hề phật ý, cứ luôn miệng hỏi khi nào Chu Tường cha gã lên đường, lúc nào bày tiệc đốt đuôi(*)…

(*) Tiệc đốt đuôi là một loại yến tiệc đặc thù từng thịnh hành ở thành Trường An đời Đường, do quan mới nhậm chức hoặc mới được thăng chức chiêu đãi những bạn bè và đồng liêu tới chúc mừng. Cái tên “đốt đuôi” kỳ lạ có ba cách giải thích, một là khi hổ biến thành người, phải đốt đuôi đi; hai là nói khi dê nhập bầy mới, phải đốt cháy đuôi cũ mới được tiếp nhận; ba là cá chép vượt vũ môn, phải chịu bị lửa trời đốt trụi đuôi cá, mới có thể hóa rồng.

Đợi tám món ăn nóng sốt đưa cả lên, mọi người cùng cạn một chung, Vương Uẩn mới cất tiếng hỏi, “Chẳng hay việc Quỳ vương phi mất tích đến giờ đã có manh mối gì chưa?”

Thôi Thuần Trạm lắc đầu, “Xem ra vẫn cần thêm ít thời gian nữa.”

Vương Uẩn lộ vẻ lo lắng, song cũng không tỏ thái độ nhiều.

Nhìn đĩa cá mới bưng lên, Chu Tử Tần ồ một tiếng, “Hôm nay Lý thẩm vẫn phụ trách làm cá ở nhà bếp đi vắng ư?”

Tiểu nhị ngạc nhiên hỏi, “Sao Chu công tử biết vậy, hôm nay nhà Lý thẩm có việc, là người khác làm cá đấy.”

Chu Tử Tần nhăn mặt, “Thoạt nhìn là biết người mới làm, phần bụng cá ta thích nhất bị khuyết này, ngươi xem đường cắt thì xiên xẹo, lớp mỡ và da bụng đều bị phá hỏng cả, mùi hương và vị ngon đặc biệt ở bụng cá bị hủy hoại hết! Còn nữa còn nữa, các vị xem, cả sợi đen ở hậu môn cũng không lọc sạch, nào có được tay nghề điêu luyện như Lý thẩm!”

Người quanh bàn đều cười gượng, Vương Uẩn đổi chủ đề, “Dương công công và Tử Tần quen nhau ư?”

Hoàng Tử Hà ngồi cạnh Chu Tử Tần, bất lực nhìn gã gắp một miếng cá to đã được lọc sạch vào bát mình, “Có duyên gặp mặt một lần thôi.”

Thôi Thuần Trạm cười, “ Tử Tần với ai cũng có thể vừa gặp đã thân, chúng ta quen rồi.”

Chu Tử Tần nghiêm mặt phản bác, “Đệ và Sùng Cổ là bạn bè vào sinh ra tử, không như người bình thường đâu.”

Cùng đi quật mồ có một lần thôi mà? Từ lúc nào đã thành vào sinh ra tử vậy? Hoàng Tử Hà nhăn mặt, chỉ cắm cúi ăn cá trong bát. Chu Tử Tần vẫn ra rả bên tai cô, “Không phải ta tự khoe chứ, về ngón lọc xương cá ta là hạng nhất kinh thành, thậm chí nhất cả thiên hạ đấy. Trước đây bị gia phụ nhốt ở nhà, không cho theo ngỗ tác ra ngoài học hỏi, hằng ngày chỉ còn trò nghiên cứu gà vịt cá do nhà bếp làm – trâu có một trăm linh tám chiếc xương, gà có một trăm sáu mươi tư chiếc, cá thì chênh lệch nhiều hơn, ví như con cá diếc hôm nay, đừng tưởng cá diếc lắm xương, thực ra nó đều có quy luật phân bố cả, ta dạy công công một cách nhé, tuyệt chiêu độc môn của ta đấy, bí truyền bí truyền, chính là thịt lưng cá có thể chia lớp mà gỡ ra, đương nhiên thao tác rất quan trọng…”

Mọi người vừa nghe gã huyên thuyên, vừa uống rượu cười đùa, không khí trên tiệc khá vui vẻ, chẳng bao lâu đã dẹp hết những lời thảo luận liên quan đến việc vương phi mất tích, biến thành một buổi họp mặt chè chén. Hoàng Tử Hà thấy vẻ mặt Vương Uẩn có phần bất đắc dĩ, song nhìn chung vẫn miễn cưỡng rặn ra được nụ cười.

