CUỘC HỌP BẮT ĐẦU VÀO ĐÚNG SÁU GIỜ SÁNG. HỌ mở đầu bằng một cái bảng. Họ đã có Nghi phạm A: Jason Jones, mối quan hệ – chồng. Họ có Nghi phạm B: Aidan Brewster, mối quan hệ – tội phạm xâm hại tình dục trong hồ sơ sống cùng khu phố. Từ đó, họ đưa ra các phương tiện, động cơ và cơ hội.
Phương tiện được để trống, vì họ thiếu thông tin về việc chuyện gì đã thực sự xảy ra với Sandra Jones. Bị giết, bị bắt cóc ? Bỏ chạy ? Không bao giờ nên đưa ra giả thuyết ở giai đoạn sớm như thế này của cuộc điều tra cả, vì thế họ tiếp tục.
Động cơ. Jones có thể giành lại hàng triệu đô anh ta sẽ bị mất đi trong cuộc li dị, thêm nữa là quyền nuôi con gái. Brewster là một kẻ lạm dụng tình dục đã được biết đến, có lẽ đang hành động dựa trên những thôi thúc ấp ủ từ lâu.
Cơ hội. Jones có bằng chứng ngoại phạm trong ngày và giờ nghi vấn, nhưng bằng chứng ngoại phạm này khó mà coi là chặt chẽ. Brewster – không bằng chứng ngoại phạm – nhưng họ có thể liên kết Brewster với Sandra Jones được không ? Vào lúc này, họ không có hộp thư thoại nào, không có e-mail hay tin nhắn văn bản nào liên kết hai người này. Nhưng họ vẫn có địa lợi. Nghi phạm và nạn nhân chỉ sống cách nhau có năm nhà. Một bồi thẩm đoàn có thể thừa nhận một cách hợp lí rằng Brewster và nạn nhân của hắn biết nhau theo cách nào đó. Hơn nữa, còn có ga-ra nơi Brewster làm việc. Có thể Sandra Jones đã đưa xe tới đó sửa – họ định hỏi điều đó ngay sáng nay.
Họ chuyển sang phần tiểu sử. Jones là phóng viên tự do và một ông bố “tận tụy,” anh ta đã cưới một cô dâu dính bầu còn trẻ và chuyển cô ta từ Atlanta, Georgia tới Nam Boston. Anh ta có tài sản hàng triệu đô la từ những nguồn chưa được biết. Anh ta có bất lợi là bị cả Thanh tra Miller và Trung úy Warren cho là “bất hợp tác.” Anh ta cũng có vẻ sùng bái những cái khóa chết và cửa thép quá đáng.
Mặt khác, Brewster là tội phạm xâm hại tình dục có trong hồ sơ, đã từng quan hệ tình dục với một cô gái mười bốn tuổi. Hai năm qua cậu ta có một việc làm và sống ở địa chỉ cố định. Sĩ quan giám hộ của cậu ta thích cậu và đã gọi tới lúc chín giờ tối qua báo cáo là cô không tìm được gì đáng nghi ở căn hộ của cậu. Vậy là một điểm cộng có lợi cho cậu ta.
Bản thân nạn nhân không bị coi là mối nguy hiểm lớn. Một bà mẹ tận tụy và một giáo viên mới, không có tiền sử ma túy, rượu, hay quan hệ phóng đãng. Hiệu trưởng trường cấp hai mô tả cô ta là một người đúng giờ, đáng tin cậy và chu đáo. Chồng cô ta cho là cô ta sẽ không bao giờ từ bỏ con gái. Ngược lại, nạn nhân còn trẻ, sống trong một thành phố tương đối xa lạ, và dường như thiếu sự trợ giúp của bạn thân và/hoặc người thân. Vì thế họ có một bà mẹ ngoài hai mươi xinh đẹp, bị cô lập về mặt xã hội, hầu hết các buổi tối phải một mình cùng với cô con gái nhỏ.