Chẳng rõ ai lại khơi mào, “Hôm nay trong kinh đang đồn ầm lên, mọi người có nghe không?”

“Đồn cái gì?” Tất cả liền hỏi.

“Đồn đại về Kỳ Lạc quận chúa đó.”

Mọi người dĩ nhiên biết Kỳ Lạc quận chúa xưa nay vẫn tự cho mình là Quỳ vương phi tương lai, song cuối cùng lại không được thỏa nguyện, đều mỉm cười đầy ẩn ý, ồ lên một tiếng.

Cẩm Nô cười nói, “Ôi chao, quả là không khéo. Nói ra thì, hôm qua thiếp đến đàn tỳ bà hầu thái phi, vừa khéo gặp Kỳ Lạc quận chúa trong cung.”

“Té ra lúc vương phi mất tích, Kỳ Lạc quận chúa cũng ở trong cung?” Thôi Thuần Trạm hỏi.

“Đúng thế, nghe nói quận chúa đến chép kinh giúp thái phi. Nghe nói trước đây nàng ấy đã đút lót cho các cung nhân thân cận của người nên mới nhận được việc này. Quỳ vương gia cứ mười ngày lại vào cung thỉnh an thái phi một lần, đến lúc đó nàng ấy có thể bắt chuyện.”

Mọi người đều cảm thán, “Quả là si tình mà.”

“Hơn nữa nghe nói nàng ấy cũng tỏ rõ thái độ với thái phi tình cảm của mình dành cho Quỳ vương, thái phi có ý tác hợp. Tiếc rằng cuối cùng vận mệnh an bài, Quỳ vương không đến lượt nàng ta. Từ khi Quỳ vương và Vương cô nương định ngày thành hôn, nàng ấy cũng lấy cớ bị ốm, một dạo không vào cung nữa, nào ngờ hôm qua lại vào, vừa gặp lúc vương phi mất tích. Sau khi xảy ra chuyện, nghe nói Kỳ Lạc quận chúa còn đích thân đến điện Ung Thuần ngó nghiêng…” Cẩm Nô kể, đoạn lấy cây tỳ bà che miệng cười, “Thiếp cũng theo đến xem, nói đùa chứ, vẻ mặt quận chúa lúc đó thực là như trút được gánh nặng, cầu được ước thấy.”

“Phải đó, trong kinh đồn rằng Quỳ vương phi sẽ mất tích trước ngày thành hôn, người thích nghe tin đồn này nhất chính là cô ta chứ ai.” Ngoại trừ Vương Uẩn, cả đám đàn ông ngồi quanh đều cười khanh khách, dẫu Vương Uẩn sờ sờ ở đó, họ cũng không giấu nổi thú ngồi lê đôi mách.

Hoàng Tử Hà bất lực nhìn bọn họ, thầm điểm qua mọi điều về Kỳ Lạc quận chúa một lượt rồi tạm ghi nhớ trong lòng. Ngẩng lên thấy giữa cả bàn tiệc ồn ào, Vương Uẩn vẫn chăm chú nhìn mình, dưới ánh đèn, chỉ thấy y da dẻ như ngọc, tóc đen như nhung, gương mặt đứng đắn, phong thái nghiêm túc. Giữa nam nhân không nên thân, y càng lộ rõ vẻ xuất chúng, từ đầu đến chân toát ra phong độ cao quý của con cháu quý tộc thời Tấn cùng khí chất siêu phàm thoát tục hơn hẳn mọi người.

Cảm thấy hàng mi giật lên một cái như có ai đó cầm kim chích vào mi mắt, Hoàng Tử Hà vội quay đầu né tránh ánh mắt y, làm bộ điềm nhiên cùng Chu Tử Tần nghiên cứu cấu tạo xương cá.

Tới khi cơm no rượu say thì đã đến đầu giờ Dậu. Tiểu nhị đến thêm nến, Cẩm Nô lại ôm tỳ bà so dây tấu một khúc sau cùng.

“Ôi chà, thời tiết này đúng là rầu cả người.” Cẩm Nô gảy thử mấy âm, bất lực nói, “Cả ngày mưa rả rích, dây đàn lại lỏng, còn thêm ẩm thấp, tiếng càng chẳng ra gì.”

Hoàng Tử Hà quay lại hỏi, “Có cách gì không?”

“Lấy phấn hương thông lau một lượt là được.” Cẩm Nô rút trong ngực áo ra một chiếc hộp tinh xảo, dùng ba ngón tay nhón một nhúm phấn hương thông, xoa kỹ lên trục đàn, lại nói, “Thứ phấn hương thông này quả là đồ trong cung có khác, công công xem, đến hộp đựng cũng đẹp thế này, tôi nhận được phải cho ngay vào ngực áo cất kỹ.”

Hoàng Tử Hà không sao hiểu nổi tâm lý thích khoe khoang của Cẩm Nô, đành ngắm nghía cây tỳ bà, tấm tắc, “Cây Thu lộ hành sương này đẹp ghê.”

“Phải đó, là của sư phụ tôi cho mà. Đời này kiếp này tôi chỉ dùng nó thôi, những cây khác tôi gảy không quen, vì thế tay và động tác của tôi chỉ phù hợp với nó.” Cẩm Nô mỉm cười, nhón phấn hương thông lau một hồi thật lâu, đôi mày khẽ cau, nhưng lập tức lại nhoẻn miệng cười, ôm cây tỳ bà vào lòng, dùng móng ngọc gảy gảy dây đàn, tiếng nhạc vui vẻ linh hoạt tuôn ra.

Khúc đàn dứt, Thôi Thuần Trạm bèn nâng chén chốt lại, “Ơn vua mênh mông, gắng gánh trọng trách. Các vị ngồi đây, chúng ta nhất định phải dồn toàn bộ lực lượng phá cho được án này để khỏi phụ sự coi trọng của bệ hạ điện hạ và Quỳ vương, hy vọng mọi người đều có thể tích cực hiến kế, sớm ngày kết án, đặng báo hoàng ân!”

Bữa ăn bằng tiền công quỹ lần này đến đây là kết thúc.

Người của Đại Lý Tự tính tiền, sau khi tiễn hai vị đại nhân Thôi Thuần Trạm và Vương Uẩn, quanh bàn chỉ còn lại Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà và Cẩm Nô bấy giờ đang xếp lại cây tỳ bà.

Chu Tử Tần nhìn mấy món ăn còn chưa động đũa trên bàn, gọi tiểu nhị lại bảo, “Có thứ gì như lá sen không? Gói con gà nướng, cá nướng và đĩa móng giò kia lại cho ta.”

Cẩm Nô phì cười, “Té ra lời đồn trong kinh đúng thực, Chu tiểu gia quả là tiết kiệm.”

“Gà vịt thịt cá cũng có tôn nghiêm, đời nào lại cam lòng để thế cho biến thành nước gạo chứ?” Chu Tử Tần chẳng hề phật ý, cười nói, “Cái trước mặt cô đó, phải, chính là đĩa anh đào đó, cô gói lại giúp ta.”

“Anh đào cũng có tôn nghiêm ư?” Cẩm Nô nhìn mấy ngón tay trắng nõn của mình, miễn cưỡng đổ anh đào lên lá sen gói lại đưa cho Chu Tử Tần, đoạn cau mày, “Ôi chao, mấy quả anh đào chết giẫm này cuống cứng quá, đâm cả vào tay tôi rồi.”