Hiện trường tội ác: không có dấu hiệu bị đột nhập. Không có máu để lại hay dấu hiệu bạo lực rõ ràng. Họ có một chiếc đèn bị vỡ trong phòng ngủ chính, nhưng không có dấu hiệu nó được dùng như một vũ khí hoặc bị phá hoại trong một cuộc vật lộn nghiêm trọng hơn. Họ có một chiếc chăn màu xanh được dùng trong phòng ngủ chính, nhưng ai đó đã nhét nó vào trong máy giặt cùng với chiếc áo ngủ màu tím. Túi xách, điện thoại di động, chìa khóa xe và xe của người vợ đều được tìm thấy ở hiện trường. Quần áo, đồ trang sức hay hành lí đều không bị mất. Xe tải của người chồng đã được lục soát, nhưng không có gì. Hiện nay phòng xét nghiệm đang kiểm tra túi rác của gia đình. BRIC – Trung tâm tình báo khu vực Boston – rất mong được kiểm tra chiếc máy tính gia đình.
Vào phút cuối, D.D. viết thêm: một con mèo màu cam mất tích.
Cô bước lùi khỏi bảng trắng. Tất cả đều đang đọc.
Khi không ai có gì mới để thêm vào, cô đóng nắp bút và quay sang phó chánh thanh tra phòng án mạng.
“Đến giờ Sandra Jones đã mất tích được hơn hai mươi bốn giờ rồi,” D.D. kết luận. “Cô ta không xuất hiện ở bất kì một bệnh viện hay nhà xác nào tại địa phương. Cũng không có hoạt động nào trên thẻ tín dụng hay tài khoản ngân hàng
của cô ta trong thời gian ấy. Chúng tôi đã lục soát ngôi nhà, vườn, hai chiếc xe và khu phố của cô ta. Cho đến giờ, chúng tôi không có chút manh mối nào về vị trí của cô ta.”
“Điện thoại di động ?” phó chánh thanh tra hỏi.
“Chúng tôi đang làm việc với nhà cung cấp viễn thông để thu về một danh sách hoàn chỉnh tất cả các tin nhắn thoại và tin nhắn văn bản đã bị xóa, cũng như danh sách các cuộc gọi đến và đi. Trong vòng 24 giờ qua, hoạt động trên điện thoại của cô ta chủ yếu giới hạn trong vị trí giáo viên của cô ta, với rất nhiều đồng nghiệp và học sinh cố gắng tìm kiếm cô ta.”
“E-mail ?” Clemente gợi ý.
“Ngày hôm qua chúng tôi đã không lấy được lệnh tịch thu chiếc máy tính của gia đình. Thẩm phán lập luận rằng Sandra Jones chưa bị mất tích trong thời gian đủ lâu. Chúng tôi sẽ xin lại lệnh vào sáng nay, khi đã qua mốc 24 giờ đối với các cá nhân mất tích.”
“Chiến lược là gì ?”
D.D. hít một hơi dài, nhìn Thanh tra Miller. Họ đã nói về chuyện này lúc năm giờ sáng nay khi họp lại sau giấc ngủ ngắn cực kì cần thiết. Vượt qua mốc 24 giờ vừa là điều tốt nhất vừa là điều tệ nhất xảy ra cho họ. Một mặt, họ có thể chính thức mở cuộc điều tra trường hợp Sandra Jones. Mặt khác, tỉ lệ tìm được người phụ nữ nói trên vừa mới giảm xuống còn một nửa. Trước đó, họ có cả cơ hội lớn. Giờ, họ có một cuộc rượt đuổi với thời gian, và mỗi một phút Sandra lones vẫn còn mất tích chỉ càng làm tình trạng bất hạnh và u ám thêm.
Họ cần phải tìm được cô ta. Trong vòng 12 giờ tới, hoặc rất có thể họ sẽ đào lên một cái xác.
“Chúng tôi tin là ta có hai hướng hành động hợp lí,” D.D. báo cáo. “Một, chúng tôi tin rằng đứa trẻ, Clarissa Jones, có thể có thông tin về chuyện gì đã xảy ra ở nhà cô bé đêm hôm đó. Chúng tôi cần phải buộc Jason Jones chấp thuận một cuộc phỏng vấn tâm lí để chúng tôi có thể quyết định Clarissa biết những chi tiết gì.”
“Làm sao cô làm được việc đó ?”