“Ta biết cô tay mềm, nhưng ai ngờ đến anh đào mà cô còn sợ đâm đau. Cảm ơn cảm ơn.” Chu Tử Tần tiện miệng nói, dùng dây buộc túm cả lại, xách lên theo hai người đi ra.

Hoàng Tử Hà cố ý đi chậm lại phía sau, khẽ hỏi Cẩm Nô bấy giờ đương mải xoa tay, “Cẩm Nô cô nương, xin hỏi lúc nào cô rảnh, ta có thể đến chơi chăng?”

“Ồ, Dương công công cũng hứng thú với tỳ bà sao?” Biết rõ là hoạn quan, song Cẩm Nô vẫn theo thói quen đẩy đưa, nhẹ nhàng mà yểu điệu.

Hoàng Tử Hà đáp, “Có vài chuyện muốn hỏi cô.”

“Về sư phụ tôi ư?” Cẩm Nô hỏi.

Hoàng Tử Hà hoàn toàn không hứng thú với sư phụ nào đó, chỉ cười nói, “Đương nhiên là về… các tỷ muội khi trước của cô, mấy người ngưỡng mộ Quỳ vương gia đó.”

“Đến thăm thì được, mời Quỳ vương gia đích thân đến hỏi, tôi nhất định sẽ chỉ ra là cô nào ngưỡng mộ gia.” Cẩm Nô thổi thổi bàn tay, nhoẻn cười, “Được rồi, tôi đi trước đây.”

“Cẩm Nô cô nương.” Hoàng Tử Hà ngăn nàng lại, hỏi khẽ, “Hôm ấy trên gác Bồng Lai, cô từng nói một câu khiến ta chú ý…”

“Gì cơ?” Cẩm Nô ngây ngô vô tội nhìn Hoàng Tử Hà.

“Cô nói, vương phi sao có thể là… cô ta.” Hoàng Tử Hà ghé tai nói, giọng rất khẽ, nhưng từng câu từng chữ đều hết sức rõ ràng.

Nét mặt Cẩm Nô tức thì cứng lại, trợn trừng mắt nhìn Hoàng Tử Hà hồi lâu mới cụp mắt xuống đáp, “Công công đừng nói ra ngoài, kẻo tôi lại mang tội. Thực ra tôi chỉ… chỉ cảm thấy Kỳ Lạc quận chúa có tướng vương phi hơn, nên mới thuận miệng nói thế thôi.”

Hoàng Tử Hà còn định gặng thêm thì Cẩm Nô đã vội vã đi vòng qua, bước lên một cỗ xe ngựa cạnh đó, bảo gã phu xe, “Còn không quay về thì giới nghiêm mất, mau đi thôi!”

Hoàng Tử Hà bất lực nhìn cỗ xe đi xa dần, lòng thầm tính toán xem phải làm sao mới tạo được cơ hội tiếp cận hỏi han lần nữa.

Xe ngựa nhà họ Chu đang đợi sẵn trước cửa, Chu Tử Tần đứng trước cửa xe hỏi cô, “Sùng Cổ, định về thế nào đây?”

Hoàng Tử Hà tiện miệng đáp, “Tôi thuê xe về Quỳ vương phủ.”

“Ta tiện đường, để ta đưa công công.” Gã làm hiệu cho cô lên xe.

Hoàng Tử Hà phì cười hỏi, “Tiện đường chỗ nào? Quỳ vương phủ ở phía Bắc, nhà công tử phía Tây mà.”

“Giờ ta đâu có về nhà.” Gã nói đoạn ra hiệu cho cô lên, tên đánh xe chẳng đợi ra lệnh đã thành thạo cho xe lăn bánh, nhằm hướng hồ Khúc Giang ở phía Bắc mà đi.

Thành Trường An đã tối mịt, trăng mới ló, tiếng người vừa lặng. Bên ngoài bờ tường hồ Khúc Giang, trên con đường lổn nhổn sỏi đá ven sông, có mấy tên ăn mày đang sưởi ấm, hoặc đứng hoặc ngồi, kẻ nào kẻ nấy đều gầy trơ xương.

Xe ngựa dừng lại, Chu Tử Tần nhảy xuống, đặt mấy gói đồ ăn trong tay lên chiếc bàn đá cạnh bờ sông, còn mở cả gói gà nướng ra, rồi quay về xe.

Gã đánh xe theo lệnh đánh xe đến Quỳ vương phủ trước.

Hoàng Tử Hà vén rèm xe lên, nhìn ra phía sau.

Đám ăn mày bị mùi thơm ngào ngạt hấp dẫn, xúm đông xúm đỏ quanh chiếc bàn đá vui sướng ăn ngồm ngoàm, tên nào tên nấy đều hân hoan.

Hoàng Tử Hà không khỏi nở nụ cười, “Thực không nhìn ra ngoài nghiên cứu thi thể, công tử còn làm những việc thế này nữa.”

“Ồ, chỉ tiện thể thôi mà.” Gã thờ ơ xua tay.

Dọc phố treo hàng dãy đèn lồng, chiếu sáng rực mặt đường. Xe ngựa lóc cóc băng qua mấy con phố dài, thỉnh thoảng lại có chút ánh sáng lọt qua rèm xe lờ mờ rọi vào trong. Nụ cười vô tư của Chu Tử Tần thoắt ẩn thoắt hiện dưới ánh đèn, toát lên vẻ dịu dàng mà đơn thuần, đầy sự hồn nhiên của thiếu niên.

Hoàng Tử Hà bất giác chạnh lòng thương cảm. Thầm nghĩ nếu kẻ từ nhỏ đã chứng kiến quá nhiều thủ đoạn tàn nhẫn, tâm địa hiểm độc như mình gặp được người như Chu Tử Tần sớm hơn, không chừng tấm lòng sẽ bớt đôi phần cứng rắn.

Về đến Quỳ vương phủ đã sắp canh hai. Hoàng Tử Hà múc nước tắm rửa, lại giặt quần áo phơi phóng xong xuôi, tới khi đi ngủ thì đã quá canh ba.

Các hoạn quan khác đều phải chen chúc hai ba người trong một gian phòng, chỉ mình cô được Lý Thư Bạch dặn dò trước nên một mình một phòng, chẳng phải lo lắng điều gì, tha hồ yên tâm ngủ. Nào ngờ trời vừa tảng sáng đã có người đập cửa thình thình, “Dương Sùng Cổ! Dậy mau, dậy mau!”

Hoàng Tử Hà đầu óc còn đương mơ màng, nhỏm nửa người dậy, “Ai thế? Có chuyện gì vậy?”

“Vương gia có lệnh, gọi ngươi lập tức đến cửa cung Đại Minh đợi sẵn.”

Hoàng Tử Hà vỗ trán thở dài, khổ không kể xiết, “Vương gia hẳn đang lên chầu chứ?”

“Hôm nay bệ hạ không được khỏe, đã bỏ buổi chầu sớm nên gia bảo ngươi đến đó đợi. Ai da, một tiểu hoạn quan như ngươi quản việc của gia làm gì? Ngươi cứ tới đó là được rồi.”

“Vâng vâng vâng…”

Hối hả chạy đến cung Đại Minh thì mặt trời đã lên cao. Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa cung trò chuyện với một người Hồi Hột, hai người dùng toàn tiếng Hồi Hột chẳng ai hiểu gì, nói chuyện rất vui vẻ.

Hoàng Tử Hà đứng bên cạnh Lý Thư Bạch, người Hồi Hột kia trông thấy cô bèn xì xồ gì đó, song Lý Thư Bạch chỉ cười cười, rồi nói vài câu dạng như từ biệt, ra hiệu cho Hoàng Tử Hà theo mình lên xe ngựa.