“Chúng tôi sẽ bảo anh ta là hoặc anh ta cho chúng tôi phỏng vấn Clarissa hoặc chúng tôi sẽ tuyên bố căn nhà là hiện trường tội ác và buộc anh ta và Clarissa phải rời khỏi đó. Chúng tôi tin rằng với mong muốn duy trì một môi trường ổn định cho con mình, anh ta sẽ đồng ý với cuộc phỏng vấn.”
Clemente nhìn vào cô. “Sẽ không thế nếu anh ta tin rằng con gái anh ta có thể nói ra những chi tiết buộc tội anh ta.”
D.D. nhún vai. “Dù thế nào, chúng ta cũng có được thông tin trước đây không có.”
Clemente cân nhắc việc này. “Đồng ý. Hướng hành động thứ hai ?”
Cô hít một hơi thở sâu khác. “Trong tình trạng thiếu đầu mối hiện nay, chúng tôi cần phải yêu cầu sự giúp đỡ từ công chúng. Đã qua hai mươi bốn giờ rồi. Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sandra Jones. Khả năng tốt nhất của chúng tôi là đưa công chúng vào cuộc. Để hoàn thành nhiệm vụ này, chúng tôi muốn thành lập một đội hành động chính thức để xử lí vô số câu hỏi sẽ tới. Chúng tôi cũng cần hợp tác với các phòng ban thực thi pháp luật khác để xác định những người đứng đầu đội tìm kiếm ở địa phương, cũng như những hướng điều tra khác. Cuối cùng, chúng tôi sẽ tiến hành họp báo lúc chín giờ sáng nay, trong đó đưa ra các bức ảnh của Sandra Jones cùng với đường dây nóng cho người cung cấp thông tin. Tất nhiên, một trường hợp như thế này có thể sẽ lập tức nhận được sự quan tâm cấp quốc gia, nhưng một lần nữa, có lẽ việc này sẽ giúp ích cho các nỗ lực của chúng ta.”
Clemente nhìn chằm chằm vào cô nghi ngại.
D.D. thả lỏng khỏi tư thế bình thường của cô đủ để nhún vai. “Khỉ thật, Chuck ạ, sớm hay muộn thì cánh báo chí cũng đánh hơi được chuyện này. Tốt hơn nên làm theo cách của chúng ta.”
Clemente thở dài, cầm tập tài liệu giấy manila trước mặt ông lên, gõ nó vào bàn vài lần. “Các chương trình cáp truyền hình sẽ thích chuyện này lắm.”
“Chúng ta sẽ cần một cảnh sát quan hệ công chúng khôn khéo,” D.D. nhận xét.
“Chín mươi lăm phần trăm ‘manh mối và điều tra’ sẽ là từ những người đàn ông cô đơn đội mũ giấy thiếc và kể những câu chuyện về người ngoài hành tinh bắt cóc con người cho coi.”
“Cũng lâu rồi chúng ta mới lại nghe tin từ họ,” D.D. nói, mặt lạnh băng. “Có lẽ chúng ta có thể cắt cử một sĩ quan thứ hai chỉ để cập nhật địa chỉ của bọn họ.”
Clemente khịt mũi. “Làm như là tôi có khoản ngân sách ấy và họ chịu chuyển đi khỏi tầng hầm nhà mẹ họ vậy.” ông cầm tập tài liệu bằng cả hai tay. “Báo chí sẽ hỏi cô về người chồng. Cô định nói gì ?”
“Vào lúc này chúng tôi đang theo mọi manh mối.”
“Họ sẽ hỏi liệu anh ta có hợp tác điều tra không.”
“Có nghĩa là tôi sẽ gọi cho anh ta lúc tám giờ rưỡi sáng và đề nghị anh ta để chúng ta phỏng vấn cô con gái, chỉ để tôi có thể trả lời có cho câu hỏi đó và tránh cho anh ta khỏi chút khổ sở.”
“Còn tên tội phạm xâm hại tình dục trong hồ sơ ?”
D.D. do dự. “Vào lúc này chúng tôi đang theo đuổi mọi đầu mối.
Clemente gật đầu hiền hậu. “Thế mới là cô gái của tôi. Tôi không muốn nghe bất kì một lời nào chệch ra khỏi câu chuyện đó. Điều cuối cùng chúng ta cần bị rò rỉ ra ngoài là chúng ta có hai nghi phạm đáng nghi như nhau. Điều tiếp theo cô biết, họ sẽ đổ tội lẫn nhau, cung cấp ngay những nghi ngờ hợp lí cho luật sư biện hộ được chỉ định.”