Hoàng Tử Hà ngồi trong xe, nhìn y nhắm mắt dưỡng thần, khóe môi còn thấp thoáng nụ cười, không nén được tò mò hỏi, “Vừa rồi các vị nói gì vậy?”

Lý Thư Bạch mở mắt nhìn cô, “Ngươi sẽ không muốn biết đâu.”

Hoàng Tử Hà cảm thấy câu này đi kèm với vẻ mặt như cười mà không phải cười của y, chính là ý nói “mau nài nỉ ta đi, mau gặng hỏi ta đi”. Để làm vui lòng chủ nhân, cô đành hỏi gặng, “Rốt cuộc nói chuyện gì vậy?”

“Hắn nói tên tiểu hoạn quan này hay đấy, bừng bừng anh khí, song vẫn không mất bản sắc nam nhi.”

“Quả nhiên tôi không nên hỏi…” Hoàng Tử Hà cứng họng quay đầu nhìn ra bên ngoài, “Chúng ta đi đâu đây?”

“Chẳng phải nói vụ án vẫn không có manh mối gì ư? Ta giúp ngươi tìm lấy một manh mối.”

Hoàng Tử Hà sáng mắt lên, “Ngạc vương phủ ư?”

Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Một mình ngươi đi có lẽ không tiện, nên ta đi với ngươi.”

“Ồ, nghe nói Ngạc vương gia đã thu nhận Trần Niệm Nương, tôi nghĩ tất cả manh mối hiện giờ đều phải trông vào Phùng Ức Nương quá cố, hoặc là, phía Trần Niệm Nương sẽ có manh mối gì đó.”

Cô vừa nói đến đây, cỗ xe bỗng khựng lại rồi dừng hẳn.

Bên ngoài có thị vệ gõ nhẹ vào thành xe, “Bẩm vương gia, Kỳ Lạc quận chúa chặn xe giữa đường, hình như…”

Lý Thư Bạch khẽ cau mày, vén rèm xe lên nhìn ra ngoài, thấy xe ngựa của Kỳ Lạc quận chúa dừng ngay trước mặt, Kỳ Lạc đã nhảy từ trên xe xuống xăm xăm đi về phía này.

Hoàng Tử Hà theo Lý Thư Bạch xuống xe với tâm thế đi xem kịch hay.

Kỳ Lạc quận chúa xưa nay luôn hếch cằm cao ngạo nhìn xuống kẻ khác, nhưng vừa thấy Lý Thư Bạch đã rưng rưng nước mắt nói khẽ, “Tham kiến Quỳ vương điện hạ…”

Kỳ Lạc quận chúa là ái nữ của cố hoàng thúc Ích vương, tính ra còn là họ hàng của Lý Thư Bạch, nên y cũng đáp lễ, “Quận chúa cần gì phải đa lễ.”

“Vương gia, muội nghe nói… gần đây trong kinh rộ lên lời đồn đại về Quỳ vương phi, đều bắt nguồn từ muội cả, hy vọng không làm vương gia thêm phiền não, nếu không muội thực khó yên lòng…” Cặp mắt to tròn như quả hạnh long lanh lệ, nhìn Lý Thư Bạch không chớp, đôi má vốn đầy đặn cũng tóp đi không ít, rõ ràng sau khi Lý Thư Bạch lập phi, cô ta ăn không ngon ngủ không yên.

Lý Thư Bạch chỉ dịu dàng nhìn Kỳ Lạc, giọng nói vẫn điềm nhiên, “Quận chúa không cần lo lắng, Vương Nhược mất tích trong cung là chuyện lạ lùng, song cũng chưa chắc đã không tìm được, đến lúc đó nhất định quận chúa sẽ rửa được mối oan này.”

“Nhưng… Nhưng muội nghe nói, chuyện này là…” Kỳ Lạc nuốt lại bốn chữ “ma quỷ gây ra”, ai oán nhìn Lý Thư Bạch, thẽ thọt, “Muội nghe người trong kinh nói, những điểm quái dị trong chuyện này thần bí khó lường. Vương Nhược có lẽ, có lẽ đã không còn trên đời nữa rồi.”

Hoàng Tử Hà đứng phía sau lặng lẽ quan sát cô gái đương ra sức làm bộ đáng thương, song nhìn thế nào cũng không giấu được vẻ hí hửng, thầm nghĩ dẫu sao cũng là kẻ được nuông chiều từ nhỏ, vĩnh viễn không hiểu được cách quan tâm người khác và nhận định tình hình, tính tình thẳng ruột ngựa như vậy, khiến người ta chỉ thoáng nhìn đã thấy cả lục phủ ngũ tạng, rốt cuộc đây là điểm đáng yêu hay đáng ghét của quận chúa?

Lý Thư Bạch vẫn vờ như không biết, cứ dịu dàng đối đáp, nét mặt chẳng khác nào non xa nước gần trong tranh thủy mặc, giữa vẻ mịt mù lảng bảng chỉ thấy ôn hòa nhã nhặn. Y điềm đạm an ủi Kỳ Lạc quận chúa, nhưng Kỳ Lạc quận chúa lại càng được thể, nước mắt oan ức mỗi lúc một nhiều, tuôn rơi lã chã.

Lý Thư Bạch đã ngán ngẩm lắm rồi song rốt cuộc vẫn giơ tay lau nước mắt cho Kỳ Lạc quận chúa.

Cuối cùng, Hoàng Tử Hà đành làm tròn phận sự, từ phía sau lên tiếng nhắc nhở, “Vương gia, Cảnh Dục đã đến Ngạc vương phủ thông báo từ lâu, e rằng bây giờ Ngạc vương gia đang đợi, gia xem…”

Lý Thư Bạch gật đầu, lại nói với Kỳ Lạc quận chúa, “Ta đi đây. Quận chúa cứ yên tâm, mọi chuyện đều có ta lo liệu.”

Kỳ Lạc quận chúa đứng lặng bên đường nhìn theo Lý Thư Bạch, mãi tới khi xe ngựa của y đi khuất thật lâu, lại thêm đám thị nữ bên cạnh tỉ tê khuyên giải, mới quay trở lại xe.

Hoàng Tử Hà nhìn qua khe rèm trông thấy hai cỗ xe quay lưng đi ngược chiều nhau, không khỏi đưa mắt nhìn Lý Thư Bạch.

Lý Thư Bạch lạnh nhạt hỏi, “Cảm thấy ta không nên cho cô ấy quá nhiều hy vọng, nên cương quyết hơn nữa, để cô ấy nản lòng ư?”

Hoàng Tử Hà không đáp, song biểu hiện trên mặt đã rõ rành rành.

“Trước đây, khi tiên hoàng băng hà, chỉ có cô ấy từng nắm lấy tay ta, an ủi ta.” Y ngả người ra tấm đệm gấm đằng sau, nét mặt bình thản, vẫn giữ nguyên vẻ xa cách và ôn hòa như trang thủy mặc khi nãy, “Kỳ Lạc là một cô gái tốt, có điều không thông minh cho lắm.”

“Thế nên gia đã làm lỡ một cô gái tốt, giờ còn khiến cô ấy mang tiếng xấu khắp kinh thành.”

Y liếc cô, rồi lặng thinh không nói suốt dọc đường. Nước trong chiếc bình lưu ly treo trên vách xe sóng sánh theo nhịp tròng trành của xe ngựa, con cá nhỏ bên trong dường như đã quen với trạng thái này, lặng lẽ nằm yên dưới đáy bình, không hề hoảng hốt.

Hồi lâu cô mới nghe tiếng Lý Thư Bạch hỏi, “Ngươi có biết cô ấy mang bệnh từ lúc sinh ra, không sống nổi đến hai mươi không?”