D.D. gật đầu mà không cảm thấy cần phải nói ra rằng Jason Jones đã đi theo con đường đó rồi. Đó là vấn đề khi gặp phải hai nghi phạm, và tại sao họ phải viết mọi thứ lên một chiếc bảng trắng có thể tẩy xóa được thay vì một báo cáo chính thức của cảnh sát. Bởi vi một khi đã có bắt bớ, tất cả các báo cáo của cảnh sát đều trở thành đối tượng bị luật sư biện hộ vạch trần, rồi ông ta có thể đem nghi phạm B ra mà đu đưa trước bổi thẩm đoàn như một kẻ chủ mưu. Thế là, một nguồn nghi ngờ hợp lí, được đưa ra bởi chính cuộc điều tra kĩ lưỡng của vị thám tử nghiêm chỉnh nhất. Đôi khi bạn là kính chắn gió. Đôi khi bạn lại là con bọ.
“Cô nói là họp báo lúc chín giờ sáng à ?” Clemente liếc nhìn đồng hồ, đứng dậy khỏi bàn. “Tốt hơn nên chia ra thôi.”
Ông ta gõ tập tài liệu lên bàn lần cuối cùng, như một thẩm phán ngừng phiên tòa. Rồi, ông ra khỏi cửa trong khi D.D. và Miller, cuối cùng cũng chính thức được trao quyền thành lập đội hành động và gây áp lực với một nghi phạm, lật đật đi làm việc.
*
* *
Điện thoại reo sau 8 giờ sáng một chút, Jason hơi quay đầu, nhìn nó reo vang từ bên kia căn phòng trên một cái bàn nhỏ cạnh cửa sổ. Anh nên ngồi dậy, trả lời điện thoại. Nhưng anh không thể tìm được năng lượng để di chuyển.
Ree đang ngồi trên thảm trước mặt anh, bát Cheerios ăn được một nửa đặt trước mặt con bé, đôi mắt nó dán vào tivi. Con bé đang xem Câu chuyện loài rồng, trước đó là Clifford chú chó khổng lồ lông đỏ, trước nữa là Georgie tò mò. Con bé chưa bao giờ được xem nhiều tivi như nó đã xem trong hai mươi bốn giờ qua. Đêm qua, lời hứa về một bộ phim đã làm nó hứng khởi. Sáng nay, nó chỉ đơn giản mở mắt đờ đẫn giống anh.
Con bé đã không ào xuống nhà lúc 6 giờ 30 để nhảy lên thân hình nằm sấp của anh và hét bằng giọng hân hoan của đứa trẻ bốn tuổi, “Dậy đi ! Dậy đi, dậy đi, dậy đi Baaaaaa ơi ! Dậy. Đi !”
Thay vào đó, anh xuất hiện ở phòng nó lúc 7 giờ, chỉ thấy con bé nằm trên giường mắt mở chong chong, nhìn lên trần nhà như để ghi nhớ hình dáng của những chú chim và bướm đang bay lượn trên mái. Anh đã mở rèm cửa của con bé để đón chào một ngày tháng ba lạnh buốt khác. Lấy ra chiếc áo choàng bằng vài bông màu hồng của nó.
Con bé trèo ra khỏi giường không nói một lời, cầm cái áo, tìm được đôi dép của nó và đi theo anh xuống nhà. Tiếng ngũ cốc rơi ra khỏi hộp nghe to rõ khác thường. Sữa được rót vào chiếc bát hình hoa cúc cũng tạo ra âm thanh khá lớn. Anh đã không chắc họ có chịu nổi tiếng thìa nĩa va chạm không, nhưng bằng cách nào đó họ đã vượt qua được.
Con bé mang bát của nó vào trong phòng sinh hoạt và bật tivi mà không cần hỏi. Như thể nó đã biết anh sẽ không từ chối nó. Và đúng là không thật. Anh không thể nhẫn tâm nói, ngồi cạnh bàn đi, cô gái trẻ. Tivi sẽ làm hỏng đầu óc con đấy, nhóc. Thôi nào, hãy ăn một bữa đàng hoàng.
Vì lí do gì đó, hỏng não dường như chỉ là một bất tiện nho nhỏ so với thứ họ phải đối mặt sáng hôm nay – ngày thứ hai – không có Sandra. Ngày thứ hai không có mẹ của Ree, và vợ anh, người phụ nữ mà 36 giờ trước đã cố tình xóa sạch tài khoản Internet của cô. Người phụ nữ rất có thể đã rời bỏ họ.
Điện thoại lại reo. Lần này, Ree quay sang nhìn vào anh.
Ánh mắt con bé hơi buộc tội. Giống như kiểu: là một người lớn, ba phải biết điều hơn thế.
Vì vậy cuối cùng anh cũng quăng mình khỏi ghế sô pha và đi tới chỗ điện thoại. Tất nhiên đó là Trung úy Warren. “Buổi sáng tốt lành, anh Jones.”
“Không hẳn,” anh trả lời.
“Tôi tin là anh đã có một đêm làm việc hiệu quả.”
“Làm việc phải làm thôi.” Anh nhún vai.
“Con gái anh sáng nay thế nào ?”
“Cô tìm được vợ tôi chưa, Trung úy ?”
“À, chưa.”
“Vậy thì vào thẳng vấn đề đi.”
Anh nghe thấy cô ta hít một hơi dài. “À, vì đã là hơn hai mươi bốn giờ, anh nên biết rằng tình trạng của vợ anh đã được nâng lên thành trường hợp người mất tích chính thức.”
“Cô ấy may mắn làm sao,” anh lẩm bẩm.
“Theo một cách nào đó thì đúng. Giờ chúng tôi có thể mở một cuộc điều tra, và mang theo nhiều nguồn lực vào. Trong đó, chúng tôi sẽ tổ chức một cuộc họp báo lúc 9 giờ sáng để tuyên bố việc vợ anh mất tích.”
Anh cứng người. Cảm thấy những từ ngữ đánh thẳng vào hai mắt anh, một cú đánh mạnh, đau đớn. Anh mở miệng để phản đối, nhưng ngăn mình lại. Anh bóp sống mũi và giả vờ sự nhức nhối trong mắt anh không phải là nước mắt. “Được thôi,” anh lặng lẽ nói. Anh nhận ra là mình cần phải bắt đầu gọi điện thoại. Tìm một luật sư. Bắt đầu lên kế hoạch cho
Ree. Anh nhét điện thoại không dây vào giữa vai và tai chặt hơn nữa và đi vào trong bếp, tránh khỏi tầm nghe thính nhạy của con trẻ.
Anh mở cánh cửa tủ lạnh, thấy mình đang nhìn chằm chằm vào lon Dr Pepper quý giá của Sandra, và lại đóng cửa.
“Tất nhiên,” Trung úy Warren đang nói, “sẽ rất tuyệt vời nếu anh có thể tự mình xuất hiện trước công chúng. Cá nhân hóa trường hợp này và đại loại thế. Chúng tôi có thể tổ chức cuộc họp báo trong sân trước nhà anh. Anh và Ree đều có thể có mặt,” cô ta kết luận một cách thích thú.
“Không, cảm ơn.”
“Không, cảm ơn à ?” Cô ta nghe có vẻ choáng, nhưng họ đều biết là cô ta đang giả vờ.
“Mối quan tâm trước nhất của tôi là dành cho con gái.
Tôi không nghĩ đưa con bé vào vòng quay của báo giới là vì lợi ích của nó. Tôi cũng nghĩ việc các phóng viên đi quanh quẩn trong sân nhà tôi và xâm nhập vào cuộc sống riêng tư của chúng tôi sẽ gây thương tổn cho con bé. Vi thế, tôi nghĩ tốt nhất là tôi ở nhà, chuẩn bị tình thần cho nó trước điều sắp tới.”
“Và anh nghĩ là điều gì sắp tới ?” Trung úy Warren hỏi, rõ ràng đang bẫy anh.