Thấy Hoàng Tử Hà kinh ngạc nhìn mình, song y chỉ chăm chú nhìn con cá nhỏ trong bình, kể bằng giọng đều đều, “Năm xưa Ích vương tuy chỉ có họ xa nhưng Văn Tông hoàng đế không con nối dõi đã triệu ông ấy về triều phong vương để chuẩn bị đăng cơ. Nếu như cung đình không xảy ra đấu đá thì Ích vương đã là chủ thiên hạ.

Hậu duệ của dòng dõi thiên tử cũ nhất định phải bị tuyệt diệt. Giờ Ích vương đã qua đời, các huynh đệ của Kỳ Lạc cũng mất cả, chỉ còn cô ấy trơ trọi một mình, bằng không ngươi nghĩ vì sao khi phụ hoàng qua đời, cô ấy lại dám nắm tay ta?”

Hoàng Tử Hà nín lặng, miên man nghĩ đến thiếu nữ tính tình cương liệt đang làm trò cười cho mọi người trong kinh, lại mường tượng mãi đôi gò má bầu bĩnh cùng cặp mắt như quả hạnh ấy. Hồi lâu, cô mới hỏi khẽ, “Kỳ Lạc quận chúa có biết không?”

“Ta nghĩ cô ấy hẳn cũng biết tình hình của mình không ổn, nhưng chắc không ngờ lại nhanh như thế.” Lý Thư Bạch từ từ nhắm mắt lại, nói, “Cứ để cô ấy phách lối làm càn, ảo tưởng thêm mấy ngày thì có sao, sau này dù có muốn quấy rầy ta, cũng chẳng còn cơ hội nữa rồi.”

Trâm – Nữ Hoạn Quan

Trâm – Nữ Hoạn Quan

Status: Completed Author:

Thời xưa, người nào muốn bán mình thì cắm một cọng cỏ lên đầu làm dấu, ai muốn mua trông thấy sẽ hỏi và ra giá - Câu chuyện này xảy ra vào cái thời xa xưa ấy, khi Đại Đường bắt đầu điệu tàn và muôn vẻ phồn hoa sắp lìa bỏ Trường An...

Một thiếu nữ có tài phá án bỗng bị vu là sát nhân và bị săn đuổi khắp giang hồ. Đội trên đầu bóng tối của cáo thị truy nã, gánh trên vai khối nặng phỉ nhổ của cả thiên hạ, lại đi truy nã tội phạm, cô đã phải cải trang thành hoạn quan, hầu hạ bên mình vương gia, chờ cơ hội tìm ra hung thủ giết chết cả gia đình. Không ngờ, cô tiếp tục bị cuốn vào vụ án vương phi mất tích đầy bí ẩn.

Những cái chết dồn dập, kẻ trúng độc, người mất đầu. Tên hung thủ kỳ quái thoắt ẩn thoắt hiện. Nghi vấn về thân thế vương phi. Tất cả manh mối xung đột lẫn nhau, như những sợi chỉ rối beng chờ người tháo gỡ. Sử dụng hai thủ pháp phá án chính là suy luận và giám định pháp y, cô thiếu nữ phải chạy đua với hung thủ để phơi bày chân giả trước khi sự thật bị thời gian tàn phá. Trên đường đua ấy, cô gặp được đồng minh, quen thêm bằng hữu, cũng tái ngộ oan gia, những yêu và hận cũng theo đó đảo chiều, giăng mắc, hoặc dần dần tháo gỡ...

Với kết cấu truyện lồng trong truyện, nhân vật lồng trong nhân vật, sử dụng hai thủ pháp phá án chính là suy luận và giám định pháp y, TRÂM là một đại án mênh mang mà NỮ HOẠN QUAN chính là chìa khoá đầu tiên để tra vào phá giải.

Để lại cảm xúc của bạn

Theo dõi
Thông báo của
guest

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất Được bỏ phiếu nhiều nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận

Options

not work with dark mode
Reset