“Cô sẽ cho phát sóng ảnh của vợ tôi trên tivi và báo chí. Ảnh sẽ được sao ra nhiều lần. Người ta sẽ cung cấp và dán ảnh lên khắp thành phố. Những đội tìm kiếm sẽ được tổ chức. Mọi người từ trường của Sandy sẽ tình nguyện. Hàng xóm sẽ ghé qua cho những nồi thịt hầm và hi vọng nghe ngóng được nội tình. Cô sẽ yêu cầu quần áo cho đội chó tìm kiếm. Cô sẽ yêu cầu tóc để kiểm tra ADN, nếu có tìm được thi thể. Cô sẽ đòi một bức ảnh gia đình, bởi vì báo chí sẽ thích cái đó hơn là ảnh cá nhân của Sandy. Rồi xe đưa tin sẽ đậu bên ngoài nhà tôi với đèn hồ quang bật suốt từ lúc 4 giờ sáng. Và cô sẽ phải cắt cử các cảnh sát mặc sắc phục chỉ để ngăn đám đó dừng ngoài chu vi đất của tôi, nơi họ sẽ đứng suốt mười tám trên 24 giờ, gào thét những câu hỏi mà họ hi vọng là tôi sẽ xuất hiện và trả lời một cách kì diệu. Nếu tôi đóng vai trò là người phát ngôn của chính mình, mọi điều tôi nói có thể và sẽ được dùng để chống lại tôi trong phiên tòa. Mặt khác, nếu tôi thuê một luật sư đóng vai trò là người phát ngôn của mình, tôi sẽ có vẻ như đang giấu giếm cái gì đó.
Một đài tưởng niệm sẽ bắt đầu hình thành ở sân trước nhà tôi. Mọi người sẽ đến đặt hoa, ghi chú, gấu teddy, tất cả để dành cho Sandy. Rồi sẽ có những buổi thức đêm thắp nến, trong đó những linh hồn tốt bụng cầu nguyện cho Sandra trở về bình an. Và vài nhà tâm lí học chắc chắn sẽ tình nguyện đưa ra ý kiến của họ. Rồi những cô gái trẻ sẽ bắt đầu gửi thư chia buồn cho tôi bởi vì họ thấy một người gà trống nuôi con là cực kì hấp dẫn, đặc biệt khi tôi có thể đã hãm hại vợ tôi hoặc là không. Tất nhiên, tôi sẽ từ chối những đề nghị trông con miễn phí của họ.”
Có một khoảng lặng dài. “Anh có vẻ hiểu rất rõ quy trình,” D.D. nói.
“Tôi là một thành viên của giới báo chí. Tất nhiên tôi biết rõ quy trình.”
Chúng ta đang vờn nhau, anh lơ đãng nghĩ. Nó làm anh tưởng tượng ra cảnh Trung úy D.D. Warren lượn vòng quanh anh trong một chiếc váy Aamenco hồng nóng bỏng, trong khi anh đứng ở đó với bộ đồ đen kịt, cố làm ra vẻ mạnh mẽ và chịu đựng, mà thực ra là anh không biết cách nhảy.
“Tất nhiên, khi cuộc điều tra đã được khởi động,” thám tử đang nói, “điều quan trọng là chúng tôi có được càng nhiều thông tin cho đội hành động càng nhanh càng tốt. Anh phải hiểu rằng với mỗi giờ trôi qua, tỉ lệ thành công trong việc tìm được vợ anh lại giảm di đáng kể.”
“Tôi hiểu rằng không tìm thấy cô ấy ngày hôm qua tức là chúng ta gần như sẽ không còn tìm được cô ấy nữa.”
“Có muốn nói thêm điều gì không ?” Trung úy Warren lặng lẽ hỏi.
“Không, thưa cô,” anh nói, rồi lập tức ước gì mình đã không nói thế. Anh bắt được chất giọng lè nhè của dân miền Nam lẩn lút vào trong từ ấy, như mỗi khi anh sử dụng cách nói của quê nhà.
Trung úy Warren im lặng một lúc. Anh tự hỏi liệu điều đó có phải là cả cô ta cũng đã nhận ra âm giọng miền Nam ấy không.
“Thú thật với anh,” cô ta đột ngột nói.
Anh rất nghi ngờ điều đó, nhưng cảm thấy không cần phải nói ra.
“Việc chúng tôi phỏng vấn Ree là tối quan trọng. Đồng hồ đang điểm, Jason ạ, và rất có thể con gái anh là nhân chứng duy nhất biết việc gì đã xảy ra với vợ anh.”
“Vậy thì tất nhiên là anh sẽ đồng ý với cuộc hẹn phỏng vấn lúc 10 giờ sáng với một phỏng vấn viên tâm lí chứ. Tên cô ấy là Marianne Jackson và cô ấy rất giỏi.”
“Được rồi.”
Giờ có một sự im lặng như tờ. “Anh đồng ý ?”
“Phải.”
Anh nghe thấy một tiếng thở dài, rồi gần như là viên trung úy không thể ngăn nổi mình: “Jason, hôm qua chúng tôi đã hỏi anh, và anh từ chối. Tại sao lại có sự thay đổi tâm ý này ?”
“Bởi vì tôi lo lắng.”
“Cho vợ anh á ?”
“Không. Con gái tôi. Tôi không nghĩ là nó ổn. Có lẽ nói chuyện với một chuyên gia sẽ có ích cho nó. Tôi không thực sự là một con quái vật, Trung úy ạ. Và tôi có để tâm đến lợi ích tốt nhất của con gái tôi.”
“Vậy thì 10 giờ sáng nhé. Địa điểm trung gian sẽ tốt hơn.”
“Ba ơi ?”
“Cô không cần phải thuyết phục tôi,” anh nói vào điện thoại rồi quay sang và thấy Ree đang đứng ở ngưỡng cửa, nhìn anh đăm đăm bằng bản năng không sai lệch của bọn trẻ khi chúng biết anh đang nói về chúng.
“Sáng nay chúng ta sẽ đi nói chuyện với một cô rất dễ thương,” anh nói, giữ ống nói cách xa miệng mình. “Đừng lo, con yêu, mọi chuyện sẽ ổn.”
“Có tiếng động ở cửa, Ba ạ.”
“Sao cơ ?”
“Có tiếng động. Ở cửa. Ba không nghe thấy à ?”
Lúc đó anh nghe thấy. Tiếng rột roạt, cào cấu, như thể ai đó đang cố vào trong.
“Tôi phải đi,” anh nói với viên thanh tra. Rồi không chờ D.D. trả lời, anh dập ống nghe xuống. “Vào trong phòng sinh hoạt đi. Ngay bây giờ, con yêu. Ba nói thật đấy.”
Anh ra hiệu cho Ree ngồi xuống sàn cạnh ghế sô pha, trong khi đặt mình ở giữa con bé và cánh cửa trước bằng thép nặng nề. Anh nghe thêm nhiều tiếng cào xước nữa và ép người vào bức tường bên cạnh cửa sổ; cố không lộ vẻ sợ hãi trong khi mọi tế bào trong cơ thể anh đều đang rung chuông hoảng loạn. Điều đầu tiên anh chú ý khi nhìn lén ra bên ngoài là chiếc xe cảnh sát không phù hiệu vẫn còn đậu ở vỉa hè; viên cảnh sát theo dõi có vẻ như đang ngồi yên, vẫn đang uống cà phê buổi sáng. Điều tiếp theo Jason chú ý là anh không thấy dấu hiệu nào của con người ở bên ngoài cửa sổ hết
Nhưng anh lại nghe thấy âm thanh ấy. Rột roạt, rào rạo, và rồi..
“Meoo.”
Ree bật dậy.
“Meooo.”
Ree lao ra cửa. Con bé di chuyển nhanh hơn anh có thể tưởng tượng, tóm lấy nắm đấm cửa bằng những ngón tay cuống quýt, và vặn, vặn, vặn trong khi anh muộn màng khóa. Họ cùng nhau mở được cửa.
Ree mở toang cánh cửa và ông Smith lướt vào trong nhà. “Mieo”
“Ông Smith, ông Smith, Ông Smith !” Ree quàng hai tay quanh con quái vật màu đồng-cam, ôm siết, ông Smith kêu lên phản đối.
Con bé vội thả nó ra cũng nhanh như lúc ôm vào, lao mình ra cửa và oà khóc. “Nhưng con muốn Mẹ cơ !” con bé gào khóc ai oán. “Con muốn Mẹ !”
Jason ngồi xuống sàn. Anh kéo con gái lên đùi. Anh vuốt mái tóc xoăn sẫm màu của nó và ôm nó trong lúc nó khóc.